Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.29 KB, 63 trang )

Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA CHUYẾN KHẢO SÁT
Việt Nam được thế giới biết đến như một biểu tượng của sự đoàn kết, kiên cường,
bất khuất trong đấu tranh giành độc lập, tự do. Việt Nam là một đất nước có nền
văn hiến lâu đời, với những cảnh quan kỳ thú, một đất nước có tiềm năng phát
triển du lịch vô cùng lớn. chính vì thế cần phải khai thác tốt hơn các tiềm năng thế
mạnh về du lịch của đất nước, nâng cao ý thức du lịch phù hợp với truyền thống
văn hoá của dân tộc và văn minh quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó thì việc đào tạo
nguồn nhân lực cho ngành du lịch đang là vấn đề cấp bách.
Được sự quan tâm của nhà trường, Ban Chủ Nhiệm Khoa Du Lịch - Đại Học
Đông Đô tạo điều kiện cho sinh viên khoá 12 – Văn hoá Du Lịch đi thực tế nhằm
mục đích giúp sinh viên tiếp cận, phát huy được tính sáng tạo trong công việc sau
này. Chuyến đi này sẽ giúp chúng ta có một cách nhìn thực tế hơn về công việc của
hướng dẫn viên, hiểu thêm tài nguyên du lịch của các tỉnh thành từ Hà Nội đến
Quảng Nam.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ Nhiệm Khoa Du Lịch – Đại Học
Đông Đô cùng toàn thể các thầy cô trong khoa và các hướng dân viên của công ty
Nam Việt đã tạo điều kiên và giúp đỡ chúng em có được chuyến đi thực tế an toàn
– bổ ích – vui vẻ và thành công.
MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA THỰC TẬP LỮ HÀNH
Nền kinh tế thế giới hiện nay đã có nhiều thay đổi về cơ cấu kinh tế, đó là
tăng cường ngành phát triển du lịch. Trong bối cảnh đó thì hầu hết các quốc gia
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều xác định du lịch là ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước. Để đáp ứng mục tiêu đó trong quá trình đào tạo nhân lực
cho lĩnh vực du lịch ở các trường đã kết hợp giữa giảng dạy với thực tế thông qua
các đợt thực tập lữ hành nhằm nâng cao nhận thức cho sinh viên về một số tuyến
điểm nổi tiếng của đất nước. Với mục đích “ Hướng về cội nguồn tiếp bước cha
anh” được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu, Khoa Du Lich tổ chức cho sinh viên lớp
VH3 đi thực tập lữ hành tại các điểm du lịch đi qua nhiều tỉnh thành của Miền
Trung. Và quan trọng là được đi thực tập tại các điêm du lịch được xếp hạng là di


sản của thế giới. Chương trình du lịch được thực hiện kết hợp với công ty du lịch
Nam Việt giúp sinh viên du lịch lại gần với thực tế, gắn liền với chiều dài lịch sử
của dân tộc và chiều dài địa lý của đất nước.
Giúp sinh viên rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết với thực tế, điều đó có ý
nghĩa giúp sinh viên ứng dụng những kiến thức đã học vào môi trường du lịch một
cách linh hoạt và sáng tạo. Hình thành ý tưởng tạo lập những tour du lịch phong
phú hấp dẫn. Ngoài ra còn giúp sinh viên đánh giá được tiềm năng du lịch trong
toàn tuyến và các điểm du lịch.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
1
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Qua chuyên thực tế này có ý nghĩa rất lớn đối với sinh viên chúng em, qua
đó rút ra được những kinh nghiệm bổ ích, bước đầu làm quen được với công việc
của mình trong tương lai.
Đồng thời qua đó cũng giúp sinh viên hiểu thêm được sự khác nhau về
phong tục tập quán cũng như các vấn đề phát sinh trong tour du lịch dài ngày. Và
một điều ý nghĩa nữa cũng không kém phần quan trọng đó là khơi dậy được tính
tập thể và mang mọi người đến gần nhau hơn.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của tuyến khảo sát này là: Tuyến du lịch Hà Nội - Nghệ An
- Quảng Bình - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam, các điểm du lịch nổi tiếng của các
tỉnh nói trên, bên cạnh đó còn có các tỉnh dọc tuyến khảo sát như: Hà Tĩnh với
Dồng Lộc, Quảng Trị với Nghĩa Trang Trường Sơn, Thành Cổ, Địa đạo Vịnh Mốc,
…Đến với các tỉnh Miền Trung trên tuyến khảo sát này chủ yếu là các điểm, khu di
tích gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc: Nghĩa trang Trường
Sơn, Thành cổ Quảng Trị…, các di sản thế giới được UNESCO công nhận: Huế,
Hội An, Quảng Nam, Phong Nha - Kẻ Bàng, các bãi biển đẹp: Lăng Cô, Thuận
An…
ĐÓNG GÓP CỦA BÁO CÁO

Báo cáo khảo sát tour tuyến đóng góp thêm vào chương trình học những cái nhìn
mới mẻ sau mỗi chuyến đi, bên cạnh đó giúp cho sinh viên cách làm một đề tài,
như một lần tập dượt trước khi làm luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt hơn, báo cáo khảo
sát cũng coi như một đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, những bài xuất sắc
sẽ được lưu giữ tại Thư viện nhà trường cho các thế hệ sinh viên sau nghiên cứu.
BỐ CỤC CỤC BÁO CÁO
Báo cáo khảo sát gồm 3 chương: Chương I Chương trình và giá Tour, Chương
II Tiềm năng và thực trạng, Chương III Định hướng và giải pháp.
CHƯƠNG I: CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁ TOUR
Ngày thứ 1
Sáng:
Chiều
Hà Nội - Quảng Bình
5h30 hướng dẫn viên cùng xe đón khách đi Vinh. Quý khách
nghỉ ăn sáng tại Phủ Lý ( Quý khách tự túc trả tiền)
12h30 Quý khách ăn trưa tại thành phố Vinh.
13h30 Xe tiếp tục đưa quý khách đi Đồng hới.
17h30 tới Đồng hới quý khách nhận phòng nghỉ ngơi tại khách
sạn Đồng Hới.
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
2
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Sau khi ăn tối quý khách tự do đi thăm quan tượng đài Mẹ Suốt,
thành cổ Đồng Hới, chiến luỹ Đào Duy Từ, bãi biển Nhật Lệ.
Ngày thứ 2:
Sáng:
Chiều
Phong Nha - Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn - Quảng Trị

Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ tục trả phòng. 7h00 xe đa quý
khách đi Động Phong Nha.
Quý khách lên thuyền đi Động Phong Nha( Quý khách chỉ tham
quan động nước)
12h00 Quý khách ăn trưa tại Phong Nha.
13h00 Xe tiếp tục đưa đoàn đi Đông Hà theo đường Hồ Chí
Minh. Trên đường đi xe đưa quý khách vào thăm nghĩa trang
Trường Sơn đoàn làm lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng
liệt sỹ.
Quý khách tiếp tục hành trình trên đường đi quý khách tìm hiểu
về Đường 9 lịch sử, căn cứ Khe Xanh, căn cứ Làng Vây, sân bay
Tà Cớn.
Tới Đông Hà quý khách nhận phòng tại khách sạn Thành Quả
( Hoặc tương đương).
Quý khách ăn tối tại khách sạn.
20h00 Quý khách tự do đi tham khảo và mua sắm hàng hoá tại
Thị Xã Đông Hà.
Ngày thứ 3
Sáng
Chiều
Quảng Trị – Huế
06h30 Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ tục trả phòng.
07h00 Quý khách lên xe, xe đa quý khách đi thăm Thành Cổ
Quảng Trị đoàn làm lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt
sỹ đã hy sinh tại Thành Cổ Quảng Trị. ( nằm bên dòng sông
Thạch Hãn). Quý khách tham quan bảo tàng, tìm hiểu về 81 ngày
đêm máu lửa tại thành cổ quảng Trị, chụp ảnh lưu niệm.
10h00 xe đưa quý khách về Huế
11h30 tới Huế quý khách ăn tại nhà hàng.
12h00 Quý khách nhận phòng, nghỉ ngơi tại khách sạn Đồng Lợi

14h30 xe đa đoàn đi tham quan tại bãi biển Thuận An.
17h00 Quý khách lên xe về khách sạn, nghỉ ngơi tại khách sạn.
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn.
Đoàn tự do tham quan tại thành phố Huế.
Ngày thứ 4:
Sáng 06h30
Chiều:
20h10
Tham quan Huế mộng mơ
Đoàn tự do ăn sáng, 07h00 xe đưa đoàn đi tham quan tại cầu
Tràng Tiền, chùa Thiên Mụ, Đại Nội với Lầu Ngũ Phụng, Điện
Thái Hoà, Tử Cấm Thành, Thế Miếu, Cửu Đỉnh….
11h30 Đoàn ăn tra tại khách sạn
14h00 Xe đưa đoàn đi tham quan Lăng Tự Đức, Lăng Khải Định,
Đàn Nam Giao.
18h30 đoàn ăn tối nghỉ ngơi.
Đoàn đi du thuyền nghe ca Huế trên sông Hương.
Đoàn tự do tham quan thành phố Huế về đêm.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
3
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Ngày thứ 5:
Sáng:
Chiều:
Huế
06h30 Đoàn tự do ăn sáng
07h00 Đoàn lên xe đi thăm Lăng Minh Mạng, chùa Từ Đàm…
11h30 Đoàn ăn trưa tại khách sạn.
14h00 Đoàn tự do đi mua sắm tại chợ Đông Ba.

18h00 ăn tối tại khách sạn.
Ngày thứ 6:
Sáng:
Chiều:
Huế - Đà Nẵng – Hội An.
06h30 xe và hướng dẫn viên đưa đoàn đi Đà Nẵng, dừng chân
tại bãi biển Lăng Cô.
Xe tiếp tục đưa đoàn đi chui qua Đèo Hải Vân trên đường đi quý
khách ngắm cảnh thành phố Đà Nẵng.
11h30 Đoàn ăn trưa, nhận phòng nghỉ ngơi tại khách sạn ở Hội
An
14h00 Đoàn tham quan phố cổ Hội An( Chùa cầu Nhật Bản, Hội
quán Phúc Kiến)
19h00 Ăn tối tại khách sạn sau đó đoàn tự do tham quan thị xã
Hội An về đêm.
Ngày thứ 7:
Sáng:
Chiều:
Hội An – Mỹ Sơn - Đà Nẵng
06h30 Đoàn tự do ăn sáng làm thủ tục trả phòng.
07h00 Xe và hướng dẫn viên đưa đoàn đi thăm thánh địa Mỹ Sơn
( Tại huyện Duy Xuyên)
11h00 xe đưa đoàn về Đà Nẵng, Đoàn nhận phòng nghỉ ngơi.
14h30 Xe đưa Đoàn tham quan khu du lịch Non Nước, núi Ngũ
Hành Sơn, làng trạm khắc đá.
17h45 Xe đưa đoàn về khách sạn.
18h30 Đoàn ăn tối tại khách sạn
19h00 Đoàn tự do tham quan sông Hàn, tự do đi xem bắn pháo
hoa quốc tế
Ngày thứ 8:

Sáng:
Chiều:
Tham quan tại Đà Nẵng
07h00 Đoàn tự do ăn sáng, xe đa đoàn đi thăm bảo tàng Chàm.
Tại đây đoàn nghe giới thiệu về văn hoá dân tộc ChamPa.
11h30 Đoàn ăn tra tại nhà hàng
14h00 Đoàn tự do đi chợ và tham quan thành phố Đà Nẵng…
18h30 Đoàn ăn tối tại khách sạn, tự do tham quan sông Hàn…
Ngày thứ 9:
Sáng:
Chiều:
Đà Nẵng - Đồng Hới
07h00 Đoàn tự do ăn sáng, đoàn làm thủ tục trả phòng, xe đưa
đoàn về Đồng Hới.
Trên đường đi đoàn ghé tham quan chợ Đông Hà.
11h30 Đoàn ăn trưa tại nhà hàng.
12h30 xe cùng hướng dẫn viên đưa đoàn về Quảng Bình, trên đ-
ường đoàn tìm hiểu căn cứ Cộ Tiêu – Dốc Miếu, khu DMZ..
Đoàn nghe giới thiệu về sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, Vĩ
tuyến 17 thiêng liêng.
Xe đưa đoàn thăm địa đạo Vĩnh Mốc, tìm hiểu cuộc sống Vĩnh
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
4
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Linh trong địa đạo.
16h30 tới Đồng Hới, đoàn nhận phòng nghỉ ngơi tại khách sạn
Đồng Hới.
Đoàn ăn tối tại khách sạn, tự do tham quan thành phố Đồng Hới,
tự do mua sắm tại cửa hàng , siêu thị…

Ngày thứ 10:
Sáng:
Chiều:
Đồng Hới- Cửa Lò
06h30 Đoàn tự do ăn sáng.
07h00 Đoàn làm thủ tục trả phòng,
07h30 Xe đưa đoàn về Cửa Lò trên đường Đoàn ghé thăm ngã ba
Đồng Lập, chụp ảnh lưu niệm.
Xe cùng hướng dẫn đưa đoàn về Nghệ An.
12h30 Đoàn ăn trưa tại thành phố Vinh.
13h30 xe đưa đoàn về Cửa Lò.
14h30 Xe tiếp tục đưa Đoàn về Cửa Lò tới Cửa Lò đoàn nhận
phòng nghỉ ngơi tại khách sạn.
Đoàn thăm quan bãi biển Cửa Lò
19h00 Đoàn ăn tối tại khách sạn.
Ngày thứ 11:
Sáng:
Chiều:
Cửa Lò – Quê Bác – Hà Nội
06h30 Đoàn tự do ăn sáng
07h30 Đoàn trả phòng, xe cùng hướng dẫn đưa đoàn về thăm quê
Bác ( Quê Ngoại, Quê Nội, Nhà Lưu Niệm Bác Hồ)
11h30 Xe đưa đoàn về thành phố Vinh.
12h00 Đoàn ăn trưa tại nhà hàng.
13h00 Xe đưa đoàn về Hà Nội. Kết thúc chuyến đi.
Giá trọn gói: 2.360.000 Đồng/ 01 Khách
Chế Độ phục vụ
Mức giá bao gồm:
Xe ô tô huyndai Aero Space 45c đa đón theo chương trình.
Thuyền du lịch tham quan Phong Nha.

Thuyền đi trên sông Hương nghe Ca Huế
Các ba ăn theo chương trình( Mức ăn 60.000 đồng/ 01 ngày bao gồm 2 bữa ăn
chính mỗi bữa 30.000 đồng và không bao gồm ăn sáng)
Phòng nghỉ tiêu chuẩn: Điều hoà, Tivi, vệ sinh khép kín, có khoá an toàn ( ở từ 04-
06 sinh viên/ 1 phòng. Trong phòng có 2 giường thì ở 4 sinh viên, 3 giường thì ở 6
sinh viên, 02 giường to phòng Vip cũng ở 6 sinh viên)
Vé thắng cảnh một lần tại tất cả các điểm tham quan theo chương trình.
Tiền lễ dâng hương tại nghĩa trang Trường Sơn.
Tiền lễ dâng hương tại Thành cổ Quảng Trị.
Tiền lễ dâng hương tại Ngã ba Đồng Lộc.
Tiền lễ dâng hương tại quê nội và quê ngoại Bác Hồ.
Bảo hiểm du lịch suốt tuyến( Mức cao nhất là 10.000.000 đồng/ 01 vụ)
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
5
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Hướng dẫn viên nhiệt tình, có kinh nghiệm hướng dẫn suốt tuyến ( Tới các điểm
có HDV tại điểm tham quan thuyết minh)
Không bao gồm: Chi phí cá nhân : giặt là, điện thoại, thuế VAT.
CHƯƠNG II:TIỀM NĂNG VÀTHỰC TRẠNG TUYẾN ĐIỂM
I.1- TIỀM NĂNG
Miền Trung Việt Nam là vùng đất - biển giàu tiềm năng với nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp, với những hang động kỳ thú, bãi biển, rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên
nhiên đa dạng sinh thái nổi tiếng như: Phong Nha Kẻ Bàng, Bạch Mã, Bà Nà, Mỹ
Khê, Lăng Cô và thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An… Đây còn là miền đất có một
kho tàng văn hoá các dân tộc phong phú, đa dạng.
Những năm gần đây, tiềm năng du lịch đang được khai thác mạnh mẽ, tạo điều
kiện phát triển hơn nữa về du lịch. Với lợi thế về tiềm năng văn hoá, các danh lam
thắng cảnh nổi tiếng thì các tỉnh, thành phố như: Quảng Bình, Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam…hàng năm đã đón khoảng trên dưới 1 triệu lượt khách quốc tế.

Tính đến tháng 10/2008 khu vực miền Trung đã thu hút được 159 dự án đầu tư vào
lĩnh vực dịch vụ - thương mại với tổng số vốn đăng ký là 8, 9 tỷ USD. Nhiều dự án
lớn đáng kể như: Đầu tư của Indochina Land (khoảng 300 triệu USD), Vinacapital
(khoảng 300 triệu USD) đầu tư tại Đà Nẵng; New City Việt Nam đầu tư 4, 3 tỷ
USD tại Phú Yên; Banyan Tree đầu tư 267 triệu USD tại Thừa Thiên- Huế...
Điều đáng chú ý là cơ cấu đầu tư cho du lịch đã chuyển dần từ khách sạn, nhà nghỉ
sang những khu du lịch cao cấp và tập trung đầu tư xây dựng các tuyến, điểm du
lịch khác tôn tạo các danh lam, thắng cảnh tạo ra những sản phẩm mới ngày càng
hấp dẫn du khách.
Tuy nhiên ở Miền Trung, tài nguyên du lịch vẫn đang khai thác ở dạng thô; Quy
hoạch vùng còn mang tính định hướng; Cơ sở hạ tầng giao thông, hoạt động lữ
hành còn rất hạn chế; Các sản phẩm du lịch, văn hoá còn thiếu hấp dẫn…Do đó
cần phải tập trung đầu tư vào các lĩnh vực chủ yếu là du lịch, văn hoá, thể thao. Để
có thể khơi dậy và phát triển tối đa ngành du lịch ở các tỉnh thành. Đồng thời cần
phải làm phong phú hơn những gì hiện có, phát triển thêm nhiều lĩnh vực khác
song song với du lịch như các : trung tâm mua sắm, khu vui chơi giải trí…Để có
thể thu hút được thật nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
II.2- THỰC TRẠNG
1- Hà Nam:
- Diện tích: 849,5 km
2
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
6
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
- Dân số: 811.126 người(2006) với mật độ dân số 941 người/km2. 91,5% dân số
sống ở khu vực nông thôn và 8,5% sống ở khu vực đô thị.
- Tiềm năng du lịch: Hà Nam có nhiều điểm đến du lịch sinh thái khá hấp dẫn như:
Khu du lịch đền Trúc thờ vị anh hùng Lý Thường Kiệt và Ngũ Động Thi Sơn là
quả núi năm hang nối liền nhau cách thị xã Phủ Lý 7 km. Đã quy hoạch Khu du

lịch Tam Trúc thuộc huyện Kim Bảng với quy mô gần 2000 ha với 9 khu chức
năng. Diện tích mặt nước hồ khoảng 600 ha. Xây dựng các nhà nghỉ, khách sạn,
sân gôn, quần vợt, công viên nước, nhà thuỷ tạ. Nơi đây cách chùa hương 7 km,
cách Hà Nội 70km, Nam Định 40km, Ninh Bình 45km, Hưng Yên 40km là điểm
dừng chân cho khách du lịch nhiều tỉnh, nơi nghỉ dưỡng giải trí vào các ngày nghỉ
cuối tuần của khách thập phương, đang thu hút đầu tư.
+ Chùa Long Đọi Sơn ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Di tích
Long Đọi Sơn được xếp hạng từ năm 1992. Hàng năm có trùng tu, tôn tạo để gìn
giữ cho muôn đời sau.
+ Khu trung tâm du lịch thị xã Phủ Lý: Được xây dựng 2 bên dòng sông Đáy,
giáp cửa sông Châu; có khách sạn 3 sao, 11 tầng, có khu du lịch bến thuỷ phục vụ
du khách đi Chùa Hương, Ngũ Động Sơn, chùa Bà Đanh, Hang Luồn. Nơi đây còn
là địa điểm bơi thuyền dọc sông Châu, sông Đáy, vãng cảnh nước non Phủ Lý.
+ Đền Trần Thương ở huyện Lý Nhân, thờ quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn. Đền được xây dựng năm 1783, với diện tích là 1,4 ha.

2- Ninh Bình:
- Diện tích: 1400km
2
- Dân số: 900.000 người(2003) với mật độ dân số là 643 người/km
2
.
- Tiềm năng du lịch: Ninh Bình có tiềm năng du lịch rất lớn, nhiều danh lam thắng
cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng như:
+ Cố đô Hoa Lư (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư) là kinh đô của nhà nước
phong kiến tập quyên đầu tiên ở Việt Nam, hiện còn đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng
và Lê Đại Hành. Tai đây đã xây dựng khu núi Chùa Bái Đính với quy mô lớn trong
dự án phát huy giá trị khu di tích.
+ Khu du lịch sinh thái Tràng An với hệ thống các hang động, thung nước, rừng
cây và các di tích lịch sử gắn liền với kinh thành xưa của Cố đô Hoa Lư. Đây là

khu du lịch tổng hợp được đầu tư lớn của nhà nước và địa phương.
+ Khu du lịch Tam Cốc Bích Động (tại xã Ninh Hải-Hoa Lư) đã được tặng chữ:
“ Nam thiên đệ nhị động” hay “ vịnh Hạ Long Cạn” với các điểm du lịch như: Tam
Cốc, đền Thái Vi, chùa Bích Động, Động Tiên, chùa Linh Cốc v.v.
+ Vườn quốc gia Cúc Phương (huyện Nho Quan) với diện tích rừng nguyên sinh
khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm, có cây chò ngàn năm tuổi, có
động Người xưa.
+ Nhà thờ Phát Diệm là công trình kiến trúc tôn giáo kết hợp hài hoà giữa kiến
trúc phương Đông và phương Tây.
+ Vùng biển huyện Kim Sơn được UNESCO đưa vào danh sách các địa danh
thuộc khu dự trữ sinh quyển đồng bằng Sông Hồng, là một trong 6 khu dự trữ sinh
quyển thế giới tại Việt Nam.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
7
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
+ Ngoài ra còn có: động Mã Tiên, núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước, Sông
Vân, khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn, hồ
Đồng thái, sân golf Yên Thắng 54 lỗ được coi là hiện đại và lớn nhất Việt Nam
hiên nay.
3- Thanh Hoá:
- Diện tích: 11.106 km
2
.
- Dân số: 3,62 triệu người(2005), đứng thứ hai cả nước, mật độ dân số trung bình
là 317 người/km
2
.
- Tiềm năng du lịch: Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng du lịch. Hiện nay, ngành du
lịch Thanh Hoá có hàng ngàn phòng nghỉ đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Thanh

hoá có rất nhiều các di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng như:
+ Bãi biển Sầm Sơn.
+ Thanh Hóa có cầu Hàm Rồng là một di tích lịch sử thời chiến tranh Việt Nam.
+ khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách
thành phố Thanh Hoá 50km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như
bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, các di tích cung điện
thành nội, thành ngoại, sân Rồng…Ngoài ra ở Thọ Xuân còn có đền vua Lê Đại
Hành.
+ Suối cá “thần” Cẩm Lương: thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm
Thuỷ, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới
hàng ngàn con cá. Mỗi con nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg.
+ Cụm di tích Nga Sơn: Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến khu Ba
Đình, Đền thờ Mai An Tiêm…
+ Thành Tây Đô: thuộc địa phận hai xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh
Lộc cách thành phố Thanh Hoá 50 km.
+ Văn hoá Đông Sơn.
+ Thái miếu Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17,
18; Đặc biệt còn có 27 thần vị và nhiều hiện vật.
+ Đền thờ Lê Thành: Thuộc xã Đông Cương, thờ một vị tướng có công trong
khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Phường Lam Sơn có đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ Tống Duy Tân…
4- NGHỆ AN
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Diện tích: 16.487km2
Dân số: 3.002.298 người
Dân tộc: Việt (Kinh), Khơ Mú, Sán Dìu, Thái, H'Mông, Ơ Đu, tộc người Đan Lai...
Tỉnh lỵ: Thành phố Vinh
Huyện thị: Thị xã Cửa Lò, Thị xã Thái Hòa và 17 huyện, Diễn Châu, Quỳnh Lưu,
Yên Thành, Đ ô Lương, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Tân
Kỳ, Anh Sơn, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tương

Dương, Kỳ Sơn.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
8
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung bộ nước Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 18
o
33' đến
20
o
00' vĩ độ Bắc và từ 103
o
52' đến 105
o
48' kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, Tây giáp nước bạn Lào,
Đông giáp với biển Đông.
Địa hình Nghệ An gồm có núi, đồi, thung lũng. Độ dốc thoải dần từ đông bắc
xuống tây nam. Hệ thống sông ngòi của tỉnh dày đặc, có bờ biển dài 82 km. Giao
thông đuờng bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường không đều thuận lợi: có quốc lộ
1A và tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh dài 94km, có cảng biển Cửa Lò, sân
bay Vinh.
KHÁI QUÁT VỀ CÁC KHU, ĐIỂM, TUYẾN DU LỊCH CỦA NGHỆ AN
Quy hoạch phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 1996 - 2010 đã được phê duyệt,
xác định Nghệ An có 5 vùng du lịch trọng điểm ưu tiên đầu tư phát triển là: Du
lịch thành phố Vinh, du lịch biển Cửa Lò, du lịch Nam Đàn, du lịch rừng Vườn
quốc gia Pù Mát và du lịch sinh thái văn hoá Quỳ Châu - Quế Phong.
TIỀM NĂNG DU LỊCH
Với diện tích 16.470km

2
, trong đó hơn 12.000km
2
rừng núi tạo ra những thảm
thực vật với nhiều khu rừng nguyên sinh đáp ứng nhu cầu du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng, leo núi và nhiều loại hình du lịch khácnhư Vườn quốc gia Pù Mát, khu
bảo tồn rừng nguyên sinh Pù Hoạt. Có nhiều bãi biển đẹp như bãi biển Cửa Lò,
Cửa Hội, Quỳnh Bảng...
Hiện nay trên đất Nghệ An có trên 1 ngàn di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 171
di tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia và tỉnh,
đặc biệt là khu di tích Kim Liên, quê hương của danh nhân văn hoá thế giới, lãnh
tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là khu di tích đặc
biệt của quốc gia có giá trị lịch sử văn hoá muôn đời
Nghệ An sớm hình thành được chiến lược phát triển du lịch, trong đó chiến lược
phát triển du lịch thời kỳ 1996 - 2010 đã chỉ rõ phương hướng phát triển du lịch
Nghệ An với mục tiêu khai thác các tiềm năng du lịch, gắn với bảo vệ môi trường
sinh thái, bảo đảm cho du lịch phát triển có hiệu quả, bền vững. Trong quy hoạch
đã xác định rõ 5 trung tâm du lịch lớn: Trung tâm du lịch biển Cửa Lò; Trung tâm
du lịch thành phố Vinh; Trung tâm du lịch Nam Đàn; Khu du lịch vườn Quốc gia
Pù Mát; Khu du lịch văn hoá - lịch sử - sinh thái Quỳ Châu - Quế Phong.
VÙNG DU LỊCH NAM ĐÀN
Trọng tâm là khu di tích Kim Liên - quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng
nămđón xấp xỉ 2 triệu lượt khách tham quan.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
9
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Khudi tích lịch sử văn hóa Kim Liên (bao gồm quê nội, quê ngoại, khu mộ bà
Hoàng Thị Loan, Núi Chung) được Nhà nước xếp vào một trong 20 khu du lịch
quốc gia thuộc diên ưu tiên đầu tư phát triển du lịch thời kỳ 2001-2005. Cùng với

khu di tích Kim Liên, tại Nam Đàn có khu di tích vua Mai Hắc Đế (Mai Thúc
Loan), thành Vạn An, thành Lục Niên, nhà lưu niệm Phan Bội Châu, đình Hoành
Sơn, đình Trung Cần... tạo thành tuyến du lịch liên hoàn đường bộ và tuyến du lịch
ven sông Lam.
VÙNG DU LỊCH VINH VÀ PHỤ CẬN:
Đây là nơi tập trung các điều kiện cần và đủ cho phát triển du lịch: cógần 100 di
tích lịch sử văn hoá. Trong đó có nhiều di tích đã được xếp hạng Quốc gia: Đền
Hồng Sơn, Chùa Cần Linh, Thành Cổ Vinh, các bảo tàng... Đặc biệt tại thành phố
Vinh có Tượng đài Bác Hồ và Quảng trường Hồ Chí Minh ngày ngày thu hút đông
đảo du khách và nhân dân đến tham quan, chiêm ngưỡng. Có sân bay Vinh, đường
quốc lộ 1A đi qua, ga tàu hoả, bến xe, chợ Vinh... và 47 khách sạn, nhiều nhà hàng
(trong đó có 2 khách sạn 3 sao: Phương Đ ông và Sài gòn - Kim liên), 2 trung tâm
lữ hành quốc tế, 2 trung tâm lữ hành nội địa và 3 chi nhánh. Hàng năm thành phố
Vinh đón 400.000 - 500.000 lượt khách, doanh thu du lịch thuần tuý đạt từ 70 -
100 tỉ đồng. Hiện nay khu du lịch Vinhđã có quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng 3 điểm du lịch, công viên, khu vui chơi giải trí đó là: Công viên Trung
tâm, khu du lịch Lâm viên - Núi Quyết, Bến Thuỷ và khu vui chơi giải trí du lịch
Hồ Cửa Nam.
KHU DU LỊCH BIỂN CỬA LÒ

Từ năm 1995 đến nay được tỉnh và thị xã tập trung quy hoạch, đầu tư xây dựng
khá đồng bộ, nhất là các công trình cơ sở hạ tầng đường, điện, cấp thoát nước, cho
đến nay Cửa Lò đã trở thành một khu du lịch biển hấp dẫn các du khách và các nhà
đầu tư trong nước. Trong số 175 cơ sở lưu trú trên địa bàn thị xã Cửa Lò, có đến
73 cơ sở của các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư kinh doanh
du lịch. Năm 2001 dón 240.000 lượt khách lưu trú với hàng trăm ngàn lượt khách
đến tắm biển, sử dụng các dịch vụ và sản phẩm du lịch, doanh thu từ du lịch năm
2001 đạt 54 tỷ đồng, chiếm 47% doanh thu du lịch toàn tỉnh. Có thể nói việc đầu tư
phát triển khu du lịch Cửa Lò bước đầu đã mang lại hiệu quả về kinh tế xã hội, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thị xã Cửa Lò và vùng phụ cận.

LÀNG KIM LIÊN - QUÊ NỘI
Làng Chùa (Hoàng Trù) và làng Sen (Kim Liên) gắn liền với tuổi thơ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, tuổi thơ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh được ghi lại một cách sinh động trong các di tích lưu niệm của
Người tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
10
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Sau lũy tre xanh ở làng Chùa (Hoàng Trù) và làng Sen (Kim Liên) vẫn còn nguyên
nếp nhà tranh giản dị, những kỷ vật thân thương nhuốm màu thời gian gần một thế
kỷ đã đi vào lịch sử nhân loại, trở thành tài sản vô giá của dân tộc, có ý nghĩa quốc
gia và quốc tế. Những di sản văn hoá vật chất đó đã góp phần phản ảnh cuộc đời
cao đẹp của chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn
hoá kiệt xuất thế giới, người con ưu tú bậc nhất của xứ sở Lam Hồng và của đất
nước Việt Nam.
NGÔI NHÀ CỤ PHÓ BẢNG NGUYỄN SINH SẮC



Làng Sen - quê nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một làng quê thơm ngát hương sen,
đó chính là nơi người đã sống trong thời niên thiếu (1901-1906).
Làng Sen có tên chữ là Kim Liên (Bông Sen Vàng). Sau luỹ tre xanh là ngôi nhà lá
5 gian đơn sơ, mộc mạc của gia đình cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khoa thi hội năm Tân Sửu (1901) ông Nguyễn Sinh Sắc
đậu Phó bảng, theo tập tục của địa phương và nguyện vọng của dân làng, ông cùng
các con rời làng Chùa (Hoàng Trù) về sống tại làng Sen quê nội. Ngôi nhà này là
do bà con làng Sen quyết định xuất quỹ công dựng để mừng ông Phó bảng. Tất cả
cây cối trong vườn cũng đều do dân làng trồng cho
Trong ngôi nhà đơn sơ này cụ Sắc đã dành hai gian rộng rãi để đặt bàn thờ bà

Hoàng Thị Loan và để tiếp khách. Bàn thờ được làm bằng liếp tre nứa trên trải
chiếu nhỏ để bát hương, cây nến và bài vị bằng gỗ giản dị. Gian thứ tư là nơi nghỉ
của cụ Sắc, ở đây có bộ phản gỗ kê bên cửa sổ chính, bên cạnh có chiếc án thư nơi
cụ dạy các con học chữ và đây cũng là nơi vào các buổi tối cụ thường mời bà con
ngồi quây quần uống nước trà xanh. Nhân cách cao thượng của người cha và lòng
nhân ái vị tha của người mẹ đã ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách các con của cụ Sắc.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
11
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Hiện nay các kỷ vật trong gian nhà của cụ Sắc còn được giữ lại hầu như nguyên
vẹn. Hai bộ phản gỗ là nơi nghỉ của cụ phó bảng và hai con trai. Chiếc giường xinh
xinh là của bà Thanh con gái của cụ. Chiếc rương đựng lương thực, chiếc tủ đứng
hai ngăn đựng đồ dùng, chiếc mâm bằng gỗ sơn đen vẫn còn nguyên đó. Đến với
Làng Sen, du khách vừa được chiêm ngưỡng cảnh làng quê điển hình của Việt
Nam đồng thời chứng kiến những kỷ vật thiêng liêng gắn bó một thời của Hồ Chủ
Tịch, người cha già của dân tộc Việt Nam, một danh nhân của thế giới.
5- HÀ TĨNH
Dân số: Hà Tĩnh có 1.286.700 người, trên 20 dân tộc cùng sinh sống cựng sinh
sống, nhưng chủ yếu là người Kinh; các dân tộc khác, mỗi dân tộc chỉ có vài trăm
hoặc vài chục người.
Diện tích: Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,7 km. trong đó
• Đất ở: 6.799 ha
• Đất nông nghiệp: 98.171 ha
• Đất lâm nghiệp: 240.529 ha
• Đất chuyên dùng: 45.672 ha
• Đất chưa sử dụng: 214.403
VỊ TRÍ
Hà Tĩnh trải dài từ 1754 đến 1850 vĩ Bắc và từ 10348 đến 10800 kinh Đ ông. Phía
bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp nước Lào,

phía đông giáp biển Đông.
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TÀI NGUYÊN RỪNG
Tính đến năm 2002, toàn tỉnh có 244.453 ha đất lâm nghiệp. Trong đó rừng tự
nhiên là 194.754 ha, rừng trồng là 49.699 ha.
Các khu bảo tồn thiên nhiên: Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang có diện tích là
61.283 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ gỗ có diện tích: 35.000 ha.
TÀI NGUYÊN BIỂN
Toàn tỉnh có 137 km bờ biển từ huyện Nghi Xuân đến huyện Kỳ Anh, gồm các
cửa biển chính: Cửa Hội - Nghi Xuân, Cửa Sót -Thạch Hà, Cửa Nhượng - Cẩm
Xuyên, Cửa Khẩu - Kỳ Anh. Đây là một ngư trường có nhiều hải sản quý và hiếm
với trữ lượng khá cao như tôm hùm, sò huyết... chỉ mới khai thác được từ 10 đến
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
12
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
15%. Hà Tĩnh có thể phát triển một cách toàn diện về kinh tế biển là đánh bắt, nuôi
trồng và công nghiệp chế biến hải sản xuất khẩu.
TÀI NGUYÊN DU LỊCH
Là điểm du lịch quan trọng trên tuyến du lịch xuyên việt có tính chất trung
chuyển. Từ Hà Tĩnh du khách có thể đi thăm các điểm du lịch đặc sắc về sinh thái,
lịch sử văn hoá như khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang, khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ
Gỗ, các di tích gắn với cuộc đời của đại thi hào Nguyễn Du; du lịch biển có các bãi
tắm: Thiên Cầm, Xuân Thành, Thạc Hải, Đèo Ngang; du lịch các di tích lịch sử
như chùa Hương Tích, ngã ba Đồng Lộc, Khu di tích....
ĐÈO NGANG

Đèo Ngang là tên một con đèo nằm ở ranh giới của hai tỉnh Quảng Bình và Hà
Tĩnh. Đ ây là một thắng cảnh nổi tiếng của mmiền iền Trung Việt Nam. Đèo
Ngang nằm trên qquốc lộ 1uốc lộ 1A, trên dãy Hoành Sơn đoạn dãy Trường Sơn

chạy ngang ra biển chạy ngang ra biển Đông. Đèo dài 6km, đỉnh cao khoảng 250
m (750 ft),phần đất phía Quảng Bình thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch,
phần đất phía Hà Tĩnh thuộc xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh
Trên đỉnh đèo Ngang hiện còn Cổng Trời di tích của cửa ải Hoành Sơn Quan bằng
gạch đá được xây vào năm 1833 thời vua bằng gạch đỏ được xõy vào năm 1833
thời vua Minh Mạng để kiểm soát việc qua đèo. Đứng trên đỉnh Ngoạn Mục để
ngắm biển thì tuyệt đẹp, núi non kỳ vĩ, biển trời mênh mông.
NGÃ BA ĐỒNG LỘC

Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can
Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn trong một thung
lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường
giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá cũng ln xuống
đường làm cản trở giao thông.
Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải vượt qua ngã ba Đồng Lộc. Ngã
ba Đồng Lộc được coi như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả ra nhiều tuyến
đường khác nhau đi vào nam. Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm có tầm quan trọng
chiến lược nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném bom huỷ diệt nhằm
chặn đứt sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực... của hậu
phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Chỉ tính
riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968 không quân địch đã trút xuống
đây 48.600 quả bom các loại.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
13
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Hồi 17h ngày 24/7/1968 tiểu đội 4 thanh niên xung phong được lệnh trọng điểm ở
khu vực địch vừa thả bom để san lập hố bom sửa chữa đường, kết hợp sửa chữa
hầm trú ẩn khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo để nhanh chóng thông
đường cho xe qua. Tiểu đội 4 hôm ấy có 10 cô gái trẻ:

1. Võ thị Tần - 22 tuổi - tiểu đội trưởng
2. Hồ Thị Cúc - 21 tuổi - tiểu đội phó
3. Võ Thị Hợi - 20 tuổi - chiến sĩ
4. Nguyễn Thị Xuân - 20 tuổi - chiến sĩ
5. Dương Thị Xuân - 19 tuổi - chiến sĩ
6. Trần Thị Rạng - 19 tuổi - chiến sĩ
7. Hà Thị Xanh - 18 tuổi - chiến sĩ
8. Nguyễn Thị Nhỏ - 19 tuổi - chiến sĩ
9. Võ Thị Hạ - 19 tuổi - chiến sĩ
10.Trần Thị Hường - 17 tuổi - chiến sĩ
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến tại hiện trường gấp rút triển khai công việc với
cả niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe qua nên các cô không hề sợ hãi. Họ
làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói, vừa ý ới gọi nhau. Bỗng một tốp máy
bay phản lực từ h ướng Bắc vào Nam vượt qua trọng điểm. Tất cả các cô nhanh
chóng nằm rạp xuống đường. Hết tiếng máy bay các cô lại chồm dậy làm việc. Bất
ngờ tốp máy bay phản lực quay lại bay từ trong ra thả một loạt bom rơi đúng vào
đội hình 10 cô gái. Các tiểu đội thanh niên xung phong đi sau chồm lên gào thét,
nhân dân xóm Bãi Dĩa quanh đấy cũng lao ra gọi tên từng người. Khi đến nơi quả
bom vừa nổ chỉ thấy một hố bom sâu hoắm, một vài chiếc xẻng, cuốc vng ra nhưng
không còn thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái trẻ ấy đã hy
sinh.
Để ghi sâu tội ác và ghi lại chiến tích của 10 cô gái tại trọng điểm lịch sử này
Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng
danh hiệu anh hùng cho 10 cô gái hy sinh tại ngã ba Đồng Lộc.
6- QUẢNG BÌNH
Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng duyên hải thuộc vùng Bắc Trung
Bộ Việt Nam. Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất của dải đất hình chữ S của Việt
Nam. Tỉnh này giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên;
giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm
Muộn của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên. là biên giới tự nhiên.

Diện tích
Diện tích tự nhiên của Quảng Bình là 8065, 27 km (tổng diện tích: 806.527 ha),
chia ra như sau:
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
14
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
• Đất ở : 4.946 ha
• Đất nông nghiệp: 71.381 ha
• Đất lâm nghiệp: 601.388 ha
• Đất chuyên dùng: 23.936 ha
• Đất phi nông nghiệp khác: 20.670 ha
• Đất chưa sử dụng: 72.619 ha
DÂN SỐ
Dân số Quảng Bình năm 2007 có 854.918 người. Phần lớn cư dân địa phương là
nngười gười Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân
Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày,
Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và Minh Hoá và một
số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Dân cư phân bố không đều,
86,83% sống ở vùng nông thôn và 14,4% sống ở thành thị.
VĂN HOÁ VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH
Dải đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều
cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, bãi biển
Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Cổng Trời và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới .
Quảng Bình có một dải dài bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, song
do quy hoạch chưa rõ ràng và giao thông chưa tốt nên chưa phát huy được tiềm
năng.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền
văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ

Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa
danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự
Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đ ại, đường Hồ Chí
Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi tiếng và
được truyền tụng từ đời này sang đời khác như Bát danh hương: “Sơn- Hà- Cảnh -
Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng
xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An,
Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Hoàng
Thanh Đạt...
Tháng 1 năm 2009, báo Los Angeles Times của Mỹ đã chọn Đồng Hới và vườn
quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng vào danh sách 29 điểm đến trong năm 2009.
Danh lam thắng cảnh
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
15
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Quảng Bình nổi tiếng với di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha -
Kẻ Bàngng.
Nếu đến Việt Nam, ắt hẳn du khách sẽ không thể bỏ qua cuộc hành trình khám phá
những miền đất di sản của đất nước Việt Nam xinh đẹp. Bởi lẽ, Việt Nam có đến 2
di sản đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và 5 di sản văn
hóa thế giới. Một trong số đó phải kể đến vùng đất Quảng Bình - dải đất miền
Trung đầy nắng gió, nơi có một di sản thiên nhiên thế giới nổi tiếng: Vườn Quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
Theo con đường trải rộng, xanh mượt mà bởi những thửa ruộng bát ngát, từ xa du
khách đã thấy thấp thoáng những dãy núi đá vôi sừng sững. Dừng chân tại bến
Xuân Sơn, nơi có di tích lịch sử quốc gia bến phà Xuân Sơn, ngược dòng sông Son
trên những chiếc thuyền mộc mạc sẽ đưa du khách đến động Phong Nha, Tiên Sơn.
Thế nhưng, du khách đừng chỉ dừng lại tham quan hệ thống hang động lung linh,
kì ảo nơi đây mà hãy tiếp tục cuộc hành trình đến một khu rừng nguyên sinh bạt

ngàn được ví như một chốn thần tiên.
Dòng sông Son êm đềm
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trong địa bàn các xã Tân Trạch, Thượng
Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình, có tổng diện tích là 85.754 ha. Phía tây giáp với khu vực bảo tồn HinNamno
một khu vực carxtơ nằm ở tỉnh Khăm Muộn của nước CHDC Nhân dân Lào.
Theo số liệu thống kê mới nhất, đây là rừng nguyên sinh trên núi đá vôi điển hình
với các loại thực vật đặc trưng như: nghiến, chò đãi, chò nước và sao. Thực vật có
mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch, trong đó có 38 loài nằm
trong Sách đỏ việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu
Việt Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu.
Măt khác, ở vườn quốc gia này còn có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ
trên đỉnh núi đá vôi có diện tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật
độ 600 cây /ha. Đặc biệt, quần thể các cây bách xanh núi đá có tuổi 500-600 năm,
được xem là lớn nhất Việt Nam.
Phong Nha-Kẻ Bàng còn là nơi sinh sống của 113 loài thú lớn, nổi bật nhất là hổ
và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có 35 loài nằm
trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát
lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài
bướm; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá
mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 bộ linh trưởng, chiếm 50% tổng số
loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt
là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang.Vì thế, nơi đây được đánh giá là có hệ tự nhiên đa
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
16
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
dạng nhất trong tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên
thế giới.
Toàn cảnh khu vực vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng

Một lần đặt chân lên đỉnh núi nơi đây, du khách sẽ tận mắt nhìn thấy cả một khu
rừng bách xanh phủ kín lấy những đỉnh núi đá vôi trong một không gian thoáng
mát của rừng nhiệt đới. Con đường 20 Quyết Thắng bên dưới giờ đây chỉ còn như
một sợi chỉ trắng. Phong Nha - Kẻ Bàng thật sự trở nên lộng lẫy muôn phần.
ĐỘNG PHONG NHA
Động dài tời 1451m, chia ra nhiều đoạn khúc. Sâu vào phía trong khoảng
600m, có lối rẽ ngang phía phải, dẫm vào một nhánh động phủ hình thước
thợ, có một cạnh gần song song với động chính, dài chừng 300m...
Trên đường thiên lý từ Bắc vào Nam, qua đèo Ngang, ranh giới tự nhiên của Hà
Tĩnh và Quảng Bình, tiếp theo là sông Gianh, du khách đi dộ 16km nữa là đến
huyện Bố Trạch, rẽ vào con đường hướng Tây Bắc chừng 17km là gặp dòng sông
Sơn, nước trong vắt, uốn khúc quanh co giữa vùng đồi cỏ tranh, lau sậy và rừng
thưa.
Du khách phải dùng thuyền và chuẩn bị đèn pin khi vào quan sát động này. Nhìn
từ xa, cửa động dường như áp sát, mật nước. Cửa vòm thẳng, xéo từ phải hạ thấp
xuống qua trái, cao gần 10m và rộng tới 25m, một cái mõm chệch qua bên của một
mãnh thú khổng lồ. Thạch nhũ từ trên vòm buông xuống tua tủa như những chiếc
răng cực lớn. Gió từng đợt thổi ào ào, luồn lách qua nhiều hang hốc, khe đá, đôi
lúc thoát ra những tiếng rú, rền rĩ, vang động kéo dài theo vách đá âm u. Vì thế
mới được gọi là Phong Nha, vì Phong là gió, Nha là răng.

Phong Nha có trên 20 buồng với hành lang chính dài tới 1500 m và nhiều
hành lang phụ dài hàng trăm mét.
Tới cửa động, thuyền dừng lại, tắt máy và người ta phải cố chèo chống để luồn vào
hang trên một dòng nước trào ra trong tối tăm. Dòng nước như muốn đẩy thuyền
lùi lại, không cho vào.
Bên cửa động có bàn thờ sơn thần và dấu tích một tượng Chàm (chỉ còn lại cái bệ,
tượng đã mất từ lâu).



Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
17
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Những khối đá lớn, khá vuông vức, phẳng phiu như đã qua bàn tay đẽo gọt của con người.

Động dài tời 1451m, chia ra nhiều đoạn khúc. Sâu vào phía trong khoảng 600m, có
lối rẽ ngang phía phải, dẫm vào một nhánh động phủ hình thước thợ, có một cạnh
gần song song với động chính, dài chừng 300m. Tận cùng là một bãi rộng, ngổn
ngang những khối đá lớn, khá vuông vức, phẳng phiu như đã qua bàn tay đẽo gọt
của con người.

Trong động phụ này, cách chỗ rẽ vào khoảng 200m có một bàn thờ của người
Chăm đặt giữa hai cột đá thiên nhiên, dưới một cái vòm tuyệt đẹp. Trên vách có tới
gần 100 mảng khắc chữ Chăm cổ. Xung quanh có nhiều bệ tượng. Dưới nền động,
giữa những phế tích là những tượng nhỏ hình thù kỳ dị. Chính vì những di tích này
mà động Phong Nha còn có tên là Chùa Hang.

Lòng động chính có chỗ rộng tới 40m, chỗ hẹp chỉ còn 8m. Trần động có chỗ cao
tới 50m trên mặt nước. Chỗ thấp là 2m.

Từ cửa động vào sâu khoảng 100m lòng động thắt hẹp lại, trần sa thấp xuống như
gần chạm tới mặt nước. Thạch nhũ buông rèm càng làm tăng thêm vẻ bí hiểm,
xung quanh tối om. Thuyền khéo lách qua, tới bên kia, lòng động lại nới rộng ra;
trần động cao dần lên. ở hỗ vừa hẹp vừa thấp, tối ấy, mực nước cũng sâu nhất, trên
12m.
Từng tiếng động nhỏ như tiếng hòn sỏi rơi, tiếng mái chèo khẽ khuấy nước, kể cả
tiếng nói thì thầm, tiếng nước nhẹ nhỏ giọt cũng đều được lòng hang vòm động
chuyển thành những âm vang vọng kỳ lạ.



Dưới ánh đèn, người ta tìm thấy đá lóng lánh muôn màu.

Dưới ánh đèn, người ta tìm thấy đá lóng lánh muôn màu. Những cột đá dầm chân
dưới lòng sông, in bóng trên mặt nước phản chiếu ánh sáng lung linh, như những
hành lang mờ ảo trong lâu đài thủy cung. Cuối động là một bãi cát có nhiều khối
đá lớn lô nhô như những hòn đảo giữa lòng hồ khô cạn.

Cũng trong dãy núi cũng còn có một thắng cảnh nữa ở trên độ cao 200m được gọi
là Động Khô (để phân biệt với động Phong Nha là động hang nước có dòng sông
ngầm xuyên qua, muốn vào phải dùng thuyền chèo chống).
Lối lên động khô ở gần cửa động Phong Nha. Trong động có nhiều nhũ đá, măng
đá hình thù kỳ dị. Động có khe sâu ăn thông xuống hang ngầm.
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
18
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Tháng 4 - 1997, một cuộc hội thảo khoa học về di tích danh thắng Phong Nha -
Xuân Sơn được tổ chức tại Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu khảo sát cho biết
Phong Nha có 7 cái nhất:
1. Hang nước dài nhất
2. Cửa hang cao và rộng nhất
3. Bãi cát và đá rộng đẹp nhất
4. Hồ ngầm đẹp nhất
5. Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất
6. Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam (13.969 m)
7. Hang khô rộng và đẹp nhất.
7- QUẢNG TRỊ
Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc giáp
tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây giáp nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính
của tỉnh là thị xã Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà Nội và 1.112
km về phía bắc thành phố Hå ChÝ Minh . Nơi đây có sông Bến Hải - cầu Hiền
Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong suốt 20 năm
(1954 - 1975).
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo
hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi, sông ở các huyện miền
núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Khí hậu khắc nghiệt, có gió Tây
Nam (còn gọi là gió phơn hay gió Lào) rất khô nóng. Nhìn đại thể, địa hình núi,
đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và trùng với
phương của đường bờ biển. Sự trùng hợp này được thấy rõ trên dường phân thủy
giữa Trường Sơn Đ ông và Trường Sơn Tây. ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều
nằm ở giữa đường biên giới Việt Lào nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu
trong lãnh thổ nớc ta. Các sông lớn như Sêbănghiên, Sêpôn... đều bắt nguồn từ
Việt Nam chảy qua Lào. Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng
dãy núi, từng dải đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lùng sông
lớn như Cam Lộ, Thạch hãn, Bến Hải... Tính phân bậc của địa hình từ tây sang
đông thể hiện khá rõ ràng. mếu ở phía tây của đường phân thủy địa hình nghiêng
khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi
trung bình xuống đồng bằng. Các bạc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới
sông suối dỳ đặc với trắc diện dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía tây thì
lộ đá gốc, phía đông thì địa hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bới phù sa ở
giữa lại thấp và dễ dàng bị Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt
Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền
Quảng Trị ở vào vị trí: Cực bắc là 17010' vĩ độ bắc, thuộc địa phận thôn Mạch
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
19
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch

Nước, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh. Cực nam là 16018' vĩ độ bắc thuộc bản A
Ngo, xã A Ngo, huyện Đakrông.ngập úng vào mùa mưa lũ. Cực đông là 1070
23'58 kinh độ đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê, Hải Lăng. Cực tây là
106028'55 kinh độ đông, thuộc địa phận đồn biên phòng Cù Bai, xã Hướng Lập,
Hướng Hóa. Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian
lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến
Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển đông. Cách thủ đô Hà Nội 582 km
về phía Bắc, thành phố Hồ Chí Minh 1.121 km về phía Nam.. Phía bắc Quảng Trị
giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), phía nam giáp hai huyện A Lươí, Phong điền
(Thừa Thiên - Huế), phía tây giáp tỉnh Savanakhet (Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206 km, được phân chia bởi dãy
Trường Sơn hùng vĩ. Phía đông giáp biển đông với chiều dài bờ biển 75 km và
được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý 1709'36 vĩ bắc và 107020' kinh đông,
đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25 km, diện tích khoảng 4 km2. Chiều ngang
trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất
52,5 km).. Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị
trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc
bảo vệ và khai thác biển Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước
cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước
khác trong khu vực Đông Nam á và thế giới qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9
ra cảng Cửa Việt.
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả
bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử.
• Qua cầu treo Đakrông là đến đường mòn Hồ Chí Minh.
• Thành cổ Quảng Trị là một nơi gắn liền với chiến dịch mùa hè 1972. Tại
tỉnh này còn có một số địa danh khác như nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn,
địa đạo Vịnh Mốc, chiến trường Khe Sanh, căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu,
hàng rào điện tử hàng rào điện tử McNamara...
• Quảng Trị còn có bãi tắm Cửa Tùng được các sĩ quan Hải quân Pháp mệnh

danh là "hoàng hậu của các bãi tắm" Đ «ng D ¬ng .
Thành cổ Quảng Trị





(bãi tắm Cửa Tùng)


THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
20
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Thành Cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A
khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.
Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn
trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu
thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu
Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là phường 2
thị xã Quảng Trị).
Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại
bằng gạch. Khuôn viên Thành Cổ Quảng Trị có dạng hình vuông với chu vi tường
thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3
trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là
4 pháo, đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây vòm cuốn,
rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa
4 mặt thành.

Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh
án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính
Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là
hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường,
kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây,
hoa, lá Đ ây là nơi để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị
hay tổ chức các lễ tiết trong năm.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì
Thành Cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế
đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến
sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học
chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người
yêu nước.
Thành Cổ Quảng Trị còn được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu tranh
anh dũng để bảo vệ Thành Cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải phóng quân
và nhân dân Quảng Trị
Hai phần ba tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào đầu năm 1972 là sự
quyết định thắng lợi tại bàn Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì
vậy, để làm thay đổi hội nghị, Mỹ - ngụy đã âm mưu huy động tối đa lực lượng và
phương tiện nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị mà trong đó mục tiêu đánh phá hàng
đầu là Thành Cổ.
Tại thị xã nhỏ bé chưa đầy 2Km
2
này, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 -
170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52, 12 - 16 tàu khu trục, tuần
dương hạm, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung
đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn...
Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ- ngụy đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn,
tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật
Bản năm 1945. Riêng ngày 25/7, chúng xả vào Thành Cổ hơn 5000 quả đại bác.

Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
21
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông
(các đơn vị của sư 320, 308, 325 là chủ yếu) song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh
thần chiến đấu kiên cường đã đánh địch bật ra khỏi Thành Cổ và cả thị xã mà có
khi "mỗi mét vuông đất là cả một mét máu".
Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc
Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hi sinh cao quý của biết bao
chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng.
Thành Cổ Quảng Trị được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo
quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại
được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau
hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng
tiền, hậu...
Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã
được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài
tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được
đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành
hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.
Hiện nay Thành Cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:
- Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến
trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên
tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.
- Khu phục dựng Thành Cổ nguyên sinh: ở phía Đ ông bắ c, thu nhỏ kiến trúc các
công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.
- Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại
phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh,

hồ nước, sân chơi,...
Thành Cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm
thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế
NGHĨA TRANG LIỆT SĨ TRƯỜNG SƠN

VỊ TRÍ
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường quốc
lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm tỉnh lỵ
(thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở đoạn thị trấn
huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.
Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê
chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị
làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã anh dũng
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
22
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi công xây dựng vào ngày 24/10/1975 và
hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với
sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Ngoài ra còn
có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá xã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh
Quảng Nam.

KHUÔN VIÊN
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ;
có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu tượng
đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng
đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m2. Phần đất mộ được
phân thành 10 khu vực chính.

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy
sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Đây
là một công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tính nghệ thuật
cao, thể hiện lòng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tôn vinh thầm kín của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người con yêu quý trên mọi
miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng và
thống nhất đất nước.
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959
19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại nghĩa
trang Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang Trường Sơn,
hệ thống đường và tường bao quanh, mô hình sở chỉ huy, biểu tượng của các địa
phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ, trồng cây xanh xung
quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi công... Đến nay tất cả các
hạng mục của các công trình về cơ bản đã được hoàn tất.
Ngày nay
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các anh
hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa
bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không chỉ là nơi để các gia
đình liệt sỹ, các đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước, chính quyền các địa
Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
23
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn đáp nghĩa mà còn là nơi
hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước và bạn bè quốc tế theo truyền
thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam: uống nước nhớ nguồn.
Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường
xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đoàn khách
trong và ngoài nước đến thăm viếng.

ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC

Làng địa đạo Vịnh Mốc - Một toà lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị. Vịnh
Mốc (thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một làng
chài khiêm nhường có gần 100 nóc nhà nằm trên bờ biển phía đông nam thị
trấn Hồ Xá chừng 13km, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo
Cồn Cỏ anh hùng 30km về phía Tây.
Vào năm 1965, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ vào
Vĩnh Linh, cũng như hầu hết các làng quê khác, Vịnh Mốc đã bị huỷ diệt hoàn
toàn. Trước quyết tâm bám trụ quê hương, chi viện chi miền Nam, việc tổ chức
phòng tránh cho con người đặt ra hết sức cấp thiết. Với ý chí "một tấc không đi,
một li không rời", quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống
lòng đất, họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh
Mốc là đại diện tiêu biểu nhất.
Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã
chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên
khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này.
Toàn bộ địa đạo được đào trong lòng quả đồi đất đỏ có độ cao chừng 30m, rộng
hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,
75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính
dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và nguỵ trang khá kín
đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường
hầm.
Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10
mét dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời, tầng 2 sâu 12 - 15 mét là nơi
sống và sinh hoạt của dân làng, tầng 3 có độ sâu hơn 30 mét là nơi trung chuyển
hàng hoá, vũ khí ra thuyền lên đảo Cồn Cỏ.
Để đảm bảo cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên
đường hầm người ta khoét vào rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người
ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm

Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
24
Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho
gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại đặc biệt có nhà hộ sinh, nơi ra đời
của 17 đứa trẻ suốt trong hai năm 1967 - 1978.
Việc tổ chức phòng tránh, bảo vệ địa đạo rất phức tạp, đòi hỏi tính tổ chức, tự giác
cao, bởi lẽ không chỉ đạn bom trút xuống mà còn người nhái, gián điệp tìm cách
xâm nhập. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), việc 17 đứa trẻ ra
đời an toàn không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự
tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
Hơn thế nữa, vượt qua hoàn cảnh, họ không chỉ tồn tại mà còn tổ chức hàng trăm
chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ. Đảo Cồn Cỏ đứng vững và được Nhà
nước tuyên dương anh hùng hai lần trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân
và dân làng hầm Vịnh Mốc.
Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh
Mốc và lực lượng vũ trang. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn và luôn bị địch
rình rập, đánh phá, quân dân Vịnh Mốc - Vĩnh Thạch đã đồng lòng góp sức, tổ
chức khoa học hợp lý hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ.
Với hơn 18.000 ngày công, đào và vận chuyển ra khỏi lòng đất hơn 6.000m
3
đất
đá, mỗi mét đường hầm thực sự là kết tinh tình cảm, trí tuệ, ý chí quyết chiến,
quyết thắng của quân dân. Từ cụ già chế tác dụng cụ đến nồi nước chè xanh, bữa
cơm đạm bạc của các mẹ, các chị và sức lực cường tráng của các chàng trai. Làng
hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh, Quảng Trị một nét son rực
rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm
tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc VN. Từ

đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ
của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có
rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này, tất cả đều công nhận " Làng địa đạo Vịnh
Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất giấu kín biết bao điều
kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra".
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã quyết định công
nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt
quan trọng. Hiện nay, địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút mọi du khách đông nhất
trong tuyến du lịch nổi tiếng và độc đáo.

Gv hướng dẫn: T.S Vũ Đình Thuỵ
Sinh viên thực hiện: Trần Quang Huy
25

×