Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

HIỆN TƯỢNG KHÁNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TIẾN TRÌNH CHẬM LÀM SẠCH KÝ SINH TRÙNG PLASMODIUM FALCIPARUM SAU ĐIỀU TRỊ THUỐC DIHYDROARTEMISININ-PIPERAQUINE TẠI MỘT VÙNG SỐT RÉT LƯU HÀNH CÓ GIAO LƯU BIÊN GIỚI CAMPUCHIA, 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.44 MB, 9 trang )

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 226

HIỆN TƯỢNG KHÁNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TIẾN TRÌNH CHẬM
LÀM SẠCH KÝ SINH TRÙNG PLASMODIUM FALCIPARUM SAU
ĐIỀU TRỊ THUỐC DIHYDROARTEMISININ-PIPERAQUINE TẠI
MỘT VÙNG SỐT RÉT LƯU HÀNH CÓ GIAO LƯU BIÊN GIỚI
CAMPUCHIA, 2013
Huỳnh Hồng Quang
1
, Pham Van Than
2
Nguyễn Văn Chương
1

1
Viện Sốt rét - KST - CT Quy Nhơn,
2
Trường Đại học Thăng Long
Tóm tắt: Sốt rét hiện vẫn là vấn đề y tế công cộng tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới, kể cả Việt Nam. Sự xuất hiện kháng thuốc artemisinins do Plasmodium falciparum

tại
Campuchia, Thái Lan, Việt Nam và Myanmar gần đây có thể đe dọa chiến lược loại trừ và
các thành quả vốn đạt được trong phòng chống sốt rét. Mục tiêu: Nghiên cứu tiến hành nhằm
đánh giá hiệu lực thuốc phối hợp dihydroartemisinin-piperaquine (DHA-PPQ) trong điều trị
sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng. Phương pháp: Thiết kế thử nghiệm lâm sàng không
ngẫu nhiên, tự chứng đánh giá hiệu lực theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới: Đáp ứng
lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR), thất bại điều trị sớm (ETF), thất bại lâm sàng
muộn (LCF), thất bại ký sinh trùng muộn (LPF) và tỷ lệ ký sinh trùng dương tính ngày D


3
như
một chỉ điểm kháng thuốc. Kết quả: Toàn bộ dữ liệu cho thấy tỷ lệ chữa khỏi của DHA-PPQ
là 100%, không có ca thất bại điều trị sớm (ETF), thất bại lâm sàng muộn (LCF) và thất bại
ký sinh trùng muộn (LPF). Đặc biệt, tỷ lệ tồn tại ký sinh trùng ngày D
3
là 26,1% như một chỉ
điểm nguy cơ kháng thuốc cao (thông qua đường cong làm sạch ký sinh trùng). Kết luận:
Hiệu lực thuốc DHA-PPQ rất cao, lý tưởng cho điều trị sốt rét do P. falciparum, nhưng sự
làm sạch ký sinh trùng chậm đáng kể sau điều trị DHA-PPQ, cho thấy hoặc là đã xuất hiện
kháng thuốc DHA-PPQ tại điểm Đăk Nông, hoặc lan rộng kháng thuốc đến điểm này từ
nguồn biên giới Campuchia. Phác đồ thuốc này cần phải giám sát hiệu lực để có thay đổi
chính sách thuốc tốt hơn. Điều này cho thấy cần có những nổ lực ngăn chặn kháng theo
Hướng dẫn của Mạng lưới kháng thuốc sốt rét toàn cầu.
Từ khóa: Plasmodium falciparum, kháng thuốc, hiệu lực.
GIỚI THIỆU
Sốt rét - bệnh truyền nhiễm tiếp tục đe dọa đến nhân loại với gánh nặng bệnh tật và tử
vong cao hàng năm. Thành công của phòng chống sốt rét không thể không kể đến sự đóng
góp quan trọng của thuốc có hiệu lực cao
([8])
. Thuốc phối hợp có gốc artemisinin
(ACTs_artemisinin combination therapies) là lựa chọn đầu tay trong điều trị SR do
Plasmodium falciparum đa kháng thuốc, góp phần giảm đi con số tử vong và tỷ lệ chuyển
sang sốt rét ác tính đáng kể do đặc tính thuốc tác động nhanh trên thể vô tính và phân liệt.
Song, gần đây xuất hiện chủng P. falciparum kháng thuốc artemisinine tại các vùng biên giới
Việt Nam - Campuchia - Thái Lan - Myanmar như một mối đe dọa quan trọng
(4),([8])
, có thể
làm thất bại nhiều thành quả đạt được trước đây và sẽ là thách thức lớn trong quản lý ca bệnh
do thuốc mới và vaccine vẫn còn đang trong giai đoạn nghiên cứu.

Nhiều kinh nghiệm cho thấy kháng thuốc sẽ dẫn đến rút ngắn tuổi thọ thuốc, nếu
không áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì việc đầu tư phát triển thuốc mới là vô nghĩa. Việt
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 227

Nam chia sẻ một dải dài biên giới Campuchia – quốc gia tập trung chủng P. falciparum đa
kháng, nên sẽ có “cơ hội” chia sẻ và lan rộng động lực kháng thuốc sớm. Do vậy, việc nghiên
cứu phát hiện sớm thực trạng nhạy kháng thuốc là cần thiết nhằm thay đổi chính sách thuốc
quốc gia
([1]),([2])
. Đề tài này tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá hiệu lực thuốc phối hợp
dihydroartemisinin-piperaquine trong điều trị sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: xã Đăk Drong và Cư Knia, huyện Cư Jut, tỉnh Đăk Nông;
- Thời gian: từ tháng 3/2013 - 12/2013.
Thiết kế nghiên cứu
- Thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên, tự chứng theo đề cương Mạng lưới kháng
thuốc toàn cầu (WWARN, 2012)
([7])
;
- C mẫu: trong nghiên cứu này, tỷ lệ thất bại thuốc phối hợp DHA-PPQ theo một
nghiên cứu trước đây là 10%, thì tỷ lệ thất bại lâm sàng quần thể ước tính là p (10%), CI:
95%, độ chính xác (d): 10%. Khi đó c mẫu tối thiểu cần nghiên cứu đánh giá: n  50 bệnh
nhân.
Tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ
(6),(7)
Tiêu chuẩn chọn: các bệnh nhân tuổi từ 15 trở lên đến dưới 70 tuổi, nhiễm đơn loài P.
falciparum, mật độ KSTSR thể vô tính P. falciparum trong máu từ 1.000 - 100.000/µl máu,

nhiệt độ nách hoặc tai ≥ 37.5 °C hoặc nhiệt độ dưới lưi/ đại tràng ≥ 38 °C, chưa dùng một
loại thuốc SR nào (kiểm tra qua thử nước tiểu), bệnh nhân, hoặc người thân, hoặc giám hộ
đồng ý hợp tác nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại : Phụ nữ đang có thai, hoặc đang cho con bú, người đang có bệnh rối
loạn tâm thần kinh, động kinh, nôn mửa, tiêu chảy trầm trọng hoặc thể trạng không hấp thu
được thuốc, sốt rét có biến chứng hoặc mắc các bệnh nhiễm trùng phối hợp. Nhiễm sốt rét
phối hợp P. falciparum + P. vivax hoặc loài khác, bệnh nhân đã dùng TSR hoặc kháng sinh có
hoạt tính chống sốt rét trong 48 giờ trước đó.
Phân tích và xử lý số liệu
- Kết quả nghiên cứu thu thập được tổng hợp, phân tích và xử lý theo phần mềm in
vivo phiên bản 7.1 Pascal Ringwald, TCYTTG (2009);
- Thời gian sạch KSTSR (được định nghĩa là khoảng thời gian tính bằng giờ kể từ
liều điều trị đầu tiên cho đến khi xét nghiệm có 2 lam máu liên tiếp âm tính với thể vô tính P.
falciparum);
- Đánh giá về mặt hiệu lực theo Tổ chức Y tế thế giới (2009)




Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 228

Bảng 1. Phân loại kết quả về đánh giá hiệu lực thuốc (TCYTTG, 2009)
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung về lâm sàng và cận lâm sàng nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng và ký sinh trùng trên bệnh nhân nghiên cứu
TT
Đặc điểm nhóm bệnh nhân
Thời điểm bắt đầu

nghiên cứu n (%)
1
Thân nhiệt (
0
C)
- Số bệnh nhân có sốt trên 37,5
0
C
- Số ca có sốt trong vòng 48 giờ
- Không có tiền sử/ hoặc sốt hiện tại

27 (58,7%)
16 (34,78%)
3 (6,52%)
Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị theo tiêu chuẩn TCYTTG (2009)
Thất bại điều trị sớm (ETF_Early Treatment Failure)
- Xuất hiện các dấu chứng của sốt rét nguy hiểm hoặc nghiêm trọng vào ngày D
1
, xuất hiện D
2
hoặc D
3
, kèm có mặt KSTSR trong máu;
- KSTSR vào ngày D
2
cao hơn D
0
bất kể thân nhiệt;
- Xuất hiện KSTSR trong máu vào ngày D
3

đi kèm thân nhiệt ≥ 37.5ºC;
- KSTSR trong máu vào ngày D
3
≥ 25% so với MĐKSTSR ngày D
0
.
Thất bại điều trị muộn (LTF_Late Treatment Failure), chia làm hai loại:
Thất bại lâm sàng muộn (LCF_Late Clinical Failure)
- Xuất hiện các dấu chứng sốt rét nặng và nguy hiểm vào bất kỳ ngày nào từ D
4
đến D
42
với sự có
mặt của KSTSR trong máu, không có tiêu chuẩn nào của ETF trước đó;
- Có mặt KSTSR trong máu và thân nhiệt ≥ 37.5ºC hoặc có tiền sử sốt trong vùng sốt rét lan
truyền thấp đến trung bình ở bất kỳ ngày nào từ D
4
đến D
42
, không có bất kỳ dấu hiệu nào của
ETF trước đó;
Thất bại ký sinh trùng muộn (LPF_Late Parasitological Failure)
- Có mặt KSTSR trong máu vào bất kỳ ngày nào từ D
7
đến D
42
và thân nhiệt < 37.5ºC, không có
bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF và LCF trước đó.
Đáp ứng lâm sàng, KST đầy đủ (ACPR_Adequate Clinical and Parasitological Response)
- Không có xuất hiện KSTSR trong máu vào D

42
, bất luận nhiệt độ nách thế nào và không có bất kỳ
tiêu chuẩn nào của ETF, LCF và LPF trước đó.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 229

- Nhiệt độ trung bình bệnh nhân
- Số ngày có sốt trung bình trước D
0

38,2
0
C
2,5 (ngày)
2
Tình trạng lách
- Bệnh nhân có lách lớn
- Bệnh nhân không có lách lớn
- Bệnh nhân cắt lách toàn/bán phần

12 (26,1%)
34 (73,9%)
0 (0%)
3
Mật độ thể vô tính P. falciparum
- Mật độ KSTSR thể vô tính/L (TB ± ĐLC)
- Số bệnh nhân có giao bào ngày D
0


- MĐKST thể giao bào

26.274
4 (8,7%)
25 (6 - 44)
Nhận xét: Về mặt lâm sàng, phần lớn số ca có sốt hoặc có tiền sử bị sốt trong 48 giờ
trước khi vào nghiên cứu, lần lượt 58,7% và 34,8%; thân nhiệt trung bình là 38,2
0
C. Số ngày
có sốt trung bình là 2,5 ngày. Số ca có lách lớn chủ yếu là độ I và độ II chiếm 26,1%. Mật độ
thể vô tính trung bình P. falciparum là 26.274/L máu, số ca có giao bào là 8,7%.
Hiệu lực phác đồ DHA-PPQ trong điều trị bệnh nhân sốt rét do P. falciparum
Hiệu lực phác đồ thuốc Dihydroartemisinine - piperaquine phosphate
Bảng 3. Phân loại hiệu lực phác đồ DHA-PPQ đối với sốt rét P. falciparum
Chỉ số đánh giá
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Hiệu lực

ETF, LCF, LPF
0
0
ACPR
33
100%
Tổng số phân tích
33


Rút khỏi nghiên cứu

1

Mất theo dõi (sau D
4 - 7
)
12
26,08%
Tổng số nghiên cứu
46

Nhận xét: phân tích 46 trường hợp, có 1 ca rút khỏi nghiên cứu và 12 ca mất theo dõi
từ ngày D
4
trở đi. Tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ là tuyệt đối 100% trong số
33 ca phân tích đến 42 ngày, chưa phát hiện ca nào thất bại điều trị.
Hiệu lực làm sạch ký sinh trùng và cắt sốt của thuốc DHA-PPQ


Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 230

Bảng 4. Hiệu lực cắt sốt và làm sạch KSTSR P. falciparum của DHA-PPQ
Kết quả phân tích
Thông số thời gian
(giá trị trung bình)
Tổng số ca phân tích (n = 46)
Số ngày sốt TB trước nghiên cứu
2,5 ± 1,5 ngày
Mật độ KSTSR trung bình ngày D

0

26.274/L (12.121 - 49.862)
Thời gian sạch KSTSR trung bình (PCT)
59,5 giờ (36,2 - 79,6)
Nhiệt độ cơ thể TB ngày Do
38,2
0
C (36,2 - 40,5)
Thời gian cắt sốt trung bình (FCT)
30,7 giờ (29,0-32,4)
Nhận xét: với 46 ca phân tích hiệu lực làm sạch KSTSR và cải thiện sốt cho thấy thời
gian cắt sốt trung bình là 30 giờ; thời gian làm sạch KST trong 36 giờ.
Bảng 5. Số ca tồn tại KSTSR P. falciparum sau 3 ngày điều trị
Kết quả phân tích
Giá trị các thông số
Số trường hợp tồn tại KSTSR ngày D
3
12
26,1%
Vô tính
Số trường hợp còn tồn tại KSTSR sau D
3

1
2,17%
Vô tính + giao bào
Nhận xét: Số liệu có 12/46 ca sau điều trị thuốc DHA-PPQ liệu trình 3 ngày vẫn còn
tồn tại thể vô tính P. falciparum và 1 ca còn tồn tại đến ngày D
4

và sang D
5
mới sạch hoàn
toàn.
Bảng 6. Tỷ lệ tồn tại ký sinh trùng thể vô tính P. falciparum sau điều trị 3 ngày
Mã bệnh nhân
Diễn tiến làm sạch KSTSR P. falciparum
STT
Code
Tuổi
D
0

D
1

D
2

D
3

D
4

D
5

Phác đồ DHA-PPQ (Arterakine)
1

01DNAK
52
48.006
57.901
219
16
0
0
2
06DNAK
16
38.878
9.856
920
497
26
0
3
08DNAK
45
15.450
5.228
459
28
0
0
4
10DNAK
21
35.474

4.447
200
20
0
0
5
14DNAK
27
1.762
400
48
36
0
0
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 231

6
26DNAK
18
7.781
3.500
695
60
0
0
7
29DNAK
19

10.973
1.360
620
28
0
0
8
30DNAK
19
29.580
14.440
891
24
0
0
9
33DNAK
25
62.866
26.010
2.860
420
0
0
10
35DNAK
33
37.913
5.380
560

52
0
0
11
41DNAK
25
27.314
3.013
600
28
0
0
12
44DNAK
21
94.045
11.053
1.700
52
0
0
MĐKSTSR trung bình D
0
/L
34.170
11.882
814
105
2
0

Nhận xét: Sự tồn tại và giảm dần mật độ KSTSR theo từng ngày qua mỗi 24 giờ đã
giảm dần, không có phản ứng tăng KSTSR sau điều trị, nhất là ngày D
1,
song tốc độ giảm
chậm. Tính trung bình, mật độ KSTSR thể vô tính giảm theo từng ngày 34.170 : 11.882 
814  105  2  0/mm
3
máu ngoại vi (từ ngày D
0
 D
1
D
2
 D
3
 ngày D
4
).
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung về lâm sàng và ký sinh trùng trên nhóm nghiên cứu
Về mặt lâm sàng, nhóm bệnh nhân đưa vào nghiên cứu, phần lớn có biểu hiện sốt hiện
tại hoặc/ và có tiền sử bị sốt trong vòng 48 giờ trước khi đưa vào nghiên cứu. Số bệnh nhân có
sốt trên 37,5
0
C hiện tại là 27 ca (58,7%), số ca có tiền sử sốt trong vòng 48 giờ qua là 16
(34,8%) và thân nhiệt trung bình của bệnh nhân là 38,2
0
C. Số ngày có sốt trung bình trước khi
điều trị là 2,5 ngày, điều này cho thấy sự tiếp cận của bệnh nhân với cơ sở y tế vẫn còn chậm,
dễ dẫn đến sốt rét ác tính nếu không can thiệp kịp thời. Số bệnh nhân có lách lớn chủ yếu là

lách độ I và độ II chiếm 26,1% và số ca có lách trong giới hạn bình thường là 73,9%, chưa
phát hiện bệnh nhân nào cắt lách, kể cả qua siêu âm bụng kiểm tra.
Liên quan đến KSTSR thể vô tính P. falciparum, mật độ trung bình của thể vô tính là
26.274/L máu ngoại vi, số bệnh nhân có giao bào là 4 trường hợp (8,7%) với mật độ trung
bình của giao bào thấp chỉ là 25 (6 - 44), cho thấy mật độ như thế là lý tưởng trong đánh giá
hiệu lực trên thử nghiệm in vivo, và ở đây chỉ số giao bào chỉ là thông số mô tả chứ không
nhằm mục đích đánh giá hiệu lực của nó trong việc làm sạch giao bào vì bản thân thuốc
DHA-PPQ không giết giao bào.
Hiệu lực phác đồ DHA-PPQ trong điều trị SR do P. falciparum
Qua phân tích đánh giá 46 trường hợp P. falciparum chưa biến chứng điều trị bằng
thuốc phối hợp arterakine, liệu trình 3 ngày. Số liệu cũng cho thấy có 1 ca rút khỏi nghiên cứu
và 12 trường hợp mất theo dõi từ ngày D
4
trở đi, điều này cho thấy các nghiên cứu in vivo
hiện nay rất khó khăn trong vấn đề theo dõi đủ liệu trình cần thiết tối thiểu. Tỷ lệ đáp ứng lâm
sàng và ký sinh trùng đầy đủ cao, tuyệt đối 100% trong số 33 ca phân tích đủ liệu trình đến 42
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 232

ngày, chưa phát hiện ca nào thất bại điều trị sớm (ETF), thất bại lâm sàng muộn (LCF) hay
thất bại ký sinh trùng muộn (LPF).
Vì tất cả 46 ca đều theo dõi được đến D4, sau đó mới có 12 ca mất theo dõi nên tất cả
đều đưa vào thân tích hiệu lực làm sạch KSTSR và cắt sốt đầy đủ. Với 46 trường hợp phân
tích hiệu lực làm sạch KSTSR và cắt sốt, cải thiện triệu chứng lâm sàng cho thấy số ngày
trung bình bệnh nhân có sốt ở nhà là 2,5 ± 1,5 ngày, thân nhiệt ngày Do là 38,2
0
C và sau khi
dùng thuốc, có thời gian cắt sốt khoảng 30 giờ. Đồng thời mật độ KSTSR ngày D
0

chỉ
28.244/L, sau đó hiệu lực làm sạch KST trong 36 giờ, nghĩa là chưa đến 2 ngày.
Trong số 46 ca, có đến 12 ca sau điều trị liều thuốc đặc hiệu DHA-PPQ đầu tiên kéo
dài liệu trình 3 ngày vẫn còn tồn tại thể vô tính của P. falciparum với nhiều mức độ khác nhau
và trong số đó có 1 ca còn tồn tại thể vô tính đến ngày D
4
và sang ngày D
5
mới sạch hoàn toàn
thể vô tính (ở đây không đánh giá sự làm sạch giao bào). Sự tồn tại và giảm dần của mật độ
KSTSR theo từng ngày qua mỗi 24 giờ, không có ca nào phản ứng tăng KSTSR sau điều trị,
nhất là từ D
0
chuyển sang ngày D
1,
song tốc độ giảm chậm đến ngày D
3.
Tính trung bình
chung, cho thấy mật độ KSTSR thể vô tính giảm của các bệnh nhân giảm theo từng ngày từ
D
0
đến D
4
như sau: 34.170 : 11.882  814  105  2  0/mm
3
máu ngoại vi (từ ngày D
0

 D
1

D
2
 D
3
 ngày D
4
). Điều này chỉ ra một nguy cơ cao phát triển kháng thuốc do áp
lực thuốc trong vùng này (tại chỗ) hoặc có nguồn gốc tử chủng ký sinh trùng Campuchia
sang!
Thử nghiệm in vivo về hiệu lực DHA-PPQ là hỗ trợ cho các kết quả dựa trên chứng cứ
nhằm thay đổi chính sách thuốc tại Việt Nam. Số liệu ở đây chỉ ra thuốc DHA-PPQ đang sử
dụng tại Việt Nam như lựa chọn ưu tiên có hiệu lực cao và dung nạp tốt. Theo định nghĩa của
Chương trình sốt rét toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO/Global Malaria Programme)
và Mạng lưới kháng thuốc sốt rét toàn cầu (World wide antimalarial drug resistance
Network_WWARN) định nghĩa sự tồn tại ký sinh trùng dương tính ngày D
3
như một chỉ điểm
lâm sàng gián tiếp kháng thuốc (WHO, 2011). Hơn nữa, gần đây TCYTTG đã sử dụng một
định nghĩa: (i) Một sự gia tăng thời gian làm sạch ký sinh trùng khi bằng chứng có hơn 10%
số ca còn tồn tại ký sinh trùng ở ngày D
3
sau điều trị ACTs (nghi ngờ kháng); hoặc (ii) Một sự
thất bại điều trị có bằng chứng có tồn tại ký sinh trùng ngày D
3
và hoặc có tồn tại ký sinh
trùng vào D
7
hoặc tái phát lại sau ngày D
7
trong vòng 42 ngày theo dõi, sau điều trị cùng với

nồng độ thuốc trong máu đủ (xác định kháng). Như thế, trong phân tích này, tỷ lệ ký sinh
trùng dương tính vào ngày D
3
≈ 21,6% (> 10%), do thiếu dữ liệu phân tích về mặt dược động
học cũng như gen học để xác định các locus kháng nên những ca này còn khẳng định các đột
biến sau khi có kết quả phân tích từ TCYTTG
([3]),([5])
.
Trong nghiên cứu này chưa phát hiện ca nào tồn tại thể vô tính sau 72 giờ có liên quan
đến bát thường lách, nên có thể do một lý do khác, chẳng hạn dung nạp ký sinh trùng chăng?
Vì trường hợp thất bại điều trị có liên quan đến lách bất thường nên có thể khiến cho quá trình
chậm làm sạch ký sinh trùng vì lách vốn dĩ là “mồ chôn” các hồng cầu nhiễm và không
nhiễm. Điều này có thể phù hợp với các nghiên cứu trước đây bởi Teuscher (2010) cho thấy
sau điều trị với artesunate – dẫn suất của artemisinins, các thể nhẫn của P. falciparum trở nên
“ngủ” và khoảng 0,001–1,313% số ca hồi phục phát triển tùy thuộc vào chủng và liều thuốc.
Hơn nữa, trong sốt rét, các hồng cầu bị ký sinh nhưng thực tế không chứa KST tìm thấy trong
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 233

hệ thống tuần hoàn. Điều này có thể có sự gia tăng nhờ vào sự loại bỏ do lách với các KST
trong hồng cầu bị tổn thương và nhìn thấy phần lớn hồng cầu nguyên vẹn
([4])
.
KẾT LUẬN
Với hiệu lực DHA-PPQ hiện đang như một thuốc ưu tiên trong điều trị SR do
P.falciparum là tuyệt đối 100%, nhưng sự tồn tại KST thể vô tính ở thời điểm sau 72 giờ
(ngày D
3
) cao (26,1%) sau điều trị DHA-PPQ như một chỉ điểm kháng thuốc cao. Do vậy,

việc cần thiết là nỗ lực giám sát thường quy hiệu lực thuốc tại vùng SRLH như ở Đăk Nông
để sớm cảnh báo về tình trạng kháng thuốc cũng như thay đổi chính sách thuốc theo từng giai
đoạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung, Li Guoqiao và cs., (2008), “Đánh giá
hiệu lực các thuốc phối hợp có gốc artemisinine (ACTs) trong điều trị sốt rét do P. falciparum
chưa biến chứng tại vùng SRLH, miền Trung-Tây Nguyên, Việt Nam (2004-2008)”. Tạp chí y
học TP. Hồ Chí Minh, Vol.12-supplement, số 4: 28-34.
[2]. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung và cs., (2011), “Hiệu lực thuốc sốt rét
phối hợp Arterakine và Artequick-primaquine trong điều trị sốt rét P. falciparum chưa biến
chứng: Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thăm dò liều tại Gia Lai, 2010”, Tạp chí y học
thực hành, ISSN 1859-1663, vol. 796-2011: 125-133
[3]. Julien Zwang, Elizabeth A. Ashley, Corine Karema et al., (2008), Safety and
efficacy of Dihydroartemisinin-Piperaquine in falciparum malaria: A prospective multi -
centre individual patient data analysis. PLoS Hub for Clinical Trials
[4]. Shannon Takala-Harrison, Taane G. Clark, Christopher G. Jacob et al., (2013),
Genetic loci associated with delayed clearance of Plasmodium falciparum following artemisinin
treatment in Southeast Asia, PNAS, Jan 2, 2013, vol. 110, No 1: 240-245
[5]. Valecha N, et al., (2010), An open-label, randomised study of dihydroartemisinin-
piperaquine versus artesunate + mefloquine for falciparum malaria in Asia. PLoS ONE 5(7):
e11880.
[6]. WHO (2010), Global report antimalarial drugs efficacy and drugs resistance 2000-
2010
[7]. WHO (2011), Methods and technique for assessing exposure to antimalarial drugs
in clinical field studies. Informal consultation organized by the WHO with the technical
supports of the world wide antimalarial resistance network (WWARN).
[8]. WHO (2013), Emergency response to artemisinin resistance in the greater
Mekong subregion, Regional framework for action 2013-2015

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II


Trường Đại học Thăng Long 234

DRUG RESISTANCE ASSOCIATED WITH DELAYED CLEARANCE OF
PLASMODIUM FALCIPARUM FOLLOWING DIHYDROARTEMISININ
PIPERAQUINE TREATMENT IN MALARIAL ENDEMIC ZONE WITHIN
CAMBODIA CROSS-BORDER 2013
Huynh Hong Quang
1
, Nguyen Van Chuong
1
, Pham Van Than
2
.
1
Institute of Malariology, Parasitology and Entomology Quy Nhon, MoH
2
Thang Long University
Background: Malaria still a public health problem in the tropics and subtropics
regions, including Vietnam. The recent emergence of artemisinin-resistant Plasmodium
falciparum malaria in Cambodia, Thailand, Vietnam, and Myanmar (WHO, 2013) could
threaten prospects of malaria elimination and achievement of malaria control programme.
Objectives: The study evaluated the efficacy of dihydroartemisinine-piperaquine combination
(DHA-PPQ) on uncomplicated P. falciparum malaria patients in a endemic zone within
Cambodia border. Methods: A non randomized controlled clinical trial of in vivo, and
treatment outcomes classification by the latest update WHO guidance, including primary
outcome of ACPR (Adequate clinical and parasitological response), ETF (Early treatment
failure), LTF (Late treatment failure, including LPF_Late parasitological failure and
LCF_Late clinical treatment) and secondary outcome of proportion of positive asexual
parasite on day 3 as an indirect clinical resistant marker. Results: The overall data showed

that the cure rate of DHA-PPQ was 100% in Daknong sentinel, without points in ETF, LCF,
LPF. Especially, with 26.1% positive parasite on or after D
3
after commencement of ACTs
treatment as indirect clinical marker for resistance high risk (by parasite clearance slope).
Conclusions: The efficacy of DHA-PPQ are extremely high, ideal for first-line treatment, but
displayed markedly delayed clearance following DHA-PPQ treatment, suggesting either
emergence of DHA-PPQ resistance in Daknong, Vietnam or spread to this location from its
site of origin in Cambodia. This need to be have suitable containment efforts in line with
Worldwide Antimalarial Resistance Network guidlines.
Key words: Plasmodium falciparum, drug resistance, efficacy.

×