Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

luận văn đại học sư phạm Yếu tố truyền thống và hiện đại trong tranh dân gian Đông Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.07 KB, 22 trang )

Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa của mỗi dân tộc luôn là một dòng chảy không ngừng và ở
đó, quan hệ giữa truyền thống với hiện đại có vai trò rất quan trọng. Việc
giải quyết hài hòa quan hệ này sẽ vừa giúp xác định tính chất, diện mạo văn
hóa của mỗi dân tộc, vừa góp phần tạo ra động lực cho phát triển.
Trong kho tàng mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, có một mảng tranh rất
quý giá còn lưu truyền đến ngày nay đó là tranh dân gian. Tranh được sản
xuất ở rất nhiều vùng khác nhau trên khắp đất nước ta từ Bắc đến Nam. Và
có rất nhiều làng tranh nổi tiếng Đông Hồ (Hà Bắc) Hàng Trống (Hà Nội),
Nam Hoành (Nghệ An), Sình (Huế), tranh Nam Bộ tranh của các dân tộc
thiểu số- lâu đời và nổi tiếng hơn cả là tranh Đông Hồ.
Tranh dân gian là một phần quan trọng trong toàn bộ nền văn hóa dân
tộc, ở đó thể hiện những nét độc đáo trong sinh hoạt, vui chơi, lễ hội và
truyền thống dân tộc Tranh có cội nguồn từ xa xưa và ra đời phục vụ cho
nhu cầu chơi tranh dịp tết đến xuân về và nhu cầu thờ cúng tổ tiên của đông
đảo quần chúng nhân dân trước kia cũng như hiện nay.
Với cuộc sống hiện đại hôm nay có thể nội dung tranh không còn phù
hợp. Song không vì thế tranh dân gian không còn tồn tại. Trái lại tranh vẫn
chinh phục được đông đảo quần chúng yêu nghệ thuật trong và ngoài nước
bởi yếu tố truyền thống và hiện đai thể hiện trong giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật của nó. Trên cơ sở sự hình thành, phát triển, giá trị nghệ thuật mà
tranh dân gian Đông Hồ có được tôi nghiên cứu đề tài “Yếu tố truyền thống
và hiện đại trong tranh”.
2. Mục đích
Chọn và nghiên cứu “Yếu tố truyền thống và hiện đại trong tranh dân
gian Đông Hồ” tôi mong muốn có thêm những kiến thức về nền văn hóa
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội


1
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
đậm đà bản sắc văn hóa Việt, hiểu thêm về tranh dân gian nói chung và
tranh đông hồ nói riêng.
Tìm hiểu yếu tố truyền thống và hiện đại trong tranh dân gian xưa và
nay là tìm về những giá trị văn húa tinh thần, giá trị truyền thống của dân
tộc Việt.
Qua sự hiểu biết sâu sắc về tranh dân gian, hiểu về nguồn gốc ra đời,
sự phát triển; giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tranh dân gian để từ
đó biết gìn giữ và phát triển nghệ thuật truyền thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về yếu tố truyền thống và hiện đại trong tranh dân gian
Đông Hồ.
- Tranh Đông Hồ xưa và nay tại Thuận Thành , Bắc Ninh và Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích so sánh tổng hợp được áp dụng để tìm hiểu nguồn gốc ra
đời, cách làm tranh, màu sắc trong tranh, từ đó thấy được những nét biến
đổi của tranh từ trước đến nay.
Nghiên cứu tài liệu, sử dụng những tri thức chuyên nghành giáo dục,
văn học, văn hóa dân gian, sử học…để nghiên cứu quá trình hình thành,
phát triển và sức sống của tranh dân gian.
Tham khảo ý kiến của các thạc sĩ, nhà phê bình mỹ thuật về sự hiểu
biết tranh dân gian nói chung và tranh Đông Hồ nói riêng.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
2
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
1.1 Tranh dân gian Việt nam
Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian
phát triển rất mạnh mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn còn được
giữ gìn bảo tồn trong một số làng nghề và một số gia đình làm tranh.Tranh
được sáng tạo nhờ trí tuệ của tạp thể, của nhân dân và gồm nhiều thể loại.
Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và tranh thờ. Sở dĩ tranh dân
gian Việt Nam xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính là tranh tết
và tranh thờ xuất hiện gần như cựng lỳc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.
Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay
thậm chí là cả một làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà
Trần nhiều nơi đã in được tiền giấy (là một cách thể hiện của tranh dân
gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được phát triển mạnh.
Thời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật
khắc ván in của Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm
cho phù hợp. Cùng với đó là sự phõn hoỏ của tranh dân gian xuất hiện ngày
càng rõ nét.
Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh
dân gian không còn là sản phẩm riêng của những người nông dân nghèo khó
nữa, mà đã được cả tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích,
thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.
Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và
phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả
nước. Cùng với đó là sự phân hóa, những dòng tranh mới xuất hiện, được
gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đó cú những phong cách riêng của mỡnh.
Nột riờng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ quy trình làm tranh
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
3

Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ thuật
khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc
riêng
Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có
nhiều dòng tranh xuất hiện. Cú dũng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng
cũng có những dòng tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã
làm mai một đi, cỏc dũng tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực
thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh vẫn còn đó, như là một
chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vón mói là di sản của dân
tộc Việt Nam.
Có một số dòng tranh dân gian chớnh đó một thời cực thịnh và ngày
nay còn lưu giữ được một phần, như:
• Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh)
• Tranh Hàng Trống (Hà Nội)
• Tranh Kim Hoàng (Hà Tây)
• Tranh làng Sình (Huế)
1.2. Tranh Đông Hồ
1.2.1. Làng Hồ
Làng Đông Hồ nằm ven sông Đuống, cách Hà Nội chừng bốn mươi
km về phía đông, huyện Siêu Loại, chấn Kinh Bắc (nay là Song Hồ, huyện
Thuận Thành, Hà Bắc). Đông Hồ có truyền thống nghệ thuật lâu đời. làng
có nghề làm tranh nổi tiếng và nghề làm tranh này đã được ca dao xưa ghi
lại qua lời tỏ tình hết sức nhẹ nhàng và khéo léo:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mỏi cú lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh.
Ta bắt gặp làng Hồ hiện lên với những hình ảnh rất thơ mộng, với một

truyền thống văn hóa có lịch có lề, không gian làng quê với ao tắm mát, rồi
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
4
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
làng nghề làm tranh. Đây là một ngôi làng truyền thống của người Việt ở vùng
đồng bằng sông Hồng.Ở Đông Hồ ngày nay vẫn còn một số nghệ nhân duy trì
nghề làm tranh dân gian của cha ông để lại. Tiêu biểu là nghệ nhân Nguyễn
Đăng Chế. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn đăng, đến ông Chế là đời thứ 20
và là dòng họ làm tranh lớn nhất ở Đông Hồ. Điều này có lẽ cũng là một trong
những cơ sở xác định thời điểm ra đời của tranh dân gian Đông Hồ.
1.2.2. Tranh Đông Hồ
Vào dịp tết Nguyên đán, theo phong tục cổ, những tờ tranh in màu
sắc tươi rói lại được bày bán khắp nơi từ nông thôn đến thành thị làm không
khớ đún xuõn chờ tết càng thêm nao nức.
Tranh dân gian, tranh tết truyền từ đời này sang đời khác bằng kỹ thuật
in bản gỗ. Tranh khắc gỗ dân gian nổi tiếng cú: Đụng Hồ (Hà Bắc) Hàng
Trống (Hà Nội), Nam Hoành (Nghệ An), Sình (Huế), tranh Nam Bộ tranh của
các dân tộc thiểu số - lâu đời và nổi tiếng hơn cả là tranh Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ là thể loại tranh khắc gỗ và được in hoàn toàn. Tranh
Đông Hồ còn có tên gọi khác là tranh Điệp. Sở dĩ có tên gọi đó là vì nền
tranh được quét bột điệp và cũng bởi sự đặc biệt của tranh Đông hồ chính là
nền tranh. Bột điệp được chế ra từ vỏ con sò, con diệp nung nóng rồi nghiền
nhỏ ta sẽ có một loại bột màu trắng , óng ánh. Sau đó trộn bột điệp với hồ
nếp và quét lên giấy vẽ bằng một chiếc chổi lá thông sẽ để lại trên nền giấy
những vệt màu không đều. thậm chí có nhiều chỗ giấy không có màu. Điều
này đã tạo một nền tranh rất đặc biệt. Để nền tranh có màu sắc phong phú,
các nghệ nhân đã quét lên nền điệp một lớp màu mỏng. Nền tranh Đông Hồ
thường có ba màu: vàng chanh, trắng điệp và đỏ cam.

Giấy để vẽ tranh Đông Hồ là giấy dó: một loại giấy được chế tạo thủ
công từ cõy dú. Cõy dú cú đặc điểm: mỏng, nhiều xơ và chất thấm màu.
Điểm đặc biệt nữa trong tranh Đông Hồ là màu vẽ. Tất cả đều là màu được
chế ra từ cây gỗ vang thì gọi là đỏ vang. Màu đỏ mài từ son là đỏ son. Do
đó chỉ cần đọc bảng màu tranh dân gian Đông Hồ ta sẽ biết được nguồn gốc
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
5
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
của màu. Ví dụ xanh chàm, vàng hòe hay vàng dành dành, vàng nghệ… Để
có được màu ấm áp, các nghệ nhân chọn các màu vàng tươi, đậm chộn với
màu trắng điệp. Nói chung màu dung để vẽ tranh Đông Hồ được gọi bằng
một cái tên cũng rất dân gian: màu thuốc cái. Sau này trong quá trình phát
triển, người ta có thể dựng thờm phẩm màu, màu bột…cựng màu thuốc cái
để vẽ tranh mà vẫn giữ được đặc điểm của tranh dân gian.
Để có được tờ tranh các nghệ nhân còn phải chế bản in. Có hai loại
bản khắc: khắc màu và khắc nét. Muốn có được bản khắc màu, người ta
phải chọn loại gỗ thớ mềm, xốp và dễ hút màu. Các nghệ nhân làng Hồ
thường chọn gỗ giổi, gỗ vàng tâm để làm bản khắc và in màu. Bản khắc nét
phải được khắc trên loại gỗ bền, chắc , thớ dẻo, mịn như gỗ thị, gỗ mỡ, gỗ
lồng mực. Cách in tranh là lối in ván sấp và in theo dõy truyền. Mỗi người
in một màu. Trong tranh có bao nhiêu màu thì phải có bấy nhiêu bản khắc
màu và lần in. Cuối cùng quan trọng nhất là in nột. Nột in sẽ chặn các mảng
màu và định hình cho các hình tượng trong tranh. Tranh Đông Hồ được sản
xuất ở làng quê. Do đó vẻ đẹp của tranh cũng mộc mạc, chân chất và đậm
đà theo quan niệm thẩm mỹ của người nông dân làm nghệ thuật.
1.2.3. Giá trị nghệ thuật của tranh dân gian Đông Hồ
Tranh dân gian có truyền thống lịch sử lâu đời. Đến nay tranh vẫn
được yêu thích. Người làm tranh Đông Hồ cú lỳc đó bị mai một. Nhưng nú

đó được phát triển trở lại. Một trong những nguyên nhân làm cho tranh dân
gian có được sức sống mạnh mẽ như vậy chính là bởi giá trị nghệ thuật của
dòng tranh này. Một số tác phẩm là một sự sắp xếp bố cục, đường nét, hình
khối. Các nghệ nhân đã tìm được cách bộc lộ ý tưởng qua các đề tài mang
tính dân gian sâu sắc.
Đối với tranh Đông Hồ, các nghệ nhân không diễn tả chiều sâu không
gian. Mọi hình tượng được in, vẽ trên nền tranh một màu. Mặc dù vậy khi
xem tranh chúng ta đều cảm nhận được không gian trong tranh. Không gian
đó được tạo nên bởi các lớp, các tuyến nhân vật trước sau, bởi cảnh vật
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
6
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
dựng lên một cách ước lệ như trong tranh “Đánh ghen”: các nhân vật được
đặt ở giữa, trước là chậu hoa, sau là tường, là cây Tùng, cho ta cảm nhận
được không gian mà các nhân vật hoạt động là trong sân một gia đình khá
giả thời đó. Không gian trong tranh là không gian ước lệ. Trong tranh “Đấu
vật” ngoài hình tượng của 4 đôi đô vật được các tác giả sắp xếp cân đối, trên
tranh còn 2 mảng đậm treo ở phía trên. Các nghệ nhân đã thổi hồn cho các
nhân vật trong tranh có sự sống. Các hình tượng trong tranh được sắp xếp
theo nhiều bố cục rất đặc biệt. Có tranh tuân theo bố cục trong các hình tam
giác như tranh “Hứng dừa”, “Đấu vật”…, hình chữ nhật như tranh “Gà đàn,
lợn đàn”…, hình tròn như trong tranh “Đánh ghen” hình trứng như tranh
“Vinh hoa, phú quý, bộ ụm khúc”… Ngoài ra một cách bố cục khác là theo
tầng lớp. Các nhân vật được dàn trên mặt tranh khụng hỡnh nào bị che
khuất. Dù bố cục hình theo kiểu gỡ, cỏc nghệ nhân dân gian đều có cách sắp
xếp các mảng màu theo những đường lượn khác nhau rất phong phú. Vì vậy
tranh dân gian dù chỉ vẽ với ba bốn màu nhất định không pha trộn nhưng
những đường lượn tạo vẻ chuyển động của từng màu trong tranh đã làm cho

tranh không đơn điều nhàm chán.
Một yếu tố nữa trong ngôn ngữ tạo hình là đường nét và hình mảng.
Nét và mảng tạo hình cho nhân vật. Khi xây dựng các hình tượng nhân vật
điều đầu tiên được chú ý là dáng, cử chỉ, động tác của nhân vật. Dáng phải
động và diễn tả được đúng đặc trưng, tâm trạng, tính cách của nhân vật.
Theo quan niệm tạo hình dân gian, khi vẽ quan trọng nhất là diễn tả được
cái “thần” của nhân vật. Trong tranh dân gian các nhân vật mặc dù chưa
đúng tỷ lệ, giải phẫu tạo hỡnh… nhưng lại rất sống động trong dáng, trong
tâm trạng, tính cách của từng người, không ai lẫn với ai.
Tất cả các yếu tố hỡnh, dỏng, đường nét, màu sắc, bố cục đã tạo nên
vẻ đẹp cho tranh dân gian Việt Nam. Cái đẹp ở đây là cái đẹp hài hòa cân
đối của các yếu tố ngôn ngữ tạo hình mang theo nét hồn hậu, mộc mạc của
đồng quê.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
7
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
CHƯƠNG 2: YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
Nghệ thuật giữ được ngọn lửa truyền thống văn hóa đem đến ý nghĩa
sinh động cho khái niệm truyền thống như Thomas Morus (tác giả cuốn
Utopia, 1478-1535) nhận chân: "Truyền thống không có nghĩa gìn giữ đống
tro, mà là chuyển tiếp ngọn lửa".
Giữ "lửa" và tiếp "lửa" là thổi sinh khí truyền thống văn hóa vào hiện
đại, mang sức ấm mùa xuân vào ngày hôm nay, mang nhiên liệu thức ăn bồi
bổ cho sức trẻ, đó là công việc đồng thời của cha mẹ trong gia đình, của bạn
bè trong xã hội, của thầy trò trong trường học, của đạo sư và môn đồ, và
không phải là kẻ cuối cùng, của nhà văn hóa và của cả một thế hệ thức tỉnh
và sáng tạo. Chất lửa ấy chính là ý thức tổng hợp linh động có thể hội nhập

mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, thâu gồm cái đồng dạng và cái dị
biệt, kết nạp cái cũ và cái mới, để có thể thật là "hiện đại" đầy sáng tạo cho
tương lai.
2.1 Yếu tố truyền thống trong tranh dân gian Đông Hồ
Tranh dân gian được sản xuất ở rất nhiều vùng khác nhau trên khắp
đất nước ta suốt từ Bắc đến Nam chính vì thế nên tranh rất đa dạng về nội
dung cũng như cách thể hiện nhưng dù ở đâu, tranh dân gian cũng thể hiện
trí tuệ tạo hình của một tập thể một dòng họ, một làng xã, một vùng miền.
Vì vậy dù ở đâu nội dung tranh cũng nói lên những điều người dân khao
khát, mong chờ, mơ ước, thỏa mãn nhu cầu của họ trong đời sống thực tế
cũng như đời sống tinh thần. Tranh dân gian nói chung và tranh Đông Hồ
nói riêng đều có một điểm chung đó là cách biểu hiện dễ hiểu, dễ đi vào
lòng người thưởng thức.Với cuộc sống hiện đại có thể nội dung tranh không
còn phù hợp. Xong không vì thế tranh dân gian không thể tồn tại mà ngược
lại tranh còn càng ngày càng giá trị cao trong cuộc sống tinh thần của người
dân Việt và tranh vẫn thể hiện chất truyền thống vốn có của nó. Tranh dân
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
8
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
gian Đông Hồ đã chinh phục được đông đảo công chúng yêu nghệ thuật
không những trong nước mà cả khách nước ngoài bởi tính truyền thống của
nó. Sức sống của tranh dân gian thật mãnh liệt vượt qua cả thời gian hoàn
cảnh xã hội đến với chúng ta. Giá trị truyền thống ấy trong tranh thể hiện
qua những yếu tố nào?
Về nội dung tranh Đông Hồ mộc mạc mang ý nghĩa tốt lành, giáo dục
lòng yêu nước, đề cao các anh hùng kiệt xuất đã có công dựng nước và giữ
nước như mảng tranh lịch sử; đề cao lòng nhân ái hướng thiện yêu cái tốt
ghét cái xấu.

Về hình thức là sự tìm tòi công phu qua nhiều thế hệ. Tranh Đông Hồ
có vẻ đẹp dung dị, mộc mạc rất độc đáo, mà ít có loại tranh nào trên thế giới
đạt được. Về cách dùng màu có sẵn trong thiên nhiên có thể sánh ngang với
chất liệu mà các nghệ sĩ Ai Cập đã thể hiện trên những bức tranh tường,
trong các kim tự tháp cổ đại mà các đời sau đã bỏ ra bao công sức để khám
phá ra chất liệu đó. Trong đó hình thức được của tranh Đông Hồ được thể
hiện qua chất liệu, bố cục, đường nét, màu sắc:
2.1.1. Chất liệu
Tranh Đông Hồ được làm bằng chất liệu truyền thống được lấy từ
thiên nhiên, đây là loại tranh khắc gỗ in tay. Lợi thế của thể loại này là:
nhân bản được nhiều một cách dễ dàng (mỗi vụ tranh, một gia đình có thể
sản xuất ra vài vạn tranh).
Sau khi đã cơ bản vẽ sáng tác (vẽ ra mẫu) một số nghệ nhân chuyên
nghiệp tìm gỗ để khắc (khắc ván). Gỗ khắc là gỗ mít hay gỗ dổi, đã xẻ thành
vãn được vài năm, cho gỗ khô kiệt, ván không bị vênh, cong. Không khắc
bằng dao mà đục, đục sâu vào thân gỗ ngập nửa ngón tay, do đó nét phải to
khỏe, tranh Hàng Trống khắc bằng dao trên gỗ thừng mực-gỗ mềm nét
mảnh nên dễ nhòe, dễ gãy, đó là sự khác biệt giữa hai dòng tranh. Trước khi
in phải ngõm vỏn, hết vụ lại cọ ván sạch sẽ, treo lên gác bếp để vụ sau làm
tiếp, gỗ cứng như sừng, mỗi ván phải in tính bằng triệu bản. Có gia đình khi
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
9
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
có con gái đi ở riêng cha mẹ cho vài ván làm của hồi môn, để giữ nghề và
tết nhất có đồng gia đồng vào.
2.1.2. Bố cục
Là sự sắp xếp cỏc mụ tớp trong tranh sao cho chặt chẽ hợp lý. Tranh
“Gà đàn” gà mẹ nằm giữa, thể hiện nội dung chủ đề tình mẫu tử, mẹ vừa

nuôi con (đang ngậm mồi) vừa sẵn sàng dang rộng cánh để bảo vệ đàn con,
đôi mắt long lanh như cảnh giác để phát hiện kẻ thù ở bất cứ đâu xông tới,
dáng điệu vừa uy nghi vừa hiền từ. Mười chú gà nhóc, mỗi con một dáng vẻ
không trùng lặp, tạo nên sự nhịp nhàng uyển chuyển trông rất ngộ nghĩnh,
sống động và vui mắt. Một bố cục chặt, các khoảng trống hợp lý, không
thừa một nét, không thiếu một đường, nó được chau chuốt kỹ lưỡng có chắt
lọc, phối hợp với lối cách điệu cao như thực như hư, nét to đi với nét mảnh
và đan xen những họa tiết trang trí, đều có dụng ý.
2.1.3. Đường nét
Đường nét tranh dân gian Đông Hồ được khắc họa một cách chắt lọc
về đường nét và mang yếu tố trang trí cao; tỉ lệ hình ước lệ theo một sự hợp
lý của bản năng nghệ thuật và cảm thức trong sáng, hồn hậu, dí dỏm… Ví
dụ như trong tác phẩm “Em bé ôm gà và ôm vịt” ta thấy hai em đều mũm
mĩm, xinh tươi giống nhau như đúc, nhưng đó lại là một em bé trai và một
em bé gỏi. Hóy thử so sánh mà xem, cũng áo cộc đeo vòng cổ và vòng tay,
chỉ khác nhau chỏm tóc, tác giả đã quan sát rất kỹ. hoặc tranh “Hứng dừa”
chủ đề của tranh ở trước mắt, nhưng ít ai để ý đó là tàu dừa cong xuống, kết
hợp với tàu dừa đưa ngang tạo thành hình tam giác sâu hun hút.
2.1.4. Màu sắc
Cái độc bản của màu sắc tranh dân gian đông hồ là nghệ nhân đã biết
sử dụng và khai thác kho nguyên liệu vô tận từ thiên nhiên, vừa dễ kiếm vừa
rẻ tiền. Có một sự lao động thong minh sang tạo của rất nhiều thế hệ thì mới
có một bảng hòa sắc nhuần nhuyễn như thế. Của kho thì vô tận nhưng đâu
dễ chiều lòng người, hơn nữa lại là người làm nghệ thuật. Công việc tưởng
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
10
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
như đơn giản nhưng quả công phu. Loại màu cổ xưa nhất, màu cổ truyền

thống gọi là màu điệp.
- Điệp: lung linh, óng ả, biểu hiện sự trong trắng thanh cao như tâm
hồn người việt trải 4000 năm dựng nước và giữ nước, lớp lớp anh hung, hào
kiệt, làm nên những trang sử oanh liệt
- Màu vàng hũe Đụng Hồ dịu dàng mà ấm cúng . Đó là màu tượng
trưng cho sự no đủ, tươi vui như biển lúa dập dờn, trĩu hạt. Đó cũng là màu
của rơm, mái rạ quen thuộc và còn đọng trĩu tấm áo, vuông yếm sồi của mẹ
già tần tảo.
- Đỏ vàng quen thuộc với thẩm mỹ giõn dan trong những ngày hội hè
đình đám, cưới xin.
- Màu đỏ tưng bừng náo nhiệt ấy không thể thiếu được trong những
ngày vui. Tục ngữ cú cõu “ đỏ như vang, vàng như nghệ”. Tuy cùng với
vàng tạo nên sắc màu then thiết với người Việt Nam nhưng nghệ ko phải là
chất liệu in tranh, chỉ là một món gia vị ngon lành.
- Màu xanh lấy từ rỉ đồng. Màu nâu lấy từ sỏi son có nhiều ở Tõn
Yờn, Bắc Giang
- Màu tím chiết xuất từ lá chàm hái từ rừng sâu Việt Bắc
Còn nhiều màu nữa. Mỗi mầu đươc tạo ra là cả một quy trình kỹ
thuật, với phương tiện hết sức thô sơ: màu den của than lá tre, màu xanh của
rỉ đồng, màu nâu của sỏi, màu tím của chàm. Người Đông Hồ gọi nôm na
tên chất liệu tạo ra màu thành tên màu chứ ko bao giờ gọi theo tên người tìm
ra nó, như phong cách Châu Âu.
Gam màu Đông Hồ tuy hạn chế nhưng cách đặt màu rất khéo, đúng
chỗ tạo nên màu uyển chuyển có duyên. Nhiều tranh chỉ từ hai đến ba màu
nếu không kể điệp và đen. Có khi chỉ cần một màu như tranh “Đánh vật”
thêm màu nữa sẽ thừa. Một màu nhưng nổi bật nội dung, thật tài tình và
khôn khéo, nội dung quyết định hình thức chứ không phải hình thức quyết
định nội dung.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội

11
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
2.2. Yếu tố hiện đại được thể hiện trong tranh Đông Hồ
Ngoài giá trị truyền thống thể hiện qua chất liệu, màu sắc, bố cục…
thỡ tranh dân gian Đông Hồ còn mang trong nó yếu tố hiện đại.
Tranh Đông Hồ truyền thống là những tranh tết, phục vụ nhu cầu
thẩm mỹ của nhân dân lao động, trước hết là nông dân, để trang trí nhà cửa
đón mừng năm mới. Tranh Đông Hồ đã mang đến cho mọi người ánh sang
và niềm vui. Những sắc màu tươi ấm làm rạng rỡ không gian, gợi lên những
hình ảnh quen thân, làm dấy lên những hy vọng hạnh phúc. Tất cả những
sắc màu và hình ảnh của Đông Hồ đều phù hợp với những đồ dùng của gia
đình bình thường. Về đề tài, tranh tết của Đông Hồ có nhiều loại. Trước hết
là những tranh mang niềm hy vọng về cuộc sống hạnh phúc. Đó là ước mơ
bao đời nay của người dân Việt Nam. Những tờ tranh “Ông tướng canh
cửa” là để tà ma đừng bén mảng đến (cũng như truyện cây nêu và các hình
vẽ cung, tên ở sõn…) mà người xưa đã tin một một cách ngây thơ. Tờ tranh
“Đại cỏt” lấy hình ảnh con gà trống là vầng dương xua đuổi đêm tối cựng
cỏc tà thần, gợi niềm tin vào cái đẹp tổng hợp của “ngũ đức”: văn – vũ –
nhân – tín – dũng. Các tờ tiến tài và tiến lộc là hy vọng về một cuộc sống đỡ
vất vả. Những tranh gà đàn, lợn đàn là ước muốn về chăn nuôi vừa là tổ ấm
gia đình tràn đầy hạnh phúc. Những cảnh đánh vật rước trống, múa sư tử…
trờn cỏc hội xuân đến cảnh hứng dừa đều phản ánh một cách hồn nhiên về
cuộc sống tươi vui và về hạnh phúc lứa đôi.
Tranh tết Đông Hồ đã vạch ra và phơi bày cho mọi người thấy một bộ
mặt xấu xa của tầng lớp trên. Các tranh “trạng chuột vinh quy” là sự cấu xé
quyết liệt của bọn thống trị như chuột với mèo. Đại diện cho các tầng lớp
trong xa hội.
Tranh “Trường học cúc” đã chế giễu trí thức của xã hội xưa như ếch
ngồi đáy giếng, chẳng biết gì cả, thế mà lại vênh váo lên mặt tài giỏi. Tranh

đánh ghen phê phán nạn đa thế với sự ích kỷ thành triết lý của người chồng
ham thanh chuộng lạ. Và trong xã hội bị thực dân thống trị, tranh tết Đông
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
12
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
Hồ phê phán luôn cả những sự bịp bợm mượn nhãn hiệu “văn minh”, “tiến
bộ” của chế độ đương thời. Đó là các tranh: văn minh, tiến bộ, giấc mơ giàu
sang phú quý, phong tục, cải lương, toa tăng xương (tăng tốt lành); là trai tứ
khoái, gái trăm bề…
Loại tranh lịch sử Hai Bà Trưng, Quang Trung, ghi lại quá khứ huy
hoàng của dân tộc, để tự hào, vừa ghi ơn người xưa và xây dựng truyền
thống giữ nước. Loại tranh về truyện Kiều, Thạch Sanh, Phạm Cụng Cỳc
Hoa, Lục Võn Tiờn… có tác dụng giáo dục truyền thống nhân đạo và đấu
tranh chống áp bức bất công, quý trọng lẽ phải Cả đến tranh Tiên sư vị
cũng là biểu hiện của lòng nhớ ơn tổ tiên và tổ nghề.
Từ sau cách mạng tháng 8 tranh tết Đông Hồ đã bám sát những yêu
cầu của cách mạng, tuyên truyền các chính sách kháng chiến và tiến quốc
như: tòng quân giết giặc, đóng thuế nông nghiệp, bình dân học vu, chiến
thắng điện biên phủ… Chính ở loại đề tài này ngay trên đất Hà Nội, một số
nghệ nhân đó cú những đóng góp đáng kể. Đáng chú ý là các tranh: làm
thủy lợi, hợp tác xã măng non, chăm sóc trâu bò, tết trồng cây, hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp… và thật mỉa mai thú vị là bức “chiến thắng trở về”,
trong đó “Thần Sấm” của Mỹ, từ chin tầng trời cao rơi xuống đất rồi được
xếp lên chiếc xe thô sơ cú trõu kộo. Mảng đề tài ca ngợi chiến thắng chống
Mỹ khá phong phú, mỗi tin thắng lớn đều gây cho nghệ nhân Đông Hồ ở Hà
Nội nhiều xúc động và đều được ghi lại bằng tranh. Tranh Đông Hồ ngày
nay vẫn đang tiếp tục cuộc sống của nó. Ngoài số tranh truyền thống của nó
vốn rất được các công chúng yêu thích, hang năm vẫn có các nghệ nhân

sang tác tranh mới theo đề tài thuộc về cuộc sống hôm nay. Lại có những
họa sĩ học cách nhìn, cách nghĩ và quan niệm tạo hình của nghệ nhân làng
Hồ, để sáng tác những tranh dân tộc – hiện đại. Cái “phân lưu” của Đông
Hồ ở Hà Nội đã làm giàu thêm vốn văn hóa của thủ đô.
2.3. Thực trạng tranh Đông Hồ ngày nay
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
13
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
Tranh dân gian Việt đã trở thành một ngôn ngữ nghệ thuật có giá trị
trường tồn, góp phần phát triển văn hoá nghệ thuật dân tộc và là niềm tự hào
của đất nước. Thế nhưng, cỏc dũng tranh ấy hiện nay đang dần mai một và mất
hẳn. Có lẽ, vỡ khú đáp ứng được thị hiếu của công chúng hiện đại cũng như
không theo kịp được với sự phát triển thần tốc của văn hoá, kinh tế, xã hội…
Thực trạng của làng tranh bây giờ ra sao? Cũng khó tìm ra được lời
giải đáp cụ thể. Nhu cầu vài năm gần đây thay đổi, cứ mạnh ai nấy làm.
Người làng tranh bây giờ nảy sinh tâm lý: ai đặt thì làm, nhiều khi với số
lượng tranh quỏ ớt cũng không muốn làm. Thi thoảng lắm cũng có nơi về
làng tranh đặt vài nghìn tờ, không sản xuất được thường xuyên nên cũng
khó tổ chức sản xuất tranh được đều đặn trong năm, ảnh hưởng đến thu
nhập của người làm tranh.
Dẫu người làng tranh có làm tranh đi nữa cũng phải chạy theo thị
trường, nghĩa là khi pha màu chủ yếu là bột goỏt để giá thành được rẻ Còn
đâu như thủa nào tranh làng Hồ giữ nguyên được sắc màu tươi tắn, nhuần
nhụy của các màu lấy từ cây vườn, nội cỏ. Ngoài in tranh bằng màu tự tạo
cú thờm loại tô màu phẩm, một hướng đi mới bắt đầu xuất hiện, kích thước
tranh cũng rộng rãi hơn, tạo đà cho tranh treo dọc phát triển, cốt để hạ giá
thành bán tranh được rẻ. Một số người chạy theo lợi nhuận mua sách báo cũ
về in tranh, tô màu lòe loẹt ảnh hưởng không nhỏ đến thẩm mỹ của người

xem tranh, gây tâm lý coi thường làm mất bản sắc truyền của tranh Đông
Hồ ngày xưa.
Họa chăng tranh làng Hồ còn giữ được sắc thái tự nhiên chỉ còn được
chiêm ngưỡng ở Viện bảo tàng và các sưu tập tư nhân mà thôi. Mà sức sống
của tranh dân gian này chủ yếu phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao
động.
Và đã có một thời gian tranh dân gian éụng Hồ bị lãng quên nên nghề
làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ
vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây, người éụng Hồ lại hoan hỉ trở lại với
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
14
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự
mộc mạc giản dị của tranh éụng Hồ là không thể thiếu được trong cuộc sống
thường nhật, nhất làngàytết.
Sau nhiều năm có nguy cơ mai một, làng tranh dân gian Đông Hồ,
huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) đang có sức sống trở lại, trở thành một
điểm tham quan du lịch văn hóa có sức hấp dẫn du khách cả trong và ngoài
nước. Có lẽ đã đến lỳc đún nhận sự quay trở lại của dòng sản phẩm văn hóa
truyền thống. Hi vọng trong tương lai gần, cùng với các làng nghề truyền
thống khỏc trờn cả nước, làng tranh Đông Hồ sẽ tìm lại được vị trí vốn có
của mình và ngày càng phát triển, làm giàu thêm cho nền văn hoá đậm đà
bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
15
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền

C. KấT LUẬN
Tranh dân gian nói chung và tranh Đông Hồ nói riêng có vẻ đẹp của
hình thức nghệ thuật , màu sắc tươi tắn, bố cục cô đọng dễ hiểu. Hình thức
đó mang đậm yếu tố truyờn thống và hiện đai, chuyển tải nhiều nội dung
chắt lọc từ cuộc sống hiện thực, từ mơ ước của con người về hạnh phúc đầm
ấm trong gia đình, sự bình yên thịnh trị của xã hội. Cách tạo hình hồn nhiên,
trong sáng diễn tả cái hồn của dân tộc, tranh dân gian có sức hấp dẫn đặc
biệt và mang tính giáo dục cao. Điều này tạo nên sức sống mãnh liệt cho
dòng tranh này, để lại trong kho tàng Mỹ thuật Việt Nam những tác phẩm
vô cùng quý giá. Không những thế nó còn là những bài học cho các thế hệ
sau về mối quan hệ giữa nét và mảng, hình và màu, mảng trống và mảng
đặc trong tranh. Cách tạo hình ước lệ trong tranh đã gợi nguồn cảm hứng
sang tạo cho các nghệ sĩ tạo hình để sáng tạo ra những tác phẩm mỹ thuật
vừa hiện đại vừa mang tính truyền thống, đưa mỹ thuật việt Nam hòa nhập
với Mỹ thuật thế giới mà vẫn giữ được bản sắc riêng.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
16
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

Vinh hoa Phú quý
Đám cưới chuột
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
17
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
Hứng dừa

Các bản in của tranh “ Lợn đàn âm dương”
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
18
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
Bản nét Bản in

Tranh Đông Hồ Mục đồng thổi sáo
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
19
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
Tranh “ Đấu vật”
Tranh “ Đại cỏt”
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
20
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử mỹ thuật Việt Nam - Phạm Thị Chỉnh.
2. Ai về làng mái Đông Hồ - Nguyễn Thuân.
3. Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long Hà Nội - Đinh Gia Khánh.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
21
Bài thi học phần Trần Thanh
Huyền

MỤC LỤC
Trang
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
22

×