A - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Nguyên nhân khách quan
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một vấn đề rất quan trọng.
Việc hình thành cho trẻ kỹ năng sống thông qua quá trình vui chơi và học
tập, giao tiếp với mọi người giúp trẻ mạnh dạn tự tin.
Ngoài ra giáo dục kỹ năng sống còn giúp trẻ phát triển toàn diện về đức, trí,
thể, mĩ.
2. Nguyên nhân chủ quan
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở trường mầm non, tôi nhận thấy giáo dục
kỹ năng sống có tầm rất quan trọng và cần thiết, nhưng thực tế lại chưa được chú ý
quan tâm đúng mức. Trẻ chưa có lễ giáo khi đến lớp khong biết chào hỏi, thưa gửi.
Đây chính là nguyên nhân khiến tôi trăn trở và quyết tâm thực hiện đề tài này.
3. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống quốc dân. Giáo dục
mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ em phát triển
toàn diện về đức, trí, thể, mĩ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con
người, giúp trẻ phát triển cân đối hài hòa, giàu lòng yêu thương biết quan tâm,
nhường nhịn, giúp đỡ mọi người, thật thà, lễ phép, mạnh dạn tự tin. Làm thế nào để
cho thế hệ trẻ mai sau “ Hòa nhập mà không hòa tan”. Chúng ta đều thừa nhận
rằng: Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình,
là tương lai của dân tộc và nhân loại. Vì vậy nếu trẻ được chăm sóc tốt trẻ sẽ được
phát triển toàn diện, đúng hướng
Là một cô giáo mầm non, người trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ tôi nhận
thấy rằng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 tuổi hiện nay là vấn đề bức xúc, là
việc làm cần thiết có vai trò to lớn trong việc giáo dục trẻ, không riêng bậc học
1
mầm non mà còn nhiều bậc học khác. Đây là vấn đề lớn của toàn xã hội. Việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm tăng cường hiểu biết, mối quan hệ giao tiếp với
cộng đồng nhằm đưa trẻ vào môi trường sư phạm thật lành mạnh và trong sáng, đào
tạo thế hệ trẻ những con người phát triển toàn diện về nhân cách – trí tuệ. Vì vậy,
tôi đã chọn đề tài : Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 tuổi ở lớp
mẫu giáo nhỡ Trường Mầm Non Đoàn kết
B - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
- Phát triển ngôn ngữ và khả năng diễn đạt mạch lạc cho trẻ
- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin, biết bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên và biết ứng
sử có kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày.
II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu : Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ 4 tuổi lớp mẫu giáo nhỡ trường mầm non Đoàn kết
* Phạm vi nghiên cứu : Trẻ mẫu giáo 4 tuổi lớp mẫu giáo nhỡ trường mầm
non Đoàn kết
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận
Sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ mầm non được hình thành và phát
triển trong quá trình vui chơi và học tập, trong quá trình giao tiếp với mọi người
xung quanh hay với đồ vật, hành vi của trẻ được thể hiện bằng ngôn ngữ, hành
động ra bên ngoài những hành vi đó mang ý thức đạo đức bên trong được thể hiện
ra bên ngoài bằng cử chỉ, hành động. muốn trẻ lĩnh hội được hành vi phải cho trẻ
2
hoạt động tích cực, đặc biệt là hoạt động mà trẻ thích. Để những hành vi của trẻ thể
hiện một cách có văn hóa và đúng đắn đứa trẻ cần có sự giáo dục của người lớn,
của gia đình và cô giáo trong môi trường gia đình trường học và xã hội.
Các hoạt động giao tiếp, sinh hoạt, học tập hàng ngày của trẻ đều có tác động
trực tiếp, thu hút sự quan tâm của trẻ đó là môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho
trẻ phát triển toàn diện. Đối với bậc học mầm non, những hành động của giáo viên
sẽ gây sự chú ý của trẻ như học tập, lao động, trò chuyện, tiếp xúc với những hình
ảnh, biểu tượng. Hình thành cho trẻ khả năng ghi nhớ và cách giao tiếp có chủ định
khi tiếp xúc với bài thơ, câu chuyện trẻ sẽ thể hiện sự hiểu biết của mình với mọi
người, mọi vật xung quanh.
Với nhiều hình thức khác nhau trẻ sẽ có sự tiếp thu ghi nhớ khác nhau và có
cách thể hiện sự hiểu biết, thái độ, ứng xử có văn hóa đối với từng sự kiện, câu
chuyện. Giáo dục kỹ năng sống không chỉ hình thành phát triển nhân cách của trẻ
mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Qua khảo sát đầu năm: Số trẻ đến lớp còn có thói quen tự do, ngôn ngữ chưa mạch
lạc, nói ngọng, nói leo…chưa tuân thủ nguyên tắc, văn minh lớp học, chưa biết
kính trọng, lễ phép với thầy cô và bạn bè.
Đứng trước tình hình như vậy, tôi rất lo lắng phải dạy trẻ như thế nào và
bằng những biện pháp gì để tất cả trẻ lớp tôi có những thói quen và kỹ năng sống
phù hợp với chuẩn mực xã hội. Đầu tiên cô giáo cần giáo dục trẻ những kỹ năng
sống trong cuộc sống hằng ngày có thái độ đúng với cô giáo và người lớn, bạn bè,
có tình yêu đối với mọi sự vật, hiện tượng xung quanh. Giáo dục kỹ năng sống
nhằm hình thành cho trẻ cơ sở ban đầu về nhân cách của con người mới xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
2. Thực trạng của vấn đề
3
Vào đầu năm học tôi luôn gần gũi trò chuyện với trẻ kể cho trẻ nghe những
câu chuyện cổ tích, khai thác sâu vào những chủ đề như: Gia đình, thiên nhiên, con
vật, ngành nghề… cô gợi hỏi trẻ và cùng trò chuyện bằng phương pháp hỏi - đáp.
Ngoài ra tôi quan sát trẻ trong các hoạt động như: hoạt động vui chơi, qua các tiết
học, qua lao động … Qua đó, tôi vừa tạo được sự gần gũi với trẻ vừa khảo sát được
trẻ, Tôi nhận thấy vốn tiếng việt của trẻ rất ít. Trẻ còn nói ngọng, nói không đủ câu.
Giao tiếp không mạnh dạn, còn nhút nhát và hay ngại ngùng. Không dám đến gần cô
và không chịu giao tiếp với các bạn. Khi tham gia các hoạt động trong ngày trẻ
không hay nhường nhịn nhau, ra vào tự do, chưa chào hỏi khi cô tới lớp hay chào khi
có khách, gặp người quen, đặc biệt khi tới lớp trẻ chưa biết vệ sinh cá nhân, trong ăn
uống thì chưa vệ sinh, trong học tập thì trẻ chưa có ý thức. Khi chọn đề tài sáng kiến
kinh nghiệm này để nghiênn cứu tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau.
* Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đưa ra những chuyên đề nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, thực hiện các mục tiêu của ngành.
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ
của các chị em đồng nghiệp.
Bản thân là giáo viên chủ nhiệm lớp có trình độ chuyên môn đại học Luôn
chịu khó tìm tòi, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Phòng học được đảm bảo.
* Khó khăn
Học sinh phần nói còn ngọng, còn nhút nhát và ngại giao tiếp.
Ngôn ngữ giữa cô và trẻ còn bất đồng nên gặp nhiều khó khăn trong công tác
4
giảng dạy và tuyên truyền.
Gia đình học sinh 100% làm nghề nông nên kinh tế còn khó khăn, mức thu
nhập thấp. Một phần phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng của việc cho trẻ
đến trường, nên vẫn còn cho trẻ chơi tự do và để trẻ tiếp xúc với môi trường xấu:
ăn nói không lễ phép, không biết chào hỏi ai, nói tục, chửi bậy, trẻ còn hay đánh
nhau, đa số các gia đình còn nuông chiều con, con thích gì thì cho chơi thứ đó.
Năm học 2012 – 2013 tôi được ban giám hiệu phân công giảng dạy tại lớp Mẫu
giáo nhỡ. Khi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm này để nghiên cứu tôi đã khảo sát
trên học sinh với kết quả cụ thể như sau:
Các hành vi Kết quả trẻ
Tốt Khá Trung bình Yếu
Biết chào hỏi. 0% 20% 40% 40%
Thực hiện sự xin phép 0% 20% 40% 40%
Biết nhận lỗi và xin lỗi 0% 0% 20% 80%
Biết giúp đỡ mọi người 0% 20% 20% 40%
Gìn giữ vệ sinh thân thể, vệ sinh
môi trường
0% 0% 20% 80%
Gìn giữ cất sắp xếp đồ chơi 0% 0% 0% 100%
Mạnh dạn giao tiếp. 0% 0% 20% 80%
Với một kết quả khảo sát không được khả thi như trên, tôi nhận thấy cần phải
tìm ra một sô biện pháp thích hợp mới để tất cả trẻ lớp tôi có những thói quen và kỹ
năng sống phù hợp với chuẩn mực xã hội. Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, diễn đạt
mạch lạc và giúp trẻ thoát khỏi sự nhút nhát ban đầu.
IV. Phương pháp nghiên cứu
5
- Thường xuyên nghiên cứu tài liệu, tạp chí giáo dục mầm non, các hoạt
động giáo dục kỹ năng sống trên phương tiện truyền thông.
- Tuyên truyền để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ
năng sống đối với trẻ mầm non.
- Trong quá trình thực hiện tôi luôn lựa chọn phương pháp hình thức phù hợp
với điều kiện của lớp và hành vi của trẻ .
Phương pháp trực quan
Phương pháp phân tích
Phương pháp nối móc xích
Phương pháp đàm thoại
Phương pháp gợi mở
Theo dõi hoạt động vui chơi và hoạt động học của trẻ.
* Các kinh nghiệm đã tiến hành giải quyết vấn đề.
1. Công tác tuyên truyền giáo dục, phối hợp với phụ huynh:
Vào đầu năm học tôi triệu tập cuộc họp phụ huynh. Khi triển khai cuộc họp tôi
đưa ra những nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bậc
phụ huynh trong việc giáo dục con cái lứa tuổi mầm non, đưa ra những nội quy, quy
chế của trường, của lớp, phối hợp với phụ huynh để đạt hiệu quả cao và khi ở nhà phụ
huynh cũng cần dạy trẻ như:
- Dạy tiếng phổ thông cho trẻ ngay cả ở nhà.
- Dạy trẻ biết chào hỏi, lễ phép với người lớn.
- Dạy cho trẻ tập vệ sinh cá nhân hàng ngày.
Phụ huynh lớp tôi đều là làm nghề nông nên họ ít quan tâm đến con cái
mình, qua các cuộc họp phụ huynh hoặc những buổi tuyên truyền, những lúc phụ
6
huynh đưa con tới lớp và đến đón con về tôi luôn phổ biến và tuyên truyền cách
nuôi dạy con theo đúng khoa học và cách giáo dục những kỹ năng sống đối với trẻ
lúc ở nhà. Phụ huynh giành thời gian chăm sóc con cái như vệ sinh thân thể, chải
răng đúng cách, phụ huynh phải luôn mẫu mực trong giao tiếp ở nhà để trẻ noi
theo, đồng thời chú ý sửa sai trẻ kịp thời những thiếu sót trong giao tiếp đối với bạn
bè, đối với người lớn.
Trên lớp tôi thường xuyên sưu tầm tranh ảnh, tranh minh họa phù hợp với
nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và trao đổi thông báo nội dung giáo dục tới
gia đình phụ huynh.
Ví dụ: Tôi dán lên tường lớp những bức tranh một em bé vệ sinh cá nhân khi
ngủ dậy, khi tới lớp, tranh em bé đang cho gà vịt ăn, tranh em bé được mẹ đưa tới
lớp và chào cô giáo khi vào lớp, em bé đang cùng giúp ông trồng cây, bạn nhỏ nhặt
rác cho vào thùng rác…. Trẻ được nhìn tranh và biết được hành động của em bé
này ngoan và nên học theo, làm theo hay không làm theo.
- Xây dựng môi trường học thân thiện học sinh tích cực, trường lớp sạch –
đẹp. Để cho phụ huynh thấy được kết quả của các cháu ngày một ngoan hơn, biết
yêu quý và gần gũi với những người thân trong gia đình, yêu quý thầy cô, bạn bè,
luôn thích làm việc tốt, biết giúp những người thân thiết bằng những việc làm vừa
sức và phù hợp với khả năng của trẻ. Trẻ thích giao tiếp với mọi người xung quanh,
biết lễ phép với mọi người. Giáo dục trẻ tính thật thà, biết nhận ra đúng sai, biết
nhận lỗi và xin lỗi…. hình thành cho trẻ tinh thần đoàn kết, giáo dục tình yêu Bác
Hồ những người có công với đất nước.
Ví dụ: Trong năm học nhà trường có tổ chức các cuộc thi cho trẻ như: Hội
thi Bé khỏe – bé ngoan – bé khéo tay cấp trường, hội thi bé tập làm nội trợ, hội thi
7
bé với An toàn giao thông… mời các đại biểu để đại biểu và phụ huynh thấy được
kết quả giáo dục của cô trên trẻ.
Sau một thời gian làm công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh tôi
thấy rằng biện pháp này rất hữu hiệu và tôi đã đạt được kết quả rất khả quan:
- 100% Các cháu biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
- 80% trẻ biết tiếng phổ thông và giao tiếp mạnh dạn.
Các cháu tự giao tiếp bằng tiếng phổ thông, biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ khi tới lớp
và còn biết vệ sinh trường lớp như quét lớp, nhặt rác, và bỏ rác đúng nơi quy định
tôi thấy sự tiến bộ rõ rệt về xưng hô lễ phép, lịch sự trong giao tiếp nhờ sự giáo dục
bằng phương châm “ Trường học là nhà, nhà là trường học”
2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hành vi mẫu mực trong tác phẩm
văn học và cuộc sống.
Trong các giờ học tôi áp dụng nhiều hình thức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
thông qua các câu chuyện, bài thơ, bài ca dao nhằm hình thành cho trẻ những thói
quen, hành vi có văn hóa. Thông qua nội dung các câu chuyện, bài thơ giáo dục trẻ
học tập những hành vi tốt như
- Chăm sóc, quạt cho bà ngủ ( Thơ “ Giữa vòng gió thơm”)
- Dỗ dành khi em bé khóc, nhường đồ chơi, bánh kẹo cho em ( Thơ “ Làm
anh”) …
- Có thái độ không đồng tình với những hành vi không đúng như trong câu
chuyện “Tích Chu” không biết yêu thương bà, không chăm sóc bà khi bà ốm. bên
cạnh đó thông qua những nội dung của tác phẩm văn học giáo dục trẻ nhưng hành
vi tốt thì nên khen thưởng kịp thời khi trẻ có những biểu hiện và những vi tốt như
8
biết giúp đỡ bạn bè, xin lỗi và nhận lỡi, biết sắp xếp, thu gọn đồ chơi…
Cuối tuần tôi tổ chức buổi sinh hoạt lớp: cho trẻ tự kể về những kỹ năng
sống mà trẻ đã làm. Tôi là người đặt ra những câu hỏi để trẻ trả lời như:
- Ở nhà con đã giúp bố mẹ làm những công việc gì?
- Khi gặp người lớn con chào hỏi như thế nào?
- Trong khi chơi với các bạn, chơi với em bé thì con phải chơi như thế
nào?
- Khi ngồi vào ăn cơm thì con phải mời mọi người ăn như thế nào?
- Khi có ai cho quà con phải nhận quả như thế nào?
Sau một thời gian áp dụng biện pháp này tôi nhận thấy trẻ đã giao tiếp mạnh
dạn, tự tin, biết giúp đỡ mọi người, lễ phép với người lớn, đoàn kết khi chơi với
bạn. Khi tôi gọi trẻ lên trẻ không còn rụt rè và sợ.
3. Tổ chức giáo dục kỹ năng sống vào trong trò chơi
Tôi còn tạo môi trường lớp học bằng những hình ảnh có liên quan tới kỹ
năng sống rất sinh động, tôi sưu tầm tranh ảnh trong sách báo, trên mạng như.
- Tôi treo những bức tranh: Bạn nhỏ vệ sinh cá nhân. Bạn nhỏ cho gà vịt ăn.
Bạn nhỏ giúp ông trồng cây, chăm sóc cây. Biết bỏ rác đúng nơi quy định ở lớp hay
ở nhà. Biết nhận quà bằng hai tay. Biết chào hỏi mọi người
- Tôi còn cùng trẻ làm một album ảnh về các kỹ năng sống để cho trẻ hành
ngày được xem và trải nghiệm. Khi trẻ xem tôi đến gần và hỏi trẻ đâu là hành vi
đúng đâu là hành vi sai nếu là con con phải làm thế nào.
Tôi thấy biện pháp này rất hữu hiệu đối với trẻ, vì qua góc này trẻ được trực
quan bằng hình ảnh trẻ được nhìn và qua bài dạy của cô thì trẻ dễ tiếp thu, dễ phân
9
biệt việc làm nào tốt, việc làm nào xấu
4. Xây dựng rong lớp học góc lễ giáo.
Không chỉ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua các tiết học chính mà tôi còn lồng
ghép vào các hoạt động chơi hàng ngày cho trẻ như trò chơi:
- Trò chơi “ Tìm bạn” Tôi giáo dục trẻ biết chơi đoàn kết, giúp đỡ bạn
- Trò chơi “Tìm người thân” Tôi giáo dục trẻ phải biết yêu thương mọi
người trong gia đình.
Khi chơi ở các góc hoạt động như: Qua trò chơi “gia đình” trẻ đóng vai “ Chị
(anh) - em” “ bố - mẹ” dạy trẻ biết cách xưng hô lễ phép, biết yêu quý bố mẹ, biết
nhường nhịn nhau… và còn qua nhiều vai chơi khác nhau. . Để từ đó trẻ thể hiện
được hiểu biết của mình qua vai chơi tốt hơn. Qua những giờ vui chơi của trẻ tôi
luôn quan sát theo dõi những hành động lời nói, hành vi của trẻ có đúng không để
kịp thời còn uốn nắn và qua đó giúp trẻ hình thành được thói quen kỹ năng sống
trong giao tiếp. Qua hoạt động vui chơi giáo dục trẻ biết cất dọn đồ chơi sau khi
chơi, chơi những trò chơi an toàn, không nguy hiểm.
5. Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi.
Không chỉ giáo dục trẻ trên tiết học chính mà tôi còn kết hợp giáo dục trẻ ở
mọi lúc mọi nơi, lồng ghép với các môn học khác. Vì đặc điểm tư duy của trẻ mẫu
giáo là “ Học mà chơi - chơi mà học”, “ Dễ nhớ, chóng quên”. Tôi thường xuyên
quan sát trẻ khi thấy trẻ có hành vi không tốt thì kịp thời uốn nắn trẻ. Việc giáo dục
trẻ kỹ năng sống có thể tiến hành mọi lúc mọi nơi như:
• Khi trẻ ăn: Tôi nhắc nhở trẻ mời người lớn trước khi ăn, mời các bạn ăn.
Ngồi ngay ngắn, đúng chỗ. Khi ăn thì ăn từ tốn, nhai kỹ, không ăn phần của
bạn khác, không ngậm thức ăn lâu, ăn không để thức ăn rơi vãi, tự xúc ăn,
10
uống nước và súc miệng sau khi ăn. Uống nước đã đun sôi,để cốc chén đúng
nơi quy định. Biết xin phép khi muốn ăn.
• Trong giữ gìn vệ sinh thân thể: Vào đầu năm học tôi dạy trẻ cách rửa mặt
bằng khăn của mình, xúc miệng, đánh răng khi ngủ dậy. rửa tay trước khi ăn
và sau khi đi vệ sinh. Chải đầu khi ngủ dậy, tóc bù xù. Rửa chân hàng ngày.
Giữ gìn quần áo sạch sẽ, gọn gàng.
• Trong giao tiếp ứng xử: Tôi nhắc nhở trẻ chào khi có khách, gặp người quen.
Cảm ơn khi được người khác giúp đỡ hoặc cho quà. Đưa 2 tay khi nhận quà,
đồ vật. Xin phép khi muốn làm một việc gì đó. Xin lỗi khi làm việc gì sai,
không đúng. Nói lễ phép, không nói trống không với người lớn, không nói
leo. Thân thiện cùng chơi với bạn. quý mến nhường nhịn giúp đỡ bạn bè, em
nhỏ, không nói tục, chửi bậy. không bắt chước cách ứng xử xấu của bạn.
Không mất trật tự, chạy nhảy, hét to….
• Trong vui chơi: Khi chơi thì phải biết cất dọn đồ chơi sau khi chơi, chơi
những đồ chơi an toàn, có ích, không nguy hiểm. không chọc que gậy vào
bạn.
• Trong học tập: Tôi dạy trẻ biết yêu quý, giữ gìn sách vở, thích được tham
gia vào các tiết học
• Trong lao động: Xếp gối và chăn ngăn nắp khi ngủ dậy. Để đồ dùng đúng
nơi quy định. Thích làm một số việc giúp người lớn phù hợp với độ tuổi của
trẻ.
• Đối với môi trường: Giữ gìn nhà cửa sạch sẽ, biết bỏ rác đúng nơi quy định.
Yêu quý động vật. Yêu quý, chăm sóc cây, không bẻ hoa, ngắt lá.
6. Bồi dưỡng học sinh yếu kém.
11
Ở lớp tôi có 1 cháu rất hiếu động và nghịch. Cháu hay nói leo, nói trống
không đôi khi chơi với các bạn không nhường nhịn, hay đòi bố mua quà và khi tôi
nhắc nhở cháu tỏ thái độ không đồng tình với tôi.
Đối với những trẻ này. Tôi có một biện pháp dạy đặc biệt hơn các trẻ khác.
Tôi bố trí cho các cháu gồi gần các cháu ngoan và học khá hơn để các cháu
học tập và lôi cuốn lẫn nhau.
Tôi thường xuyên trò chuyện, gần gũi trẻ để trẻ thấy mình được quan tâm,
chăm sóc và không có cảm giác bị bỏ rơi.
Thường xuyên chú ý đến lời ăn tiếng nói của cháu, những hành động cử chỉ
không đúng của cháu đối với mọi người xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi để kịp thời
uốn nắn và giáo dục cho cháu.
Trong các giờ học, tôi thường xuyên gọi các cháu trả lời để rèn luyện tính lễ
phép trong cách thưa gửi và tính mạnh dạn, tự tin cho trẻ.
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để cùng có những thông tin và biện pháp
chăm sóc và giáo dục trẻ hiệu quả nhất.
Sau một thời gian áp dụng biện pháp trên. Các cháu giờ thay đổi hẳn. Cháu
đã biết xưng hô lễ phép, biết chào hỏi mọi người, chơi đoàn kết với bạn hơn và hơn
thế nữa là giờ cháu đã tự đến bên cô và nói chuyện với cô giáo. Khi chơi với các
bạn cháu đã biết tranh luận với bạn khi cháu thấy bạn làm không đúng.
7. Người lớn, giáo viên luôn làm tấm gương cho trẻ học theo :
Ở lứa tuổi của trẻ học người lớn rất nhanh. Vì vậy tôi luôn luôn chuẩn mực
trong mọi hành vi, lời ăn, tiếng nói, với trẻ không to tiếng quát tháo, xưng hô dịu
dàng bằng cô và cháu, luôn ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, khiêm tốn lịch sự trong
giao tiếp với phụ huynh, tôn trọng lời nói của trẻ, lắng nghe ý kiến của trẻ. Luôn
tạo cho trẻ sự an toàn tuyệt đối khi bên tôi, tuyệt đối tôi không dùng những hành vi
12
thiếu văn minh đối với trẻ như: Chê bai trẻ, đánh đập trẻ, như vậy trẻ sẽ xa dần cô
giáo, xa dần trường lớp và từ đó cung cấp cho trẻ những hành vi không tốt. Nghiêm
túc thực hiện chế độ sinh hoạt trong một ngày của trẻ. Cô giáo thực sự phải là tấm
gương sáng cho trẻ noi theo. Luôn tìm tòi sáng tạo trong cách lên lớp để thu hút các
cháu.
C - KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Với sự tìm tòi, nghiên cứu của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của đồng
nghiệp. Tôi đã tìm ra những biện pháp thích hợp và thực hiện chất lượng giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ tăng lên rõ rệt đó là điều làm tôi phấn khởi, yêu nghề, yêu trẻ
càng nhiều. Tôi đã thu được những kết quả hết sức khả thi cho tới tháng 4 năm
2013
Các hành vi Kết quả trẻ
Tốt Khá Trung bình Yếu
Biết chào hỏi. 20% 60% 20% 0%
Thực hiện sự xin phép 20% 60% 20% 0%
Biết nhận lỗi và xin lỗi 40% 40% 20% 0%
Biết giúp đỡ mọi người 40% 60% 0% 0%
Gìn giữ vệ sinh thân thể, vệ sinh
môi trường
40% 60% 0% 0%
Gìn giữ cất sắp xếp đồ chơi 40% 40% 20% 0%
Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. 20% 60% 20% 0%
So với kết quả khảo sát đầu năm thì trẻ đã ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được
hình thành thói quen vệ sinh văn minh, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao
nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, bố mẹ, không nói tục,
13
đánh bạn, kính trọng cô giáo và người lớn.
Các bậc phụ huynh cũng đã có những chuyển biến rõ rệt về lời ăn tiếng nói
và ngày càng quan tâm nhiều đến con em mình.
Bản thân tôi sau khi nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tôi được trao
đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các môn học, các hoạt động, được phụ
huynh và các đồng nghiệp quý mến và tin yêu. Đã tạo được mối quan hệ khăng khít
giữa cô và trẻ.
D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng, triển khai sáng kiến kinh
nghiệm tôi đã rút ra cho mình một số bài học kinh nghiệm như sau:
Đầu tư thời gian và công sức lựa chọn ra những nội dung, hình thức hay, phù
hợp với trẻ để phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ. Giáo viên phải có kiến thức
nhất định về kiến thức xã hội.
Thường xuyên đổi mới, sáng tạo các hình thức dạy trẻ để thu hút và phát huy
năng lực của trẻ.
Bản thân cô giáo phải luôn tìm tòi sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh, thơ ca… để
góc lễ giáo của trẻ ngày càng phong phú hơn, tôi thay đổi theo từng chủ đề để tạo
sự mới lạ hấp dẫn trẻ. Cô luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo, mỗi cử chỉ hành
động, lời ăn tiếng nói của cô phải luôn mô phạm. Bởi vì những trẻ chưa ngoan cô
cần có biện pháp nhẹ nhàng, khéo léo để trẻ nghe. Tránh dùng những phương pháp
nặng nề và như thế sẽ không đạt được kết quả mong muốn mà có thể trẻ sẽ chống
đối và có hành động tiêu cực hơn.
Các tiết học có lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống.
Góc tuyên truyền luôn thay đổi hình ảnh, tạo sự đổi mới để gây sự chú ý cho
trẻ và các bậc phụ huynh.
14
Luôn gần gũi, trò chuyện với trẻ để tạo mối quan hệ thân thiết giữa cô và trẻ.
Những kinh nghiệm trên là vô cùng quan trọng đối với tôi. Chỉ khi bắt tay
vào nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm tôi mới tích lũy được.
E - NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Để phát huy tối đa kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm
non cũng như cho trẻ 4 tuổi tôi có một số đề xuất như sau:
Về tài liệu hướng dẫn cho giáo viên tham khảo cùng những chuyên đề riêng
cho giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên, phụ huynh học hỏi.
Về phụ huynh phải cố gắng cho trẻ đi học đều dù có khó khăn hay bận rộn
công việc.
Các góc tuyên truyền của lớp có hình ảnh đẹp cho phụ huynh tham khảo.
Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi về " Một số kinh nghiệm
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 tuổi ở trường mầm non Đoàn kết" Rất mong sự
góp ý bổ sung của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp để giúp tôi hoàn thiện đề tài
và phấn đấu tốt hơn trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của nhà trường
Lai châu, ngày 25 tháng 4 năm 2013
Người viết đề tài
15
Nguyễn Lê Minh
16