Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động giáo dục cho giáo viên nhằm đổi mới giáo dục trong trường THPT Triệu Quang Phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.87 KB, 36 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
CHO GIÁO VIÊN NHẰM ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TRONG TRƯỜNG
THPT TRIỆU QUANG PHỤC”
MỤC LỤC
“BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CHO GIÁO VIÊN NHẰM
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TRONG TRƯỜNG THPT TRIỆU QUANG PHỤC” 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
PHẦN I: MỞ ĐẦU 5
I.1. Đặt vấn đề 5
I.1.1. Lý do chọn đề tài 5
I.1.2. Ý nghĩa thực tiến và khoa học của đề tài 6
I.1.3. Đối tượng nghiên cứu: 7
I.1.4. Phương pháp nghiên cứu: 7
I.2. Phương pháp tiến hành 7
I.2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 7
I.2.2 Những khó khăn chính ảnh hưởng tới khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục của
GV trong trường phổ thông nói chung 7
I.2.3. Thực trạng về khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường THPT Triệu
Quang Phục 9
PHẦN II: NỘI DUNG 10
II.1. Mục tiêu của đề tài 10
II.2. Một số biện pháp nhằm bồi dưỡng năng lục tổ chức các hoạt động cho GV trong trường
THPT Triệu Quang Phục 10
II.2.1. Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động dạy học 10
II.2.2. Bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động GDNGLL 20
II.2.3. Bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động ngoại khóa 25
II.3. Kết quả đạt được 29
PHẦN III. KẾT LUẬN 33


III.1. Bài học kinh nghiệm: 33
III.2. Hướng phát triển của đề tài: 34
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CSVC : Cơ sở vật chất
GDNGLL : Giáo dục ngoài giờ lên lớp
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
PPDH : Phương pháp dạy học
TDTT : Thể dục thể thao
THPT : Trung học phổ thông
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1. Đặt vấn đề
I.1.1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay mọi quốc gia trên thới giới đều nhận thức được vai trò then chốt của giáo
dục và đào tạo trong việc xây dựng chiến lược con người nhằm củng cố an ninh – quốc
phòng, phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đất nước.
Ở Việt Nam, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ mục tiêu là
“Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” Để
thực hiện được mục tiêu đó, cần phải đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chuẩn hưng
nền giáo dục Việt Nam làm cho giáo dục và đào tạo cùng khoa học và công nghệ thực sự
là quốc sách hàng đầu.
Ngày 4 tháng 11 năm 2013, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã ký ban hành
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-
NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã nhận đình: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.”
Mục tiêu của Nghị quyết đó là tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,

hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có
cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.
Để đạt được mục tiêu đó, một trong những giải pháp đã được đề ra là phát triển đội
ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục và đào tạo.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong quá trình CNH-HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế, vì vậy có sự biến đổi nhảy vọt về trình độ khoa học và công nghệ và cơ
sở vật chất kỹ thuật. Giáo dục và đào tạo đang có nhiều cơ hội đồng thời cũng phải đối
mặt với những thách thức mới. Ngành giáo dục và đào tạo của cả nước nói chung và của
từng địa phương nói riêng phải tìm ra phương hướng và giải pháp để đạt được mục đích
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Để đáp ứng những
biến đổi to lớn không ngừng xảy ra trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa
và xã hội … vai trò và chức năng của người GV càng nặng nề hơn.
Từ yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, hoạt động của GV trong các trường
THPT phải hướng tới giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học
tập thụ động, ghi nhớ máy móc; Phải đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, từ dạy học
hướng vào người dạy sang dạy học hướng vào người học (người học là trung tâm, là chủ
thể của nhận thức và hành động); Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học làm cho
việc học trở nên sinh động, thân thiện; Gắn việc học tập trong sách vở và nhà trường với
cuộc sống thực tiễn, kinh nghiệm sống của cá nhân người học, giúp cho HS vận dụng
kiến thức đã học trong trường THPT để tiếp tục học cao hơn hoặc để lao động sản xuất.
Yêu cầu đổi mới trong giáo dục THPT hiện nay là việc làm hết sức quan trọng, phải được
áp dụng thường xuyên để có hiệu quả thiết thực.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, mặc dù có sự quan tâm đặc biệt của Đảng,
Nhà nước, nền giáo dục vẫn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Đôi khi, kết quả những
hoạt động giáo dục của GV vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã
hội. Điều đó đòi hỏi các các bộ quản lý giáo dục phải trăn trở suy nghĩ tìm tòi các biện
pháp hữu hiệu để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động giáo dục cho giáo viên nhằm đổi mới giáo dục
trong trường THPT Triệu Quang Phục”
I.1.2. Ý nghĩa thực tiến và khoa học của đề tài
Ý nghĩa quan trọng nhất mà đề tài đưa ra, đó là nâng cao chất lượng tổ chức các
hoạt động giáo dục của GV nhằm đổi mới giáo dục, đào tạo ra những con người có thể
đáp ứng được các yêu cầu của thời kỳ mới.
I.1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về biện pháp nâng cao năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục cho
GV trong trường học, đối tượng chính là GV, nhân viên, HS của trường THPT Triệu
Quang Phục.
I.1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tự luận, nghiên cứu các văn bản, nghị quyết,
chỉ thị về công tác quản lý giáo dục của các cấp.
Ngoài ra còn dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, quan sát và tổng hợp
kinh nghiệm trong công tác quản lý trường học trong những năm gần đây.
I.2. Phương pháp tiến hành
I.2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chất lượng giáo dục là một khái niệm “động”. Người quản lí cần đưa ra câu hỏi:
“chất lượng giáo dục” là gì? Chất lượng giáo dục là cái tạo lên phẩm chất giá trị của một
con người, một sự vật. Như vậy, chất lượng giáo dục là chất lượng con người được đào
tạo từ các hoạt động giáo dục, chất lượng ở đây phải được hiểu theo 2 mặt của một vấn
đề: phẩm chất của con người gắn liền với đòi hỏi của xã hội. Vậy nên người quản lí có kế
hoạch, hợp quy luật của người làm công tác để làm cho hệ thống giáo dục vận hành theo
đúng đường lối và nguyên tắc giáo dục, đó là hội tụ qúa trình dạy học, giáơ dục thế hệ

trẻ, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để thực hiện việc quản lí giáo dục có hiệu quả thì phải tổ
chức mô hình quản lí phù hợp với đặc điểm và điều kiện giáo dục của nước ta nói chung
và của trường mình nói riêng. Bên cạnh đó người quản lí cần phối kết hợp với các tổ
chức các hoạt động đoàn thể khác trong nhà trường. Tổ chức đánh giá, xếp loại các hoạt
động giáo dục, từ đó hoàn thiện việc quản lí, nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động
giáo dục của GV
I.2.2 Những khó khăn chính ảnh hưởng tới khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục
của GV trong trường phổ thông nói chung.
I.2.2.1. Về chất lượng đội ngũ GV.
GV là lực lượng quyết định sự thành bại của quá trình đổi mới PPDH. Tuy hiện nay
chúng ta có một đội ngũ GV phổ thông đã đảm bảo số lượng (nhiều nơi dư thừa), đa dạng
về trình độ, mức sống được đảm bảo khá hơn trước, nhưng trên thực tế đời sống trường
học, chúng ta vẫn thiếu đội ngũ GV có chất lượng để đảm nhận dạy học theo hướng đổi
mới.
Cụ thể, GV còn nhiều bất cập trong nghiệp vụ sư phạm và cách thức tổ chức các
hoạt động tập thể, thể hiện qua các kỹ năng phân tích, lựa chọn kiến thức cơ bản và trọng
tâm; các kỹ năng xác định, lựa chọn và sử dụng PPDH bộ môn; kỹ năng hướng dẫn cách
thức cho HS học tập; kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS theo hướng đổi
mới
Đổi mới giáo dục chẳng những đòi hỏi người GV phải từ bỏ hàng loạt những thói
quen tư duy và thói quen dạy học đã ăn sâu thành nếp qua nhiều năm học mà còn phải
"lao tâm khổ tứ", vất vả tìm hiểu từ những tinh thần đổi mới của ngành, của bộ môn mình
đảm nhiệm nói chung đến những bài dạy, tiết dạy cụ thể. Đây là bước chuyển từ nhận
thức tư tưởng tới hành động thực tiễn, từ đổi mới trên lý luận tới đổi mới trên những công
việc giáo dục thực tiễn hàng ngày. Đây là quá trình hoàn toàn không dễ dàng.
I.2.2.2. Về khả năng của HS.
"HS là chủ thể của nhà trường; là đối tượng của quá trình dạy học, giáo dục; là
chủ thể của quá trình nhận thức…”
Bước sang tuổi HS THPT các chức năng tâm lý, sinh lý của con người có nhiều sự
thay đổi. Đặc biệt là trong quá trình lĩnh vực tư duy, trí tuệ, tình cảm, thế giới quan. Tất

cả cả yếu tố chủ quan và khách quan đó đã ảnh hưởng tới khả năng tự ý thức tự đánh giá
của HS THPT.
Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội hiện đại đã có ít nhiều ảnh hưởng xấu tới sự
nhận thức của các em. Các phương tiện truyền thống, giải trí ngày càng trở lên phổ biến,
điện thoại di động, internet trực tuyến, truyền hình đã làm cho một bộ phận không nhỏ
HS ngày nay mắc bệnh lười học trầm trọng. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng
giáo dục.
I.2.2.3. Về phương tiện và điều kiện để tổ chức các hoạt động .
Với ý nghĩa là hệ thống công cụ hỗ trợ giáo dục, thiết bị giáo dục vừa có ý nghĩa
như một nguồn tri thức cần khai thác, vừa như một điều kiện kích thích tính tích cực ở
người học. Tuy nhiên, trong trường phổ thông ở ta hiện nay, vẫn thiếu trầm trọng các
phương tiện dạy học thông thường cũng như hiện đại. Điều này dẫn đến các hạn chế khi
tổ chức các hoạt động giáo dục.
I.2.3. Thực trạng về khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường THPT
Triệu Quang Phục.
I.2.3.1. Thuận lợi.
Hoạt động giáo dục của nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương,
được sự quan tâm chỉ đạo sâu xắc của Sở giáo dục và đào tạo và các cấp lãnh đạo, hội
cha mẹ HS trong và ngoài trường.
Đội ngũ GV của nhà trường có phẩm đức tốt, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ GV đoàn kết, nhất trí trong toàn trường.
HS đa số là ngoan, không mắc những tệ nạn xã hội
Xã hội ngày càng phát triển, công nghệ thông tin và các phương tiện ngày càng
hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động.
Được sự quan tâm, hỗ trợ từ phụ huynh HS để mọi hoạt động giáo dục trong nhà
trường đạt được hiệu quả tốt nhất.
I.2.3.2. Khó khăn
Một số GV còn thụ động, ngại tiếp xúc và học hỏi những phương pháp, kỹ thuật tổ
chức hoạt động giáo dục mới. Một số GV chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng trong
việc đổi mới toàn diện giáo dục.

HS của nhà trường còn nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, có em thì không được gia
đình quan tâm do bố mẹ phải đi làm ăn xa, không có thời gian chăm lo cho con cái, thậm
trí còn có tư tưởng phó mặc cho GV nên đã ảnh hưởng rất lớn đến ý thức học tập và rèn
luyện của các em.
PHẦN II: NỘI DUNG
II.1. Mục tiêu của đề tài
- Phân tích thực trạng chất lượng giáo dục trong trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục
của GV trường THPT Triệu Quang Phục.
II.2. Một số biện pháp nhằm bồi dưỡng năng lục tổ chức các hoạt động cho GV trong
trường THPT Triệu Quang Phục
II.2.1. Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động dạy học
II.2.1.1. Nâng cao nhận thức của GV về đổi mới PPDH
PPDH lấy học trò làm trung tâm là sự chuyển hướng từ PPDH giáo điều, thụ động
sang PPDH hợp tác, tích cực giữa người dạy và người học.
Vậy, PPDH mới là PPDH nhằm đạt được mục tiêu dạy học của yêu cầu đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông. Phương pháp đó là: thầy là người giữ vai trò chủ đạo,
tổ chức, điều khiển và trọng tài - trò chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức, vận dụng tri
thức một cách sáng tạo trong quá trình dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học có ý nghĩa quan trọng tới: "Phát triển năng lực tư
duy của HS bằng cách tổ chức cho mọi HS động não trong việc tham gia vào quá trình
học tập. Cách tổ chức là cho các em trao đổi, tranh luận với nhau trong khi học"
Đổi mới PPDH một mặt, làm cho tập thể sư phạm cần thống nhất nhận thức: đây là
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục, là hạt nhân của việc thực hiện chương trình,
sách giáo khoa mới, là điều kiện trực tiếp để nâng cao chất lượng giáo dục; mặt khác, cần
coi đây là thách thức đội ngũ mà đội ngũ cần phải đáp ứng, nhưng cũng là cơ hội phát
triển của mỗi GV và của mỗi nhà trường.
Cần coi việc đổi mới PPDH là nhiệm vụ xuyên suốt năm học. Đổi mới PPDH là
một biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học.
Tổ chức thực hiện giờ lên lớp theo hướng đổi mới không chỉ đơn thuần là cung cấp

tri thức cho HS mà phải hướng dẫn HS hoạt động. HS được đặt vào những tình huống
của đời sống thực tế để trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề và
rèn luyện các kỹ năng theo cách của mình. Quản lý giờ lên lớp hiện nay yêu cầu GV phải
chuyển từ việc dạy kiến thức sang việc dạy phương pháp học tập của HS, làm cho GV
nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và hành động theo phương châm: "Người thầy giáo tồi
truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý". Thầy giáo phải là
người chủ đạo tổ chức giờ học, hướng dẫn, gợi mở, đưa HS vào các tình huống có vấn
đề, tổ chức cho HS thực hành, thảo luận, nhập vai, tự nghiên cứu để giải quyết vấn đề;
GV chú trọng rèn luyện cho HS phát triển tự học ngay trong giờ học ở lớp.
* Những định hướng cơ bản của đổi mới PPDH hiện nay:
- Phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của HS;
- Bồi dưỡng phương pháp tự học;
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
* Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tích cực:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của HS;
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học cho HS;
- Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập cá thể, phối hợp với hoạt động học tập
hợp tác
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
* Về hình thức tổ chức:
- Tổ chức cho GV đi học các lớp bồi dưỡng hè do Sở, Bộ tổ chức;
- Tổ chức học tập, nghiên cứu các tài liệu lý luận nghiệp vụ tại tổ, trường;
- Tăng cường nghiên cứu, trao đổi, thảo luận trong nhóm, tổ chuyên môn và vận dụng
giải quyết từng vấn đề theo yêu cầu đổi mới PPDH.
- Tổ chức các đợt học tập xen kẽ, lồng ghép vào các sinh hoạt chuyên môn, rèn luyện
tay nghề hàng tuần, hàng tháng trong tổ chuyên môn hoặc các kỳ hội giảng, thi GV giỏi
các cấp.
* Tổ chức, quản lý công tác đổi mới phương pháp dạy học
+ Tổ chức, quản lý công tác đổi mới PPDH trước hết phải quản lý việc đổi mới

cách soạn giáo án. Một giáo án tốt theo tinh thần đổi mới là giáo án hướng tới HS, lấy HS
làm trung tâm. HS với vai trò chủ động phải được làm việc nhiều hơn, được suy nghĩ
nhiều hơn. GV với vai trò chủ đạo phải là người tổ chức hướng dẫn, điều khiển các hoạt
động, là người cung cấp thông tin, là trọng tài trong các buổi thảo luận để hướng tới
mục tiêu bài học. Kết cấu giáo án phải đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với lôgic môn học,
tiết học và lôgic nhận thức của HS.
+ Quản lý việc đổi mới phương pháp truyền thụ kiến thức, kết hợp thành công giữa
cách dạy mới với cách học mới: Đổi mới PPDH không phải là từ bỏ hoàn toàn cách cũ
mà chính là đưa vào nhà trường các PPDH theo hướng chủ động hoá hoạt động học tập
của HS trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các PPDH truyền thống, trân trọng và phát
triển tối đa khả năng chủ động, sáng tạo, tương tác của GV và HS trong quá trình dạy
học, nhất là phải dạy cho HS biết cách học, cách tự học, cách tổ chức làm việc và cách
cùng làm việc với nhau. Chúng ta có thể định hướng cho GV vận dụng đổi mới một số
PPDH như: "Cải tiến các PPDH truyền thống, kết hợp đa dạng các PPDH, vận dụng dạy
học giải quyết vấn đề, vận dụng dạy học theo tình huống, vận dụng dạy học định hướng
hành động, tăng cường sử dụng phương tiện dạy họcvà công nghệ thông tin trong dạy
học, sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo, tăng cường các
PPDH đặc thù bộ môn, bồi dưỡng phương pháp học tập của HS".
+ Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động chuyên môn theo hướng đổi mới: cho GV tiếp
cận với PPDH mới qua tài liệu, tham quan, học tập kinh nghiệm. Tổ chức các chuyên đề
hội thảo về đổi mới PPDH theo quy trình: nghiên cứu trao đổi về PPDH mới theo từng bộ
môn; xây dựng cách soạn giáo án theo định hướng đổi mới; tổ chức các tiết dạy thể
nghiệm chuyên đề đổi mới PPDH; tổ chức rút kinh nghiệm, đối chiếu giữa lý luận và
thực tiễn để rút ra cách dạy phù hợp; triển khai trên diện rộng.
+ Tổ chức thực hiện đổi mới PPDH cần chú ý:
- Phải đổi mới mục tiêu bài dạy dẫn tới việc đổi mới thiết kế bài lên lớp cũng như
giờ lên lớp.
- Nhận diện đầy đủ các phương thức học tập đa dạng của HS để tổ chức những hình
thức dạy học phù hợp.
- Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá HS cho phù hợp với phương pháp dạy học mới.

- Đổi mới phương tiện dạy học: khuyến khích GV sử dụng phiếu tài liệu, phiếu học
tập, phiếu thực hành giúp tích cực hóa HS, làm cho giờ dạy tăng thêm tính hấp dẫn;
động viên, tạo điều kiện khuyến khích GV làm và sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm;
tăng cường dạy học đa phương tiện; vận dụng công nghệ thông tin vào phục vụ hoạt động
dạy học. Xây dựng đủ các phòng học bộ môn và các phòng chức năng với các trang thiết
bị hiện đại nhằm chuẩn hoá, hiện đại hoá các hoạt động dạy học.
- Tổ chức kiểm tra, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc đổi mới PPDH một
cách thường xuyên, định kỳ. Phải kịp thời biểu dương, khen thưởng xứng đáng các GV
tích cực đổi mới PPDH. Đưa việc thực hiện đổi mới PPDH vào tiêu chuẩn thi đua để việc
đổi mới phương pháp không dừng lại ở mức độ phong trào mà phải trở thành nền nếp
trong hoạt động dạy học của nhà trường.
II.2.1.2. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất.
* Tăng cường thiết bị phục vụ dạy học
Lãnh đạo nhà trường luôn nhận thức được rằng thiết bị phục vụ dạy học có ảnh
hưởng lớn đến chất lượng giờ giảng. Vì vậy, ngoài các thiết bị tối thiểu theo quy định của
Bộ GD&ĐT, năm học qua, nhà trường đã đầu tư mua sắm, trang bị thêm các thiết bị phục
vụ dạy và học như: trang bị cho mỗi tổ chuyên môn 1 máy tính xách tay, hoàn thiện 1
phòng lab hiện đại phục vụ việc dạy và học môn ngoại ngữ. Trong năm tới sẽ đầu tư thêm
phòng máy tính có kết nối Internet tốc độ cao phục vụ việc tự học, tra cứu thông tin và thi
trực tuyến cho HS.
* Đầu tư thêm sách trong thư viện
Hằng năm thư viện được bổ sung sách, báo, tạp chí tài liệu tham khảo, các văn bản
quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập của cán bộ quản lý, GV, nhân
viên và HS, có kế hoạch từng bước xây dựng thư viện điện tử.
II.2.1.3. Tăng cường hoạt động dự giờ, kiểm tra, đánh giá GV
* Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ kiểm tra đánh giá:
Kế hoạch dự giờ được xây dựng dưới nhiều hình thức: Báo trước, không báo trước,
dự giờ song song, dự giờ cả buổi, dự giờ có mời đồng nghiệp cùng dự, dự giờ có sử dụng
công nghệ thông tin…
Để xây dựng kế hoạch dự giờ hiệu quả thiết thực người cán bộ quản lý cần bám sát

phân phối chương trình.
Để xây dựng kế hoạch dự giờ cần dựa trên việc phân loại tay nghề nghiệp vụ sư
phạm GV: đối với GV đầu đàn của trường thì dự tiết nào mà cán bộ quản lý cho là khó
dạy để xem GV tháo gỡ chỗ vướng đó như thế nào? Đối với GV khác cần dự những tiết
chuyển từ dạng bài này sang dạng bài khác xem GV đó có nắm chắc tiến trình lên lớp hay
không? Hay dự tiết dạy lí thuyết, tiết dạy thực hành xem GV đó truyền tải nội dung bài ra
sao? Đối với GV mới cần thường xuyên dự giờ để GV luôn luôn chuẩn bị tâm thế cũng
như ý thức đối với nghề nghiệp hơn.
Để xây dựng kế hoạch dự giờ song song cán bộ quản lý cũng nắm bắt xem cùng một
GV đó thực hiện tiết dạy này của năm trước ra sao? Cùng một tiết dạy này sau khi được
dự giờ đánh giá có sự tiếp thu chỉnh lí như thế nào?
* Thực hiện kế hoạch dự giờ kiểm tra đáng giá:
Dự giờ thường xuyên: Là dự giờ nằm trong kế hoạch xây dựng từ đầu năm học đó
chính là hoạt động kiểm tra toàn diện.
Dự giờ đột xuất: là việc dự giờ không báo trước chỉ nằm trong mục tiêu cần đạt của
cán bộ quản lý. Mỗi GV lên lớp phải chấp hành việc dự giờ đột xuất bất kì mà cán bộ
quản lý đề xuất.
Dự giờ hội giảng: Là hoạt động sư phạm mang tính tập thể của GV trong trường.
Dự giờ chuyên đề: Là hoạt động sư phạm cấp trường hoặc cấp tổ nhằm đi đến thống
nhất các bước lên lớp, hay tháo gỡ một dạng bài lí thuyêt hoặc thực hành nào đó khó dạy.
Dự giờ có sử dụng công nghệ thông tin: là hoạt động sư phạm ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy.
Dự giờ song song: Là việc dự cùng một tiết nhưng dự hai GV khác nhau.
Thông qua việc dự giờ: cán bộ quản lý cho người dạy tiết 1 cùng dự để rút kinh
nghiệm cho việc dạy của mình và bổ sung cho đồng nghiệp. GV dạy tiết thứ nhất học
được ở GV dạy tiết sau những vấn đề gì? Người dạy tiết thứ nhất bổ sung cho người dạy
ở tiết dạy sau những vấn đề gì?
Thông qua việc làm đó: Mỗi GV thấy rõ nhất điểm mạnh của mình để phát huy, để
tự khẳng định mình và điểm hạn chế của mình của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho
tiết dạy sau tốt hơn.

II.2.1.4.Đổi mới các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn:
- Sinh hoạt chuyên môn tốt là điều kiện thuận lợi cho GV bồi dưỡng tay nghề:
- Sinh hoạt chuyên môn tại các khối cần có nội dung cụ thể về việc thực hiện quy
chế chuyên môn, bàn các tiết khó, các phần dạy khó và hướng giải quyết; các giải pháp
để giúp đỡ GV có tay nghề còn non; thảo luận các nội dung trong QĐ 51, 58/ BGD - ĐT
về đánh giá xếp loại HS; xây dựng các tiết lên lớp chuyên đề trong khối, toàn trường ;
người quản lý cần xây dựng kế hoạch để dự sinh hoạt chuyên môn với các khối, tránh
buông lỏng.
- Sinh hoạt chuyên môn toàn trường là những buổi sinh hoạt có trong kế hoạch, theo
từng chuyên đề để thống nhất phương pháp giảng dạy cho từng bộ môn, hoặc tổ chức lên
lớp bằng giáo án điện tử để GV được dự, rút kinh nghiệm đi đến thống nhất phương pháp
dạy học mới.
- Thông qua các hình thức sinh hoạt chuyên môn ở khối, trường GV tự đánh giá
được trình độ chuyên môn của mình đang ở mức nào từ khâu xây dựng kế hoạch bài dạy
đến kiến thức, kĩ năng sư phạm, kĩ năng sử dụng giáo án điện tử… Đây thực sự là dịp GV
được hoà mình trong không khí sinh hoạt chuyên môn, được nghe, thấy và thể hiện mình
trong môi trường học tập bổ ích và lý thú. Cũng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn
người quản lý đánh giá được khả năng của từng GV khi họ thể hiện quan điểm của mình
với các hướng giải quyết phần bài khó, tiết dạy khó, góp ý với đồng nghiệp trong khối,
trong trường về kết quả giờ dự, cùng tranh luận giải quyết những thắc mắc băn khoăn khi
giảng dạy… để có ý kiến thống nhất.
Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn là điểm mấu chốt để nâng cao chất lượng
giáo dục. Như vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn?
* Triển khai các chuyên đề
- Đây là nội dung sinh hoạt thường xuyên và rất cần thiết, các chuyên đề cần tập
trung vào những đề tài như đổi mới phương pháp giảng dạy, rèn luyện các kỹ năng bộ
môn, dạy các bài khó, ứng dụng CNTT trong dạy học, sử dụng thiết bị dạy học, làm mới
đồ dùng dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS yếu, v.v. Ở
tổ chuyên môn của trường phổ thông nên hạn chế những chuyên đề nặng về lý luận mà
việc triển khai trong thực tế còn khó khăn.

- Việc triển khai các chuyên đề cần được thực hiện có kế hoạch, được tổ chức,
được kiểm tra, đánh giá thì mới có chất lượng và hiệu quả tốt. Trong một năm học cần cơ
cấu hợp lý các mảng đề tài, mỗi GV chỉ nên đảm trách một chuyên đề, phân bổ thời gian
phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường. Sau khi xác định được các chuyên đề, việc
triển khai nên gồm các bước:
+ Phân công cá nhân chuẩn bị chuyên đề;
+ Tổ trưởng duyệt bản thảo;
+ Báo cáo chuyên đề ở tổ, nhóm, các tổ viên góp ý, phản biện;
+ Cá nhân phụ trách hoàn thiện chuyên đề;
+ Nhân bản cho toàn thể tổ viên áp dụng và lưu hồ sơ để áp dụng nhiều năm.
- Khi trao đổi, thảo luận ở tổ cần làm rõ những vấn đề tế nhị. Chẳng hạn, chuyên đề
về đổi mới phương pháp dạy học cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về dạy học tích cực.
Tránh hiểu sai lầm, thuyết trình là không tích cực, chỉ có tổ chức dạy học theo nhóm mới
là tích cực. Vấn đề là làm sao để HS suy nghĩ nhiều hơn, hành động nhiều hơn, hợp tác
nhiều hơn, bày tỏ ý kiến nhiều hơn. Cũng vậy, chuyên đề về ứng dụng CNTT trong dạy
học cần quan tâm đến liều lượng và hiệu quả: Sử dụng CNTT đến mức độ nào trong bài
giảng cụ thể này? Kết hợp giữa viết bảng và trình chiếu trên màn hình như thế nào để đạt
hiệu quả? Điều quan trọng là, trong mỗi tiết dạy, GV biết lựa chọn phương pháp thích
hợp, biết kết hợp các phương pháp hiện đại với các phương pháp truyền thống tùy thuộc
vào từng bài giảng, không nên lạm dụng phương pháp nào. GV phải coi trọng các thủ
pháp dẫn dắt HS tiếp nhận kiến thức một cách tự nhiên, lôgíc.
* Rèn luyện kỹ năng sư phạm của GV
- Nâng cao chất lượng giờ dạy là khát vọng của các GV, tổ chuyên môn và nhà
trường. Điều này được thực hiện qua nhiều biện pháp khác nhau. Kỹ năng sư phạm của
GV có ảnh hưởng lớn đến việc chất lượng giờ dạy. Ở các buổi sinh hoạt tổ có thể trao
đổi, góp ý, giúp nhau sửa chữa những tồi tại, những nhược điểm như phong cách lên lớp,
ngôn ngữ diễn đạt, trình bày bảng của GV, v.v. Hoạt động này nhằm hoàn thiện kỹ năng
sư phạm của nhiều GV, trong khi góp ý sau tiết dự giờ, thao giảng thường hướng tới từng
cá nhân cụ thể.
+ Phong cách lên lớp mà chúng ta mong muốn là chững chạc, tự tin, làm chủ bài

giảng. Chú ý đến giọng nói, cử chỉ đi đứng, động tác tay, ánh mắt, nụ cười, Mọi cái
nên vừa phải, trong lớp tránh đi lại quá nhiều, vung tay quá mạnh. Nói chung, GV cần
chú ý đến cả yếu tố phi ngôn ngữ. Tổ chuyên môn nên chọn GV có tác phong lên lớp tốt
làm mẫu để các tổ viên học hỏi và xây dựng cho mình một phong cách phù hợp.
+ Ngôn ngữ (nói và viết) là kênh quan trọng để HS lĩnh hội kiến thức. Những GV
dạy tốt, cuốn hút HS không chỉ họ có ưu thế về kiến thức và thủ thuật sư phạm mà họ còn
sử dụng lời nói chính xác, với âm lượng vừa phải, rõ ràng, truyền cảm, có ngữ điệu. Do
vậy, trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cần làm cho GV có ý thức rèn luyện kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ, khi góp ý các giờ dạy cần chú trọng đến yếu tố này. Làm sao để trên lớp, GV
có giọng nói chuẩn, chỉ dùng từ phổ thông, ít trùng lặp, ít sai sót.
+ Ứng dụng CNTT, trình chiếu trong dạy học là cần thiết nhưng không thể thay thế
phấn và bảng. Trình bày bảng cùng với trình chiếu nhờ CNTT là kênh thông tin chữ viết-
hình ảnh quan trọng tới HS. Trình bày bảng cẩn thận, đẹp, đúng chính tả, ngữ pháp, rõ
ràng có ảnh hưởng chẳng những đến chữ viết, đến bài làm của HS, mà còn ảnh hưởng tốt
hay xấu đến bệnh về mắt của HS. Một số lời khuyên khi viết bảng là: Chữ viết rõ ràng,
đúng chính tả, ngữ pháp, cỡ chữ vừa phải làm sao để HS ở cuối lớp thấy được bình
thường; Tên bài, tên tiểu mục nên viết bằng phấn màu khác để HS dễ phân biệt; Không
nên viết quá nhiều, chữ quá dày; Hạn chế viết tắt, xóa bảng nhiều lần. Trong sinh hoạt
chuyên môn, các tổ, nhóm cần lưu ý để GV rèn luyện kỹ năng trình bày bảng khoa học,
chuẩn xác, chữ viết đẹp sẽ góp phần hình thành nhân cách cho HS.
+ Ngoài ra, kỹ năng phối hợp linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học: cá nhân,
nhóm, lớp; chính khóa và ngoại khóa, tham quan thực tế ; Tích cực sử dụng thiết bị, đồ
dùng dạy học; Tự làm đồ dùng dạy học; Thống nhất mức độ ứng dụng CNTT trong từng
tiết dạy theo yêu cầu từng bài giảng cũng là các nội dung sinh hoạt tổ, nhóm nhằm rèn
luyện kỹ năng sư phạm của GV.
* Tổ chức các tiết dự giờ, thao giảng theo hướng đổi mới sinh hoạt tổ nhóm chuyên
môn
- Dự giờ là hoạt động quan trọng đối với việc phát triển chuyên môn của mỗi GV.
Dự giờ sẽ giúp cho GV được dự giờ chủ động, tích cực hơn trong bài giảng của mình. Dù
thế nào đi nữa thì mỗi khi có người đến dự giờ, các GV đều chuẩn bị bài kĩ hơn, đôi khi

còn có sự trao đổi về bài dạy trước khi lên lớp, đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối
với mỗi GV. Khi có người đến dự giờ, lớp học cũng diễn ra sôi nổi hơn, ý thức học tập
của HS tốt hơn, đây là điều kiện tốt nhất để GV phát huy tính sáng tạo của HS. Việc dự
giờ còn giúp cho GV đi dự giờ học tập, rút kinh nghiệm từ tiết dạy của đồng nghiệp,
thông qua việc xử lí tình huống của đồng nghiệp, GV sẽ khắc phục được những thiếu xót
trong quá trình giảng dạy Bởi vậy, ngoài mục đích đánh giá năng lực của GV thì điều
quan trọng là các tổ, nhóm cần tổ chức tốt việc góp ý, rút kinh nghiệm về phương pháp
giảng dạy, về kiến thức, về phong cách lên lớp, về tổ chức lớp học.
- Các tổ chuyên môn cần tăng cường quản lý, định hướng tổ chức dự giờ, thao
giảng coi đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giờ dạy Tổ chức thao
giảng phải có ít nhất 2/3 thành viên của tổ, nhóm tham dự, phải có mục tiêu, rút ra được
những kinh nghiệm. Dự giờ rồi đánh giá, rút kinh nghiệm giờ dạy là việc làm thường
xuyên của tổ chuyên môn, nếu được tổ chức tốt sẽ xóa bỏ được tình trạng còn có GV
chưa tự giác, tích cực dự giờ đồng nghiệp hoặc tâm lí cho rằng đi dự giờ là kiểm tra tiết
dạy của GV. Cần tránh dự giờ để đối phó nhằm đạt chỉ tiêu số lượng theo quy định. Nên
tăng cường các tiết dạy mẫu và quan tâm dự giờ các tiết ôn tập, trả bài cho HS.
- Khi đánh giá, rút kinh nghiệm các tiết dạy cần thẳng thắn, chân tình với tinh thần
giúp nhau cùng tiến bộ, phải đánh giá thực chất, nêu ra được những điểm mạnh, những
hạn chế của người dạy về kiến thức, kỹ năng, thái độ, về nội dung, phương pháp, phong
cách. Cần phê phán lối dạy đọc chép, dạy chay trong khi có và cần sử dụng đồ dùng dạy
học. Đối với những tiết học mà GV gặp nhiều khó khăn thì cần trao đổi kỹ, có thể tổ chức
cho một GV có kinh nghiệm trong nhóm dạy mẫu tiết đó để cùng nhau học hỏi. Các giờ
được dự cần được xếp loại và lưu lại ý kiến cũng như kết quả xết loại; đối với tiết dạy
được thanh tra hoặc dùng để xếp loại GV cần lưu cả phiếu đánh giá giờ dạy.
- Đánh giá giờ dạy phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chẳng hạn khi phân tích
khía cạnh rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức của HS, các GV đã lưu ý đến đặc điểm
môn học. Đối với các môn khoa học xã hội, GV thấy hạn chế của nhiều HS trong viết và
trình bày bài; bài viết thường dài dòng, không rõ ý, chữ viết xấu, viết sai ngữ pháp, trình
bày cẩu thả. Do vậy, rèn luyện rèn luyện kỹ năng viết bài, vận dụng kiến thức đã học vào
bài viết của mỗi em là rất quan trọng. Cần thay đổi cách viết khuôn sáo theo bài mẫu, ít

sáng tạo. Trong dạy học cần chấm dứt tình trạng đọc chép, cần hạn chế việc ghi nhớ máy
móc, ghi nhớ nhiều số liệu, nhiều sự kiện; trong các tiết ôn tập chú ý rèn luyện hành văn;
chấm trả bài cần kỹ hơn, chỉ lỗi cụ thể từng em để giúp các em sửa chữa. Đối với các
môn khoa học tự nhiên thì lại chú trọng đến việc giúp HS vận dụng kiến thức vào giải các
bài tập ở các cấp độ khác nhau tùy theo yêu cầu. Các tiết luyện tập, ôn tập phải phân loại
được hệ thống các các bài tập theo dạng phù hợp. Mỗi dạng bài tập cần chỉ ra định hướng
và các bước giải.
* Tổ chức tiết dạy ôn tập có hiệu quả
- Dạy tiết ôn tập có chất lượng là điều không dễ. Có những GV cho là không khó,
bởi vì họ cho rằng HS đã có sẵn các kiến thức đã học, GV chỉ việc hệ thống lại dưới hình
thức các bảng hay sơ đồ là xong. Thế nhưng, dạy tiết ôn tập làm sao để không lặp lại
những gì đã giảng ở các bài học trước một cách máy móc, dễ gây nhàm chán cho HS và
cho cả chính bản thân GV; làm sao để HS học tiết ôn tập một cách thích thú và có nhiều
kết quả? Mục tiêu của các bài ôn tập nói chung là vừa củng cố các kiến thức đã học của
một chương hay một phần nào đó, vừa mở rộng, nâng cao, so sánh đối chiếu với các kiến
thức có liên quan, vừa góp phần bồi dưỡng một số kỹ năng nhất định cho HS.
- Bởi vậy, tổ chức tiết dạy ôn tập có hiệu quả cũng là vấn đề các tổ chuyên môn cần
thảo luận, bàn bạc để chọn cách ôn tập phù hợp cho từng chương, từng phần, phù hợp với
mục tiêu của bài ôn tập cũng như phù hợp với các đối tượng HS của lớp. Cần tránh dạy
tiết ôn tập như là một tiết dạy lại, nhàm chán, hiệu quả thấp, ít tác dụng. Trong sinh hoạt
tổ chuyên môn cần thống nhất về nội dung, phương pháp, thời lượng ôn tập. Yêu cầu của
tiết ôn tập là hệ thống được kiến thức trong phần ôn tập, có thể nâng cao, mở rộng tùy
mục đích, đối tượng ôn tập, rèn luyện được kỹ năng cần thiết cho HS. Ở đây, GV nên
bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ GD-ĐT đã ban hành.
II.2.1.5 Tổ chức quản lý cải tiến hoạt động học tập của HS:
"HS là chủ thể của nhà trường; là đối tượng của quá trình dạy học, giáo dục; là
chủ thể của quá trình nhận thức. Do vậy, quản lý hoạt động học tập của HS là khâu quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý quá trình dạy học của hiệu
trưởng"
Để quản lý tốt hoạt động học tập của HS, cán bộ quản lý cần chỉ đạo các nội dung

sau đây:
- Xây dựng nề nếp học tập của HS: Giáo dục để hình thành động cơ học tập đúng
đắn, chăm chỉ, có tinh thần vượt khó trong học tập, trung thực trong kiểm tra, thi cử. Giáo
dục HS qua các buổi chào cơ đầu tuần, sinh hoạt tập thể, thông qua hoạt động giảng dạy
trên lớp hình thành cho HS phương pháp tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, tích cực, chủ động
sáng tao, theo định hướng đổi mới .
- Xây dựng các tổ tự quản của các lớp để theo dõi tình hình học tập bộ môn. Thông
qua tần số và nội dung phát biểu xây dựng bài, điểm kiểm tra 15 phút, 1 tiết, kịp thời
khen ngợi động viên hoặc uốn nắn HS.
- Chú trọng chỉ đạo việc phụ đạo HS yếu kém và bồi dưỡng HS giỏi. Đầu năm học,
cán bộ quản lý yêu cầu GV phân loại HS: giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. Người cán bộ
quản lý phải biết chỉ đạo GV giảm tỷ lệ yếu kém và tăng tỷ lệ khá, giỏi.
- Xây dựng nội dung bồi dưỡng, phụ đạo hợp đối tượng. Đối với HS giỏi, GV phải
xây dựng các chương trình nâng cao, sâu rộng. Đối với HS kém cần tái hiện kiến thức cũ,
nội dung "lấp lỗ hổng" kiến thức, kỹ năng thực hành, luyện tập theo nhóm.
Trong giờ dạy, GV phải chú ý đến các đối tượng HS, lựa chọn cách kiểm tra, phát
vấn, dẫn dắt HS lĩnh hội kiến thức bài học trọn vẹn. Phối hợp tốt các lực lượng giáo dục:
GV bộ môn, GVCN, Đoàn thanh niên, gia đình để phát huy sức mạnh tổng hợp nâng cao
chất lượng học tập.
- Quản lý chặt chẽ hoạt động học tập ở nhà. HS chỉ có 1/6 thời gian học tập ở
trường, thời gian còn lại chịu sự quản lý của gia đình và xã hội. Việc học ở nhà nghiêm
túc có tác dụng mạnh trong việc nâng cao chất lượng của HS.
II.2.2. Bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động GDNGLL
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định Giáo dục – Đào tạo cùng với
Khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Muốn đào tạo nguồn lực con người đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội cần phải
quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS
Nói về giáo dục toàn diện, Rabơle (1494 – 1553) nhà tư tưởng, nhà giáo dục thời

kỳ phục hưng đã từng nhấn mạnh: “Việc giáo dục phải bao hàm các nội dung trí dục,
đạo đức, thể chất, thẩm mỹ … ngoài việc học ở nhà, còn có các buổi tham quan các
xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp xúc với các nhà văn, các nghị sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một
lần thầy và trò về sống ở nông thôn một ngày”
Nền giáo dục Việt Nam từ sau CM Tháng 8 – 1945 đến nay rất quan tâm đến vấn
đề giáo dục toàn diện cho HS, trong đó hoạt động GDNGLL là một bộ phận không thể
thiếu của quá trình giáo dục. Hoạt động GDNGLL là một hoạt động giáo dục cơ bản
được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức, được tiến hành xen kẽ với
chương trình dạy học và diễn ra trong suốt năm học kể cả thời gian nghỉ hè để khép kín
quá trình giáo dục, làm cho quá trình đó có thể được thực hiện mọi nơi mọi lúc. Hoạt
động GDNGL giúp HS biết vận dụng những tri trức đã học để giải quyết các vấn đề do
thực tiễn đời sống đặt ra; biết điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống cho phù hợp, biết nắm
bắt những định hướng chính trị, xã hội, biết được những truyền thống đấu tranh cách
mạng, truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất
nước và những vấn đề nóng bỏng của thời đại như hòa bình, hữu nghị, hợp tác, dân số,
môi trường, … Từ đó, rèn luyện cho mình những kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử có
văn hóa, những thói quen trong học tập, lao động; kỹ năng tự quản, tự tổ chức, điều
khiển, nhận xét, đánh giá, hòa nhập và thực hiện một số hoạt động tập thể có hiệu quả
khác.
Hầu hết cán bộ quản lý và GV đều có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của các
hoạt động GDNGLL cho nên đã tổ chức được nhiều hoạt động để HS tham gia, mỗi hoạt
động đều có nội dung giáo dục riêng và góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng
dạy- học trong nhà trường, đặc biệt là góp phần ngăn ngừa được các tệ nạn xã hội xâm
nhập vào trường học, số HS tham gia các hoạt động GDNGLL đạt tỷ lệ cao, nhất là các
hoạt động TDTT, các buổi ngoại khóa văn học, khoa học, đố vui, hoạt động giao lưu căm
trại …
Tuy nhiên vẫn còn một số cán bộ, GV, phụ huynh và HS chưa nhìn một cách đúng
đắn vai trò của hoạt động GDNGLL nên trong quá trình tổ chức, chỉ đạo và quản lý các
hoạt động GDNGLL còn nhiều hạn chế, hình thức hoạt động còn đơn điệu, công tác phối
hợp kết hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa đồng bộ.

Điều đáng quan tâm là đa số HS hiện nay ngại tham gia các hoạt động GDNGLL,
số HS có năng lực học tập thì chỉ chuyên tâm vào việc học các môn văn hóa, trong các
môn văn hóa, các em cũng chỉ đầu từ cho một vài môn sở trường – số còn lại, nhất là các
môn khoa học xã hội thì hầu như bị “bỏ ngỏ”. Số HS chưa tích cực trong học tập thì lại
dành thời gian cho các việc vui chơi, giải trí khác, nhất là các trò chơi điện tử, các thông
tin lệch lạc trên Internet… Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng ngày càng có nhiều HS hư
hỏng, đua đòi, sống thực dụng, thờ ơ, bi quan với cuộc sống, nói năng, hành xử thô bạo,
thiếu văn hoá… Nếu không kịp thời chấn chỉnh thì sẽ xa rời mục tiêu giáo dục.
Thực trạng nêu trên đòi hỏi các nhà trường cần phải chú trọng nhiều hơn nữa đến
việc giáo dục toàn diện cho HS, trong đó có hoạt động GDNGLL.
II.2.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động GDNGLL cho cán bộ, GV,
HS và các lực lượng xã hội khác:
Cần làm cho cán bộ, GV, HS và các lực lượng xã hội khác nhận thức một cách
đúng đắn mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông.
Về mục tiêu chung, điều 2, Luật Giáo dục: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng
độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”; đối với nhà
trường phổ thông, điều 23, Luật Giáo dục: “Mục tiêu giáo dục phổ thông giúp HS phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Để nâng cao nhận thức, cần phải thông qua nhiều hình thức hoạt động khác nhau
như tổ chức hoặc kết hợp với các buổi sinh hoạt chính trị, nghe thời sự, học nghị quyết,
họp hội đồng giáo dục, tổ chức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm quản lí, tổ chức ngoại khoá
các chuyên đề về văn hoá giáo dục, đạo đức, pháp luật, phối hợp với các tổ chức chính
quyền, đoàn thể chính trị xã hội tuyên truyền vận động mọi lực lượng tham gia các hoạt
động GDNGLL. Từ đó, tác động đến tâm lí, nhận thức của cán bộ, GV, HS và các lực
lượng xã hội khác về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của hoạt động GDNGLL trong việc

giáo dục toàn diện nhân cách người HS.
II.2.2.2. Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động GDNGLL cho cán bộ , GV, cán bộ lớp,
cán bộ Đoàn:
Nếu kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục của cán bộ GV, cán bộ lớp, cán bộ
Đoàn không đổi mới, không có sự lôi cuốn, thiếu hứng thú thì chất lượng hoạt động
GDNGLL sẽ không đạt được hiệu quả cao. Vì vậy, việc bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt
động GDNGLL cho cán bộ, GV, cán bộ Đoàn, lớp là nội dung cần thiết trong việc chỉ
đạo các hoạt động GDNGLL của hiệu trưởng.
Để nâng cao hiệu quả việc bồi dưỡng các kỹ năng hoạt động GDNGLL cho cán
bộ, GV, cán bộ Đoàn, lớp, cần dựa trên kế hoạch hoạt động chung của nhà trường, tổ
chức các buổi tập huấn phù hợp với khả năng hiện có để đội ngũ này có điều kiện giao
lưu, học tập, rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ trong
việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ.
II.2.2.3. Bồi dưỡng năng lực hoạt động cho HS:
Trong bất kì một hoạt động ngoài giờ lên lớp nào cũng có hai đối tượng: đối tượng
tổ chức hoạt động và đối tượng tham gia hoạt động. Cả hai đều có vai trò quan trọng như
nhau. Song nếu đối tượng tham gia nhận thức không đầy đủ, không hứng thú, thiếu sự tự
giác, chủ động, sáng tạo thì các hoạt động giáo dục khó có thể đạt được hiệu quả mong
muốn. Vì vậy, việc bồi dưỡng năng lực hoạt động GDNGLL cho HS trong nhà trường
phổ thông có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Để làm được điều đó, cần cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái
độ, hành vi cho HS. Tạo điều kiện cho HS tham gia bàn bạc nội dung, hình thức, phương
pháp tổ chức trước khi tham gia các hoạt động, điều này sẽ giúp cho HS phát huy tính
tích cực, độc lập, sáng tạo, tự giác và có hứng thú khi tham gia các hoạt động. Cung cấp,
giới thiệu những tư liệu cần thiết, liên quan đến hoạt động GDNGLL cho HS, tổ chức các
buổi tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành, tinh thần, thái độ và đề cao trách nhiệm và
quyền lợi của HS khi tham gia các hoạt động.
Cần có biện pháp kiểm tra, theo dõi, đánh giá kết quả, khen thưởng, động viên kịp
thời đối với những HS có thành tích tốt trong các hoạt động. Tăng cường vận động,
thuyết phục, kích thích lòng nhiệt tình và sự say mê hoạt động trong HS, đồng thời

nghiêm khắc xử lý những đối tượng có hành vi chây lười, làm ảnh hưởng đến hoạt động
giáo dục chung.
II.2.2.4. Chỉ đạo nội dung, chương trình hoạt động GDNGLL
Nội dung, chương trình hoạt động GDNGLL là yếu tố trọng tâm của quá trình giáo
dục, là sự thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động giáo dục cụ thể, là phương tiện
tương tác giữa người tổ chức giáo dục với người tiếp thu các nội dung giáo dục. Qua việc
thực hiện nội dung, chương trình HS nắm được hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, từ
đó hình thành năng lực, phẩm chất, phát triển trí tuệ, tình cảm, thể lực, ý chí, lí luận và
khả năng hoạt động thực tiễn. Tất cả nội dung này được sắp xếp khoa học giữa giáo dục
và giáo dưỡng. Việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nội dung, chương trình hoạt động
GDNGLL là yếu tố cơ bản để thực hiện mục tiêu giáo dục. Vì vậy, nhà trường phải xem
đây là vấn đề có tính pháp lệnh và cần có sự chỉ đạo thực hiện một cách thống nhất.
Để đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng nội dung chương trình, hiệu trưởng cùng với
ban chỉ đạo hoạt động GDNGLL dự kiến thực hiện chương trình theo từng học kì, tháng,
tuần và cả năm. Cần chú ý đến các thời điểm quan trọng, dự kiến những vấn đề nảy sinh
và biện pháp khả thi của các hoạt động. Hàng tuần, hàng tháng, hiệu trưởng theo dõi,
kiểm tra tiến độ thực hiện nội dung, chương trình đề ra.
II.2.2.5. Chỉ đạo đổi mới hình thức các hoạt động GDNGLL:
Hoạt động GDNGLL ở các trường phổ thông rất đa dạng và phong phú, thường
diễn ra trong một không gian rộng, thời gian không cố định. Do đó, muốn thu hút HS
tham gia đầy đủ các hoạt động cần phải thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình,
hình thức tổ chức hoạt động GDNGLL.
Tuỳ theo tính chất, mức độ của mỗi hoạt động, người hiệu trưởng xây dựng kế
hoạch và chỉ đạo thực hiện cho phù hợp. Chẳng hạn, thông qua các đợt thi đua chào
mừng những ngày lễ lớn trong năm, nhà trường kết hợp tổ chức các hoạt động văn hoá,
văn nghệ, TDTT, lồng ghép các cuộc thi nhỏ như thi tìm hiểu, thi hát theo chủ đề hoặc
tham quan các di tích lịch sử Giờ chào cờ đầu tuần nên tổ chức thi thuyết trình theo chủ
đề, nói chuyện chuyên đề, thi vấn đáp về các kiến thức khoa học nhằm giảm bớt tình
trạng khô khan, căng thẳng và tính giáo dục thấp. Giờ sinh hoạt 15 phút đầu buổi học cần
có sự quản lí chặt chẽ và tạo cho HS sự say mê, hứng thú trong việc truy bài, sinh hoạt

tập thể, trao đổi hoặc tranh luận các vấn đề khoa học… Tiết sinh hoạt cuối tuần nên tìm
những tư liệu có tính chất tư vấn về hôn nhân, gia đình, định hướng nghề nghiệp để GV
chủ nhiệm kết hợp triển khai cho HS.
Các hình thức sinh hoạt khác như hoạt động TDTT, sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt
chuyên đề, sinh hoạt ngoại khoá, tham quan, du lịch… là những hoạt động mang tính tự
nguyện cao, có sức hút với những HS có cùng sở thích, cùng nguyện vọng tham gia hoạt
động. Do đó, nhà trường cần bố trí kinh phí tương ứng để tổ chức các hoạt động phù hợp
nhằm góp phần củng cố và bổ sung kiến thức học trên lớp, rèn luyện, giáo dục năng
khiếu, thể lực, giáo dục giới tính, mĩ thuật, hội hoạ… cho HS.
Các hoạt động GDNGLL hiện nay rất phong phú, đòi hỏi người hiệu trưởng phải
thường xuyên quan tâm, suy nghĩ, tìm tòi các hình thức hoạt động phù hợp với mục tiêu,
đối tượng, thời gian, cơ sở vật chất, nguồn kinh phí, môi trường sư phạm và con người
hiện có. Nội dung và hình thức hoạt động phải bao hàm các mặt giáo dục đức, trí, thể, mĩ.
Tiến trình tổ chức hoạt động phải hài hoà, khoa học và hợp lí, phải có bộ máy tổ chức, có
kế hoạch, chương trình, hoạt động cụ thể, có nội dung hoạt động, có người phụ trách, có
qui định lề lối làm việc, điều kiện hoạt động và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức,
đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
II.2.2.6. Chăm lo đến việc xây dựng CSVC, môi trường sư phạm và đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng.
Muốn tổ chức tốt các hoạt động, điều kiện tiên quyết là phải chăm lo đến việc xây
dựng CSVC trường học và xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh. Ngày nay có nhiều
tổ chức, cá nhân rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, do đó, nhà trường cần tranh thủ sự
hỗ trợ của các lực lượng ngoài xã hội để tăng cường CSVC cho nhà trường, tạo mọi điều
kiện tốt nhất để các lực lượng ngoài xã hội cùng tham gia hoạt động, tham gia giáo dục
HS.
Đổi mới công tác thi đua khen thưởng cũng là một trong những yếu tố đem lại hiệu
quả cho các hoạt động GDNGLL. Công tác thi đua khen thưởng là động lực thúc đẩy
phong trào học tập, rèn luyện của HS. Để làm tốt việc khen thưởng, hiệu trưởng cần quan
tâm đến khâu kiểm tra, đánh giá các hoạt động ngoài giờ. Nếu kiểm tra, đánh giá và
động viên khen thưởng kịp thời thì chất lượng hoạt động GDNGLL sẽ được nâng cao.

Tóm lại, hoạt động GDNGLL là một trong những con đường để phát triển năng lực
trong mỗi cá nhân HS trong nhà trường phổ thông, tạo ra môi trường thuận lợi để HS
phát triển tư duy, hình thành nhân cách đáp ứng theo yêu cầu của xã hội.
Việc nhìn nhận đúng vị trí, vai trò của hoạt động GDNGLL sẽ giúp các cấp quản lí
dành sự đầu tư thích đáng để chỉ đạo hoạt động này ở trường, giúp đội ngũ GV có thái
độ tích cực và sáng tạo khi tham gia tổ chức các hoạt động, tạo ra sự chuyển biến về chất
trong các hoạt động ngoài giờ nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục trong nhà trường phổ
thông.
Để làm được điều đó, cần phải có sự cải tiến công tác quản lí hoạt động GDNGLL
theo hướng tích cực hoá các họat động, nâng giá trị của hoạt động GDNGLL ngang tầm
với hoạt động dạy học – giáo dục nói chung.
II.2.3. Bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động ngoại khóa
Căn cứ vào Quyết định số 47/2002/Q Đ-BGD&ĐT ngày 19.11.2002 thì chương
trình Hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của hệ thống
giáo dục ở trường THPT phân ban từ năm 2002-2003 và đối với các trường THPT phân
ban đại trà từ năm học 2006- 2007 cho đến nay. Do vậy để có thể tổ chức quản lý tốt hoạt
động này cần có sự quan tâm đúng mức và đầu tư nghiên cứu về bản chất hoạt động, cách
thức quản lý để mang lại hiệu quả cao đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy - học
tập trong nhà trường phổ thông.
Trong những năm qua hoạt động ngoại khóa ở các trường THPT thường gắn với
ngoại khóa chuyên môn, hoạt động GDNGLL theo thời khóa biểu, chú trọng đến các hoạt
động văn- thể -mỹ chứ chưa xây dựng thành một chương trình xuyên suốt trong năm học.
Thời gian gần đây, các trường đã xây dựng được kế hoạch hoạt động ngoại khóa, ngoài

×