Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

HIỆU LỰC CỦA BENZIMIDAZOL CARBAMAT ĐỐI VỚI NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT TẠI CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.14 KB, 12 trang )

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 214

HIỆU LỰC CỦA BENZIMIDAZOL CARBAMAT ĐỐI VỚI
NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT TẠI CỘNG ĐỒNG
Nguyễn Thu Hương
1
, Phạm Văn Thân
2
và cộng sự
1
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương
2
Trường Đại học Thăng Long
Tóm tắt: Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật xét nghiệm Kato-katz cho 1.082 người dân tỉnh
Hà Tĩnh và Lào Cai từ tháng 10-12 năm 2012. Tỷ lệ nhiễm giun chung tại Hà Tĩnh là 26,9%
và Lào cai là 50,2%. Tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc và giun móc tại Lào Cai lần lượt là
12,1%, 9,1% và 35,8%. Trong khi tại Lào Cai tỷ lệ tương ứng là 2,8%, 8,2% và 17,9%. Hiệu
lực điều trị albendazole liều duy nhất 400 mg sau 14 ngày điều trị như sau CR của Ascaris
lumbricoides, Trichuris trichiura và giun móc là 97,1%, 77,9%, và 95,9%, ERR tương ứng
96,9%, 84,6% và 98,2%. CR của mebendazole liều duy nhất 500 mg với Ascaris
lumbricoides, Trichuris trichiura và giun móc là 100%, 73,0%, và 82,0%, ERR tương ứng là
100%, 65,3% và 94,1%. Kết quả nghiên cứu này cũng chỉ ra albendazole liều đơn vẫn còn
hiệu lực tốt với cả 3 loại giun truyền qua đất trong khi mebendazole đã có dấu hiệu giảm hiệu
lực với giun tóc Trichuris trichiura. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng rõ ràng cho dấu hiệu
kháng thuốc tẩy giun bezimidazol carbamat đối với giun truyền qua đất.
Từ khóa: albendazole, mebendazole, CR, ERR, kháng thuốc tẩy giun.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các loại giun truyền qua đất (STHs) chính ở người là giun đũa Ascaris lumbricoides
(roundworm), giun tóc Trichuris trichiura (whipworm) và giun móc/mỏ Necatora


mericanus/Ancylostom aduodenale (hookworm), đây là những loài ký sinh trùng phổ biến
nhất trên thế giới. Ước tính 4,5 tỷ người sống tại các vùng có nguy cơ và hơn một tỷ người
nhiễm STHs. Trong đó, có đến 450 triệu mắc bệnh bệnh, phần lớn là trẻ em. Có đến 44 triệu
phụ nữ mang thai thiếu máu có nguyên nhân do giun móc. Khoảng 135.000 trường hợp tử
vong hàng năm, chủ yếu là do nhiễm giun móc hoặc A. lumbricoides (Bundy và cộng sự,
1992; Stoltzfuset al, 1996; Crompton và cộng sự, 2002; WHO, 2005; Bethonyet và cộng sự,
2006.). Tại các vùng lưu hành ký sinh trùng, nhiễm phối hợp hai hoặc nhiều loài ký sinh trùng
trên cùng một người xảy ra ở tỷ lệ cao. Trường hợp nhiễm ký sinh trùng phối hợp có thể phải
uống hai hoặc ba loại thuốc chống ký sinh cùng một lúc. Học sinh tiểu học (6-14 tuổi) thường
là nhóm đích để điều trị định kỳ bằng thuốc tẩy giun vì học sinh nhóm này thường bị nhiễm
giun đũa (A. lumbricoides) và giun tóc (T. trichiura) nặng nhất và nhiễm giun móc. Ngoài ra,
học sinh tiểu học đang ở trong giai đoạn phát triển thể lực và trí lực rất mạnh. Tẩy giun cho
trẻ em tuổi đi học có ích lợi rất đáng kể đối với tình trạng dinh dưng của trẻ, ăn ngon miệng,
sự phát triển thể lực và sự phát triển trí tuệ. Tại các tỉnh đã tiến hành tẩy giun định kỳ cho học
sinh tiểu học và trẻ mầm non trong chương trình phòng chống suy dinh dưng và y tế học
đường từ năm 2007 đến nay. Chương trình tẩy giun cho phụ nữ cũng đang được áp dụng theo
khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới và mở rộng tại Việt Nam từ năm 2009 đến nay. Điều trị
định kỳ của thuốc tẩy giun là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng để phòng chống các
bệnh STH. Thay cho mục tiêu tiêu diệt bệnh STH, các chương trình phòng chống nhằm giảm
cường độ nhiễm và lây truyền, đi tới giảm tỷ lệ bệnh. Các thuốc điều trị bệnh STH thuộc
nhóm benzimidazole (BZ), như albendazole (ALB) và mebendazole (MBZ). Đây là những
thuốc tẩy giun được sử dụng rộng rãi nhất với qui mô lớn ở nhiều nơi trên khắp thế giới như
Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh. Một số nghiên cứu trên diện hẹp (De Clercqet al., 1997;
Albonicoet al., 2004) đã gợi ý các nguyên nhân làm giảm hiệu quả điều trị của thuốc. Nguyên
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 215

nhân chủ yếu thất bại do sự thay đổi phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng phác đồ
điều trị không thống nhất, chất lượng thuốc kém, tính toán hiệu quả điều trị với các chương

trình phân tích thống kê khác nhau; cũng như một loạt các vấn đề khác trong thiết kế nghiên
cứu, chẳng hạn như kích thước mẫu nhỏ, phương pháp chẩn đoán, sự thay đổi cường độ
nhiễm trước can thiệp và các yếu tố gây nhiễu liên quan đến địa lý. Một nghiên cứu đã được
tiến hành, với mục tiêu chuẩn hóa phương pháp nghiên cứu giữa các vùng bằng cách thống
nhất sử dụng phác đồ điều trị (cùng liều ALB 400mg có nguồn gốc từ cùng một lô), theo dõi
sau điều trị (14-30 ngày sau điều trị) và kỹ thuật xét nghiệm (McMaster), chỉ ra rằng ALB là
rất hiệu quả với giun đũa và giun móc, với giun tóc có dấu hiệu giảm (Vercruysseet al., 2011).
MBZ có thể sẽ hiệu quả hơn so ALB trong điều trị giun tóc, tuy nhiên chưa có tài liệu nào
chứng minh cho nhận định này. Đề tài nhằm “Giám sát hiệu lực của thuốc tẩy giun
albendazole liều duy nhất 400mg và mebendazole liều duy nhất 500mg sau khi điều trị hàng
loạt tại cộng đồng 2 tỉnh Hà Tĩnh và Lào Cai”
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu
Với tiêu chí chọn các điểm đã áp dụng chương trình tẩy giun hàng loạt trên 5 năm.
Chọn chủ đích 2 tỉnh Lào Cai và Hà Tĩnh. Mỗi tỉnh chọn 2 xã.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
Người dân sống tại điểm nghiên cứu từ 6-60 tuổi. Chọn đối tượng tự nguyện tham gia
nghiên cứu, không mắc các bệnh cấp tính như ỉa chảy, sốt cao, co giật, bệnh tim gan
- Tiêu chuẩn loại trừ: Không tự nguyện tham gia; Không có khả năng cung cấp mẫu
phân để theo dõi trong lần tiếp theo; Bị bệnh cấp tính, mãn tính (viêm gan, thận, ); Bị ỉa chảy
khi điều tra cơ bản; Có tiền sử dị ứng với một số thuốc; Mới tẩy giun trong 1 tháng gần đây
2.3 Thời gian nghiên cứu: 3 tháng (10-12/2012)
2.4 Thiết kế nghiên cứu: Theo phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả (điều tra
cắt ngang xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm) và dịch tễ học can thiệp (tẩy giun hàng loạt).
2.5 Cỡ mẫu nghiên cứu
n = Z
2
1-

/2

x p x (1-p)/d
2

Trong đó: n = số người cần xét nghiệm, Z = 1,96 với độ tin cậy 95%, p = tỷ lệ nhiễm
giun truyền qua đất ước tính, d = sai số cho phép
Độ tin cậy là 95%, tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ước tính là 50%, sai số cho phép là
5%, như vậy từng điểm nghiên cứu là 400 người. Để đảm bảo các trường hợp bỏ mất mẫu
khoảng 25%. Vậy mỗi tỉnh sẽ lấy 500 người tham gia. Mỗi xã là 250 người.
2.6 Nội dung nghiên cứu
Giám sát hiệu lực của thuốc tẩy giun bằng cách xác định tỷ lệ sạch trứng và tỷ lệ giảm
trứng 14 ngày sau khi điều trị hàng loạt liều duy nhất
- Thuốc tẩy giun: Thuốc tẩy giun sử dụng trong nghiên cứu này có hai loại
+ALB (biệt dược Zentel), thuộc nhóm Benzimidazol, được WHO khuyến cáo dùng để
điều trị GTQĐ. Thuốc có dạng viên nén 400 mg, hộp 100 viên. Thuốc do hãng dược phẩm
Guilin, Guangxi, China cung cấp thông qua hàng Cimres của Netherlands (nhà tài trợ Worl
vission đặt hàng) sản xuất tháng 7 năm 2012, hạn sử dụng tháng 7 năm 2015.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 216

+ Mebendazol (biệt dược Vermox), thuộc nhóm Benzimidazol, được Tổ chức Y tế thế
giới khuyến cáo dùng để điều trị giun truyền qua đất. Thuốc có dạng viên nén 500 mg, lọ
nhựa 150 viên. Thuốc do hãng Janssen-Cilag sản xuất tháng 3 năm 2008, hạn sử dụng tháng
02 năm 2013.
- Phác đồ điều trị: ALB 400 mg hoặc MBZ 500mg liều duy nhất uống một lần.
- Tác dụng không mong muốn: Là những triệu chứng chủ quan như chóng mặt, nhức
đầu, đau bụng, buồn nôn. Các triệu chứng này thường nhẹ và thoảng qua, không cần xử lý.
- Chuẩn bị đầy đủ thuốc cấp cứu và xử trí tác dụng không mong muốn (thuốc trợ tim,
dịch truyền, thuốc chống dị ứng,…), nhân lực theo dõi, chỉ đạo, giám sát cho uống thuốc ở
trường và sổ sách ghi chép.

2.7. Các chỉ số đánh giá
- Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng: Nhiễm chung, đơn nhiễm, đa nhiễm, nhiễm từng loại giun
- Cường độ nhiễm ký sinh trùng: Số trứng trung bình trong 1 gram phân (epg); Số
trứng trung bình trước điều trị; Số trứng trung bình sau điều trị
- Phân loại mức độ nhiễm giun truyền qua đất 3 mức độ theo WHO (1999)
- Đánh giá hiệu lực của ALB (WHO, 1996)
+ Tỷ lệ sạch trứng (CR) (%) = 100% x [(TLN sau ĐT-TLN sau ĐT)]/TLN trước ĐT
CR = 0-19% : thuốc không có tác dụng
CR = 20-59% : thuốc có tác dụng trung bình
CR = 60-89% : thuốc có tác dụng tốt
CR ≥ 90% : thuốc có tác dụng rất tốt
+ Tỷ lệ giảm trứng (ERR) (%) = 100% x (Số trứng TB trước ĐT-Số trứng TB sau
ĐT)/Số trứng TB trước ĐT
2.8 Kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu: Kỹ thuật Kato-Katz là kỹ thuật xét nghiệm
phân chuẩn dễ sử dụng và được dùng rộng rãi trong chẩn đoán ký sinh trùng đường ruột.
2.9. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu được nhập theo Excel (theo qui định của Đề
cương chung). Phân tích thống kê y sinh học sử dụng ² test và p < 0,05 được coi là có ý
nghĩa thống kê. Chỉ số CR và FECR sẽ được tính toán nhằm xác định hiệu quả điều trị của
MBZ trong điều trị giun truyền qua đất. Phân tích thống kê đã được miêu tả bởi tác giả
Vercruysse và CS, 2011.
2.10. Y đức trong nghiên cứu
Mẫu đề cương nghiên cứu này được thông qua Hội đồng Y đức Viện Sốt rét-KST-
CT.TƯ. Tất cả đối tượng tham gia trong nghiên cứu là tự nguyện và được sự chấp thuận của
người bảo hộ (cha, mẹ). Các thành viên tham gia đều có phiếu cam kết chấp thuận tham gia
nghiên cứu. Các thông tin trong nghiên cứu của các đối tượng tham gia đều được đảm bảo
tính bí mật cá nhân, không cung cấp và sử dụng cho các mục đích ngoài nghiên cứu này. Các
thông tin về sức khỏe cảu người tham gia nếu được phát hiện trong thời gian nghiên cứu được
tiến hành cũng sẽ được được thông báo cho đối tượng tham gia nghiên cứu biết.

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II


Trường Đại học Thăng Long 217

3. KẾT QUẢ
Điều tra tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất tại 02 xã của 02 huyện thuộc 02 tỉnh Lào Cai
và Hà Tĩnh, lấy mẫu phân của người từ 15-65 tuổi. Tiến hành xét nghiệm bằng phương pháp
Kato-Katz, phỏng vẫn K.A.P theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn cho 1.082 người tại tỉnh Hà Tĩnh và
Lào Cai, trong đó có 534 nam (49,4%) và 3548 nữ (50,6%). Tỉnh Hà Tĩnh có 502 người tham
gia, trong đó có 119 nam (23,7%) và 383 nữ (76,3%). Tỉnh Lào Cai có 580 người tham gia,
trong đó có 415 nam (71,6%) và 165 nữ (28,4%). Kết quả điều tra trước và sau can thiệp cộng
đồng được biểu diễn tại bảng 1.
3.1 Hiệu lực của ALB đối với giun truyền qua đất
3.1.1 Kết quả xét nghiệm phân trước và sau điều trị 14 ngày
Bảng 1. Tình trạng nhiễm ký sinh trùng trước điều trị theo tỉnh
Chỉ số nhiễm
Trước điều trị
Sau điều trị
Lào Cai
(n=580)
Hà Tĩnh
(n=502)
Lào Cai
(n=409)
Hà Tĩnh
(n=208)
Số (+)
Tỷ lệ
(%)
Số (+)
Tỷ lệ

(%)
Số (+)
Tỷ lệ
(%)
Số (+)
Tỷ lệ
(%)
Nhiễm chung
293
50,5
135
26,9
13
3,1
15
7,21
Giun đũa
71
12,1
14
2,8
0
0,0
0
0,0
Giun tóc
53
9,1
41
8,2

1
0,2
12
5,8
Giun móc
208
35,8
90
17,9
13
3,1
4
1,9
Giun kim
3
0,5
5
1,0
0
0,0
0
0,0
Đơn nhiễm
252
43,5
121
24,1
12
2,9
14

6,7
Hai nhiễm
40
6,9
13
2,6
1
0,2
1
0,5
Ba nhiễm
1
0,2
1
0,2
0
0,0
0
0,0
Tại Lào Cai, tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng chung là 50,2%, nhiễm giun móc là 35,8%,
nhiễm giun đũa 12,1% và giun tóc thấp hơn là 9,1%. Tại Hà Tĩnh, tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng
chung là 26,9%, nhiễm giun móc là 17,9%, giun tóc thấp hơn là 8,2% và giun đũa là 2,8%.
Tỷ lệ nhiễm giun chung ở tỉnh Lào Cai (50,5%) cao hơn rõ rệt so với tỉnh Hà Tĩnh
(26,9%) với p<0,001. Tỷ lệ nhiễm giun đũa tại Hà Tĩnh (2,8%) thấp hơn ở Lào Cai (12,1%),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Nhiễm giun tóc ở 2 tỉnh tướng ứng là 8,2% và
9,1%, khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ nhiễm giun móc tại Hà Tĩnh (17,9%) thấp
hơn ở Lào Cai (35,8%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Tỷ lệ đơn nhiễm (nhiễm
1 loại) ở tỉnh Lào Cai (43,5%) cao hơn có ý nghĩa so với tỉnh Hà Tĩnh (24,1%), tỷ lệ đa nhiễm
(nhiễm 2-3 loại) ở tỉnh Lào Cai (7,1%) cũng cao hơn có ý nghĩa so với tỉnh Hà Tĩnh (3,5%)
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II


Trường Đại học Thăng Long 218

với p<0,001. Sau điều trị can thiệp thuốc đặc hiệu benzimidazole CR giảm rõ rệt xuống dưới
10%.
Bảng 2. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng trước điều trị theo nhóm tuổi
Chỉ số
Trước điều trị
Sau điều trị
Lào Cai
Hà Tĩnh
Lào Cai
Hà Tĩnh
n
Số
(+)
Tỷ
lệ
(%)
n
Số
(+)
Tỷ
lệ
(%)
n
Số
(+)
Tỷ
lệ

(%)
n
Số
(+)
Tỷ
lệ
(%)
<20 tuổi
276
142
42,6
78
8
10,3
184
2
1,1
32
4
12,5
Từ 20-55 tuổi
262
132
50,7
356
102
28,7
194
9
4,6

140
8
5,7
>55 tuổi
42
19
44,2
68
25
36,8
31
2
6,4
36
3
8,3
Có sự khác nhau rõ rệt về tỷ lệ nhiễm giun giữa các nhóm tuổi ở tỉnh Hà Tĩnh trước
điều trị (p=0,022). Sau điều trị sự khác biệt giữa cá nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê tại cả 2
tỉnh.

Hình 1. Tình trạng đơn nhiễm và đa nhiễm theo tỉnh

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 219

Bảng 3. Cường độ nhiễm giun truyền qua đất trước điều trị theo giới
Tỉnh
Giới
n

Giun đũa
Giun tóc
Giun móc
TB nhân
TB nhân
TB nhân

Nam
415
30.747,7
104,2
116,6
Lào Cai
Nữ
615
715,4
113,8
707,5

Chung
580
5.954,7
112,2
162,6
Hà Tĩnh
Nam
191
14.934
138,0
584,0


Nữ
311
5.896,8
117,5
408,0

Chung
502
8.478,9
123,5
454,9
TB: Trung bình
Cường độ nhiễm giun đũa ở nam tại Lào Cai (30.747,7 EPG) cao hơn nam tại Hà Tĩnh
14.934 EPG), ngược lại nữ. Nhiễm giun tóc tương đối đồng đều giữa nam và nữa của 2 tỉnh.
Cường độ nhiễm giun móc tại Lào Cai giới nữ nhiễm giun móc cao hơn hẳn nam giới, 707,5
EPG so vơi 116,6 EPG. Trong khi tại Hà Tĩnh thì không có sự khác biệt về cường độ nhiễm
giun móc ở nam và nữ
Bảng 4. Mức độ nhiễm giun trước điều trị theo tỉnh
Tỉnh
Giun đũa
Giun tóc
Giun móc
Nhẹ
(%)
TB
(%)
Nặng
(%)
Nhẹ

(%)
TB
(%)
Nặng
(%)
Nhẹ
(%)
TB
(%)
Nặng
(%)
Lào Cai
98,6
1,4
0
100
0
0
100
0
0
Hà Tĩnh
89,5
10,5
0
94,0
6,0
0
98,1
1,9

0
*TB: trung bình
Sự khác nhau về mức độ nhiễm giun đũa và giun tóc giữa 2 tỉnh có ý nghĩa thống kê
(p=0,004 và p=0,026).
3.1.2 Hiệu lực của ALB và MBZ đối với giun truyền qua đất
Trong số 1.082 người điều tra cơ bản có 428 nhiễm ký sinh trùng, tỷ lệ nhiễm giun
chung của 2 tỉnh là 44,5%. Trong đó tham gia xét nghiệm lại lần sau điều trị 14 ngày có 409
người tại Lào Cai và 208 người tại Hà Tĩnh. Tại Lào Cai có 232 người tẩy giun bằng ALB,
liều duy nhất 400 mg, và có 177 người tẩy giun bằng MBZ, liều duy nhất 500 mg, những
người tham gia xét nghiệm phân sau điều trị 14 ngày. Tại Hà Tĩnh có 224 người tẩy giun bằng
ALB, liều duy nhất 400 mg, và có 278 người tẩy giun bằng MBZ, liều duy nhất 500 mg. Sau
điều trị đặc hiệu 14 ngày tại Lào Cai có 232 người đã được uống thuốc ALB và 177 người
uống mebendazole tham gia xét nghiệm lại. Còn ở Hà Tĩnh chỉ có 98 người đã được uống
thuốc ALBe và 110 người uống MBZ tham gia xét nghiệm lại. Do đó chúng tôi đánh giá hiệu
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 220

lực của thuốc dựa trên kết quả xét nghiệm của những người tham gia xét nghiệm đủ 2 lần kết
quả biểu diễn tại bảng 6 và bảng 7.
Bảng 6. Hiệu lực của ALB sau điều trị 14 ngày
Tỉnh
Loại KST
CR
ERR
Lào Cai
Giun đũa
97,4
97,0


Giun tóc
95,1
91,2

Giun móc
96,3
97.3
Hà Tĩnh
Giun đũa
100,0
100,0

Giun tóc
76,9
94,2

Giun móc
98,0
98,6
Chung
Giun đũa
97,1
96,9

Giun tóc
77,9
84,6

Giun móc
95,9

98,2
CR và ER giun đũa, giun tóc và giun móc của 2 tỉnh sau điều trị ALB từ 77,9%-
98,2%. Thuốc còn tác dụng tốt.
Bảng 7. Hiệu lực của MBZ sau điều trị 14 ngày
Tỉnh
Loại KST
CR (%)
ERR (%)
Lào Cai
Giun đũa
100,0
100,0

Giun tóc
100,0
100,0

Giun móc
85,1
89,8
Hà Tĩnh
Giun đũa
100,0
100.0

Giun tóc
60,0
87,3

Giun móc

92,3
98,2
Chung
Giun đũa
100,0
100,0

Giun tóc
73,0
65,3

Giun móc
82,0
94,1
CR và ERR giun đũa, giun tóc và giun móc của 2 tỉnh sau điều trị MBZ từ 65,27%-
100%. Thuốc còn tác dụng tốt. Tuy nhiên, chỉ số CR giun tóc tại Hà Tĩnh mặc dù vẫn đạt tác
dụng tốt nhưng chỉ đạt 60,0%.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 221

4. THẢO LUẬN
Chương trình tẩy giun hàng loạt đã triển khai trên toàn quốc gần 10 năm trở lại đây.
Vấn đề đáng quan tâm là hiệu lực của thuốc tẩy giun đối với các bệnh giun truyền qua đất
hiện nay như thế nào. Sau một thời gian dưới áp lực điều trị, với các thuốc do nhiều hãng
dược phẩm cung cấp chất lượng thuốc không đồng nhất, thuốc thay đổi từng năm, thời gian
điều trị cũng phụ thuộc vào thuốc được cung cấp và kinh phí chương trình cấp cho địa
phương. Những nguyên nhân này có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc chọn lọc trong cộng
đồng. Một số báo cáo đã chỉ ra rằng điều trị ký sinh trùng đường ruột cần liều thấp hơn so với
các ký sinh trùng ở tổ chức. Liều khuyến cáo benzimidazol liều duy nhất hàng loạt trên cộng

đồng (Bundy DAP, 1987). Trong nghiên cứu này một liều duy nhất ALB hoặc MBZ thường
được sử dụng để điều trị giun tròn đường ruột đã được đánh giá hiệu quả điều trị của thuốc
nhóm benzimidazol.
Tại nghiên cứu lần này điểm khác biệt chúng tôi sử dụng 2 thuốc ALB và MBZ thuộc
nhóm benzimidazole trong cùng một điểm nghiên cứu. Tại Hà Tĩnh và Lào Cai, cả hai tỉnh
này đều đã tiến hành tẩy giun hàng loạt 5 năm trở lại đây. Tại Lào Cai, tỷ lệ nhiễm giun chung
là 50,2%, nhiễm giun móc là 35,8%, nhiễm giun đũa 12,1% và giun tóc thấp hơn là 9,1%. Tại
Hà Tĩnh, tỷ lệ nhiễm giun chung là 26,9%, nhiễm giun móc là 17,9%, giun tóc thấp hơn là
8,2% và giun đũa là 2,8%. Tỷ lệ nhiễm giun chung và giun móc ở tỉnh Lào Cai cao hơn rõ rệt
so với tỉnh Hà Tĩnh (p<0,001). Sau điều trị can thiệp thuốc đặc hiệu benzimidazole tỷ lệ giảm
rõ rệt xuống dưới 10%.
Đánh giá hiệu lực của cả 2 thuốc là ALB và MBZ, CR và giảm trứng giun đũa, giun
tóc và giun móc của 2 tỉnh sau điều trị MBZ từ 65,27%-100% và ALB từ 77,9%-98,2%.
Thuốc còn tác dụng tốt. Tuy nhiên, CR giun tóc tại Hà Tĩnh mặc dù vẫn đạt tác dụng tốt
nhưng chỉ đạt 60,0% với MBZ và 76,9% với ALB. Nghiên cứu này cho thấy ALB vẫn có hiệu
lực đối với giun đũa, giun tóc và giun móc. Kết quả nghiên cứu này phù hợp nghiên cứu của
chúng tôi năm 2009 là chưa phát hiện có sự kháng thuốc ALB (Nguyễn Thị Việt Hòa, 2010).
Ở Việt Nam, Carsten Flohr và CS tiến hành nghiên cứu kiểm tra hiệu lực của MBZ
liều duy nhất 500 mg điều trị 137 HSTH và ALB liều duy nhất 400 mg điều trị 54 người
trưởng thành nhiễm giun móc tại tỉnh Khánh Hòa. CR của MBZ và ALB tương ứng là 38% và
45%. Tác giả Trâm Anh, đánh giá hiệu lực của MBZ liều duy nhất 500 mg khi tiến hành tẩy
giun hàng loạt cho HSTH tại Thừa Thiên Huế. Tỷ lệ CR sau 2 tuần điều trị đối với giun đũa,
giun tóc và giun móc lần lượt là 93,4%, 64,8% và 44,8%. Nghiên cứu về hiệu lực điều trị của
MBZ trên học sinh tiểu học tại một số trường tiểu học thuộc tỉnh Sơn La, sau 12 tháng áp
dụng liều duy nhất 500mg cho thấy tỷ lệ nhiễm chung giảm 81,3%, giun đũa giảm 97,3%,
giun móc giảm 94,9%, trong khi giun tóc chỉ giảm 42,4% (Nguyễn Sơn, 2011). Điều này có
dấu hiệu gợi ý sự giảm hiệu lực điều trị STH của thuốc MBZ trên những điểm đã áp dụng
điều trị hàng loạt một thời gian. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu rộng tại các tỉnh và nghiên
cứu khẳng định sự có hay không có gen kháng thuốc liên quan đến vấn đề này. Đồng thời,
trong môi trường sống có sự giao thoa phức tập giữa các quần thể giun truyền qua đất, mối

liên quan giữa quần thể STH ở người và động vật trong một số trường hợp vẫn chưa rõ ràng,
đặc biệt tại Việt Nam chưa có nghiên cứu sâu rộng về vấn đề này.
Một số nghiên cứu về hiệu lực của ABL liều duy nhất trên thế giới cho kết quả không
thống nhất. ALB liều duy nhất dường như cho kết quả tốt trên giun tròn với CR và ERR cao.
Theo thử nghiệm ALB liều duy nhất 400 mg trên học sinh tiểu học tại sáu nước đã được tiến
hành và CR giun đũa từ 86% đến 100% , giun tóc từ 21% đến 100% và giun móc 74,7% đến
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 222

100% (Jozef Vercruysse, 2011). Trên trẻ em ở Bangladesh, Hall A., Nahar Q, 1994, thấy tỷ lệ
CR giun đũa là 92%, tỷ lệ CR và ERR giun tóc là < 30% sau 10 ngày. Tại Malaysia,
Norhayati M, 1997, nghiên cứu trên 123 trẻ em, tỷ lệ CR và ERR giun đũa tương ứng là
97,4% và 99,9%; tỷ lệ CR và ERR giun móc lần lượt là 93,1% và 96,6%; tỷ lệ CR và ERR
giun tóc tương ứng là 5,5% và 46,1%. Tác giả Norhayati cho rằng ALB liều duy nhất 400 mg
ở vùng lưu hành STHs cao có hiệu quả đáng kể đối với giun đũa và giun móc nhưng không có
hiệu quả đối với giun tóc. Tại Thái Lan, tác giả Jongsuksuntigul cũng thấy CR của thuốc với
giun đũa, giun móc và giun tóc lần lượt là 100%, 84,3% và 67,4% và ERR là 100%, 70,4%
và 89,9%. Theo Keiser và Utzinger đánh giá hiệu lực của liều duy nhất đường uống của ALB
đối với nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc từ 168 nghiên cứu, 20 thử nghiệm ngẫu nhiên.
Tỷ lệ CR giun đũa 88% (độ tin cậy 95%, 79-93%, 557 bệnh nhân), giun móc 72% (độ tin cậy
95%, 59-81%, 742 bệnh nhân). Điều trị giun tóc liều duy nhất không tốt. Còn tác giả M.
Legesse và cs so sánh hiệu lực của ALB (Smith Kline Beecham) liều duy nhất điều trị giun
móc cho thấy CR là 17,1% và ERR là 69,8%.
Điểm mới của đề tài, tiến hành đầu tiên đồng thời thử nghiệm cả hai loại thuốc tại
cùng một thới điểm và cùng một nơi, tiến hành mở rộng trên đối tượng cộng đồng. Đây là một
điểm mới của đề tài so với nghiên cứu trước trên học sinh tiểu học. Các nghiên cứu trước có
quy mô rộng hơn nhưng chỉ thử nghiệm riêng từng loại thuốc. Các nghiên cứu này được tiến
hành giai đoạn đầu 2009-2010 với nghiên cứu hiệu lực thuốc ALB và năm 2011-2012 với thử
nghiệm MBZ. Từ đó xem xét đến khả năng nguồn dự trữ mầm bệnh giun truyền qua đất ở

người trong cộng đồng không chỉ đơn thuần trên đối tượng nguy cơ như trước đây. Điều
quyết định cho các thử nghiệm đánh giá hiệu lực thuốc tại ngày thứ 14 sau khi điều trị sẽ là
khoảng thời gian tối ưu để đánh giá tình trạng khỏi bệnh. Nhóm nhiên cứu hy vọng rằng trong
nghiên cứu sau điều trị 2 tuần sẽ không tìm thấy trứng giun trong phân của đối tượng nghiên
cứu và được cho là khỏi bệnh vì thời điểm này chưa đủ thời gian để có trứng trong các mẫu
phân mới nhiễm lại.
Benzimidazol ức chế phân chia tế bào và sự hấp thu glucose ở hệ tiêu hóa của giun.
Tác động này dẫn đến việc giun bị đào thải do nhu động ruột. Điều này sẽ có hiệu quả cao đối
với giun. Hiệu lực của thuốc tẩy giun benzimidazol được tăng lên bằng cách kéo dài thời gian
tiếp xúc của ký sinh trùng với các hợp chất hoặc chất chuyển hóa hoạt động của nó. Do đó,
hiệu quả của liều thấp lặp lại có thể tương đương hoặc cao hơn một liều cao duy nhất
(Albonico M, 2004). Trong nghiên cứu này, thời gian dùng thuốc chỉ có một ngày trong điều
trị giun tròn đường ruột chung, nếu thời gian kéo dài hơn thì CR có thể cao hơn (Stephenson
LS, 1993). Trong các thử nghiệm so sánh với MBZ hiệu quả của một liều duy nhất tương tự
như trong điều trị giun đũa, giun tóc và giun móc. Việc điều trị bằng cách sử dụng nhiều liều
MBZ 100 mg hai lần một ngày trong ba ngày có hiệu quả cao đối với giun truyền qua đất
(Waikagul J, 1997 &2003). Chúng ta biết rằng, ALB là thuốc tẩy giun phổ rộng có hiệu quả
nhất, đó là kết quả của sự hấp thu nhanh chóng từ các lumen ruột non đạt nồng độ cao ở liều
lượng tương đối thấp. Mặc dù trong nghiên cứu này, sau khi điều trị 14 ngày CR trên giun tóc
tại Hà Tĩnh (60%) là không quá cao, ERR có sự giảm (87,3%), chứng tỏ chỉ còn rất ít giun
còn sống sót. Tuy nhiên chúng tôi không xác định bằng tẩy đãi giun này. Giun tóc và giun
kim là 2 loại giun chính ký sinh ở trực tràng, và hai loại giun chính ký sinh ở ruột non là giun
móc và giun đũa cũng đáp ứng với benzimidazol. Hiện nay, có thể làm tăng độ hòa tan
benzimidazole trong nước và do đó có thể được sử dụng chống lại nhiễm trùng hệ thống. Dù
sao, benzimidazol được sử dụng thường xuyên hơn cho ký sinh trùng đường ruột vì phổ tác
dụng rộng và độc tính thấp. Chất lý tưởng với tính hoạt động phổ rộng cần hiệu quả chống lại
tất cả giun sán đường ruột và giun sán hệ thống (và các loại giun sán khác) bao gồm cả hiệu
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 223


quả 100% khi sử dụng một liều duy nhất. Việc sử dụng hầu hết benzimidazol ở liều lượng cao
cấm dùng khi có thai vì tiềm năng độc cho phôi và quái thai khi thực nghiệm ở chuột và thỏ.
Trên lâm sàng, hiện đang sử dụng hai hợp chất của benzimidazole là ALB và MBZ. Cần lưu ý
rằng ALB và MBZ có hiệu quả chống lại tất cả các loại giun truyền qua đất chính. Điều này
đã được chứng minh là có hiệu quả cao và an toàn để điều trị phần lớn nhiễm giun đường ruột
và có lợi cho cả điều trị chọn lọc và điều trị hàng loạt.
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy cả albendazol và mebendazol vẫn có hiệu lực tốt đối với
giun đũa, giun tóc và giun móc. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chưa có sự kháng
thuốc mebendazole và albendazol tại Lào Cai và Hà Tĩnh. Điều rõ ràng từ nghiên cứu này là
benzimidazol có tác dụng tốt với giun truyền qua đất với liều đơn. Cho đến nay chưa có báo
cáo nào về kháng thuốc của nhóm này trên giun truyền qua đất. Để có thể đánh giá một cách
chính xác vấn đề này cần có nghiên cứu tiếp về mặt sinh học phân tử xác định các trường hợp
còn trứng giun sau điều trị.
5. KIẾN NGHỊ
- Nên triển khai tẩy giun hàng loạt tại cộng đồng theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.
- Tiếp tục tiến hành đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy giun albendazol và mebendazol.
- Kiểm tra giám sát chặt chẽ các chương trình tẩy giun hàng loạt trên cộng đồng để tránh hoặc
làm chậm khả năng kháng thuốc tẩy giun.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Phòng chống Sốt rét-KST-CT tỉnh Hà
Tĩnh, Trung tâm Phòng chống Sốt rét-KST-CT tỉnh Lào Cai. Đề tài này được Dự án phòng
chống các bệnh truyền nhiễm khu vực tiểu vùng sông Mê Kông giai đoạn 2 tài trợ kinh phí.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Albonico M, Engels D and Savioli L (2004) Monitoring drug efficacy and early
detection of drug resistance in human soil-transmitted nematodes: a pressing public health
agenda for helminth control. Int J Parasitol34, 1205-1210. 14/1
[2]. Areekul P, Putaportip C, Pattanawong U, Sitthicharoencai P and Jongwutiwes S
(2010) Trichurisvulpis and T. trichiura among schoolchildren of a rural community in

northewestern Thailand: the possible role of dogs in disease transmission. Asian Biomedicine
4, 49-60. 1
[3]. Bethony J, Brooker S, Albonico M, Geiger SM, Loukas A, et al.(2006) Soil-
transmitted helminth infections: ascariasis, trichuriasis, and hookworm. Lancet 367, 1521-
1532. 2
[4]. Chongsuphajaisiddhi T, Sabchareon A, Attanath P, Panasoponkul C, Radomyos P.
Treatment of soil-transmitted nematode infections in children with mebendazole. Ann Trop
Med Parasitol 1978; 72: 59-63. 9/1
[5]. De Clercq D, Sacko M, Behnke JM, Gilbert F, Dorny P, et al.(1997) Failure of
mebendazole in treatment of human hookworm infections in the Southern Region of Mali.
Am J TropMedHyg57, 25- 30. 7
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 224

[6]. Hall A., Nahar Q. Albendazole and infections with Ascaris lumbricoides and
Trichuris trichiura in children in Bangladesh. Trans R Soc Trop Med Hyg. 1994 Jan-Feb;
88(1):110-2. 28
[7]. Jong suksuntigul P, Jeradit C, Pornpattanakul S, Charanasri U. A comparative
study on the efficacy of albendazole and mebendazole in the treatment of ascariasis,
hookworm infection and trichuriasis. Southeast Asian j trop Med Public Health. 1993 Dec; 24
(4): 724-9.30
[8]. Jozef Vercruysse, Jerzy M. Behnke, Marco Albonico, Shaali Makame Ame, Ce ´
cile Angebault, Jeffrey M. Bethony, Dirk Engels, Bertrand Guillard, Nguyen Thi Viet Hoa,
Gagandeep Kang, DeepthiKattula, Andrew C. Kotze, James S. McCarthy, Zeleke Mekonnen,
Antonio Montresor, Maria Victoria Periago, Laurentine Sumo, Louis-Albert Tchuem
Tchuente , Dang Thi Cam Thach, Ahmed Zeynudin, Bruno Levecke. Assessment of the
Anthelmintic Efficacy of ALBe in School Children in Seven Countries Where Soil-
Transmitted Helminths Are Endemic. PloS Neglected Tropical Diseases 10 March 2011,
Volume 5, Issue 3, e948 availabe at www.plosntds.org. 10 /1

[9]. Keiser J. Utzinger J. Efficacy of current drugs against soil-transmitted helminth
infections: systematic review and meta-analysis. JAMA. 2008 Apr 23; 299(16): 1937-48. 31
[10]. M. Legesse, B. Erko and G. Medhin. Comparative efficacy of albendazole and
three brands of mebendazole in the treatment of Ascariasis and Trichuriasis. East African
Medical Journal. March 2004: 134-138. 32
[11]. Montresor A, Ramsan M, Chwaya HM, Ameir H, Foum A, et al.(2001)
Extending anthelminthic coverage to non-enrolled school-age children using a simple and
low-cost method. Trop Med Int Health 6, 535-537. 10
[12]. Nejsum P, Parker ED, FrydenbergJr J, Roepstorff A, Boes J, et al. (2005)
Ascariasis is a zoonosis in denmark. J ClinMicrobiol43, 1142-8. 12
[13]. Nguyễn Sơn, (2011), Tình hình nhiễm giun đường ruột và hiệu quả tẩy giun
hàng loạt bằng Mebendazole 500mg sau 12 tháng tại 3 trường tiểu học thành phố Sơn La-
Tỉnh Sơn La, năm 2007-2009. Công trình khoa học: Báo cáo tại Hội nghị Ký sinh trùng lần
38, tập II KST-CT, NXB Y học, Hà Nội, tr. 27-36. 13/1
[14]. Nguyễn Thị Việt Hòa, (2011), “Hiệu quả điều trị hàng loạt thuốc tẩy giun ALBe
ở Học sinh tiểu học”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng
[15]. Norhayati M; Oothuman P, Azizi O, Fatmah MS. Efficacy of single dose
albendazole on prevalence and intensity of infection of soil-transmitted helminths in Orang
Asli children in Malaysia. Southeast Asian J Trop Med Public Health; 28(3): 563-9. 1997
Sep. 29
[16]. Palmer CS, Traub RJ, Robertson ID, Hobbs RP, Elliot A, et al. (2007)The
veterinary and public health significance of hookworm in dogs and cats in Australia and the
status of A. ceylanicum. Vet Parasitol145, 304-413. 14
[17]. The Medical Letter. Drugs for parasitic infections. New Rochelle, NY: The
medical letter, Inc., 2002. 2/1
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 225

[18]. Vercruysse J, BehnkeJM,Albonico M, Ame SM, Angebault C, et al.(2011)

Assessment of the anthelmintic efficacy of ALBe in school children in seven countries where
soil-transmitted helminths are endemic. PloSNegl Trop Dis 5: e948 24
[19]. Waikagul J, Nuamtanong S, Visaidsuk K. A preliminary study on the efficacy of
ALBe against intestinal trematode. J Trop Med Parasitol 2003; 26: 98-9. 8/1
[20]. World Health Organization (2005) Deworming for health and development.
Report of the third global meeting of the partners for parasitic control.
WHO/CDS/CPE/PVC/2005.14, World Health Organization, Geneva. 26
MONITORING EFFICACY OF BENZIMIDAZOL CARBAMAT FOR THE
TREATMENT OF SOIL TRANSMITTED HELMINTHS
Nguyen Thu Huong
1
, Pham Van Than
2
and etc.
1
National Institute of Malariology, Parasitology & Entomology
2
Thăng Long University
Abstract: Fecal examination conducted by KK method for 1,082 people communes in
Ha Tinh and Lao Cai province from Oct. to Dec. 2012. Overall prevalence of soil transmitted
helminth infection in Ha Tinh and Lao Cai provinces was 26.9% and 50.2%, respectively. The
overall prevalence of roundworm, whipworm and hookworms among people in Lao Cai
province was 12.1%, 9.1% and 35.8%, respectively. The cumulate prevalence of roundworm,
whipworm and hookworms in Ha Tinh province was 2.8%, 8.2% and 17.9%, respectively.
Monitoring efficacy of albendazole single dose at 400 mg with soil transmitted helminths 14
days after treatment, CR of Ascaris lumbricoides, Trichuris trichiura and hookworm eggs was
97.1%, 77.9%, and 95.9%, ERR of Ascaris lumbricoides, Trichuris trichiura and hookworm
eggs was 96.9%, 84.6% and 98.2%. Monitoring efficacy of mebendazole single dose at 500
mg with soil transmitted helminths 14 days after treatment, CR of Ascaris lumbricoides,
Trichuris trichiura and hookworm eggs was 100%, 73.0%, and 82.0%, ERR of Ascaris

lumbricoides, Trichuris trichiura and hookworm eggs was 100.0%, 65.3% and 94.1%. This
study shows that albendazole is effective against all three types of soil transmitted worms
(Ascaris lumbricoides, Trichuris trichiura and hookworms) and mebendazole effective against
Ascaris lumbricoides, and hookworms but not so good with Trichuris trichiura. Results of our
study showed no albendazole and mebendazole resistance in Lao Cai and Ha Tinh provinces.
Key words: albendazole, mebendazole, CR, ERR.

×