Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đánh giá quá trình triển khai mô hình nông thôn mới tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.52 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI MÔ HÌNH
NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ NGHI TRUNG,
HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
Tên sinh viên : Phạm Thị Thúy An
Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : KTNNB – K53
Niờn khoá : 2008 - 2012
Giáo viên hướng dẫn : Lương Thị Dân
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT 1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 1
MỤC LỤC i
PHẦN I : TÍNH CẤP THIẾT 2
PHẦN II : TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
i
PHẦN I : TÍNH CẤP THIẾT
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện
và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản
xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên
thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp,
dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, chúng ta từ
một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương
thực của nước ngoài, nay đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế


giới. GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%; thu nhập
và đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm
bình quân 1,5% năm (GS. TS Phùng Hữu Phú và cộng sự, 2009). Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi.
Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết cỏc vựng nông thôn ngày
càng được cải thiện. Xúa đúi, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị
ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông
dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa cỏc vựng. Nông nghiệp phát triển cũn kộm bền vững,
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt
nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản
xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp.
Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ
2
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản
xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá.
Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó
với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vựng sõu,
vựng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa cỏc vựng cũn
lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trờn cú nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một
cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân,

nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu
tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi
nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và
các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà
nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi
còn hạn chế.
Trước tình hình đó, xõy dựng nông thôn theo mô hình nông thôn mới là
quá trình tất yếu và cần thiết mà Đảng và Nhà Nước cần quan tâm trong tiến
trình đổi mới đất nước theo mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa, đưa nước ta
tiến lên xã hội chủ nghĩa. Ngày 10/11/1998, Bộ chính trị đưa ra nghị quyết số 06
NQ-TW về “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nụng thụn”, Nghị quyết đã
nêu ra công việc cần thiết hiện nay là cần phải xây dựng một mô hình nông thôn
mới đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước. Ngày 27/4/2001 Bộ trưởng Bộ nông
3
nghiệp và phát triển nông thôn đã đưa ra chỉ thị số 49/2001/CT-BNN/CS về việc
“Xõy dựng mô hình thí điểm phát triển nông thôn (cấp xó)”. Và tại Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-
NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm
thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Để người dân hiểu rõ hơn
về chương trình xây dựng mô hình nông thôn mới, ngày 16/4/2009, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông
thôn mới cùng với hướng dẫn thực hiện hoàn thành các tiêu chí đó. Đây là cơ sở
quan trọng để Việt Nam xây dựng nông thôn theo các tiêu chí mới, giải quyết tốt
hơn vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH
đất nước.
Trong những năm gần đây, xây dựng mô hình nông thôn mới là một trong
những vấn đề thời sự được quan tâm hàng đầu. Các chương trình thí điểm được

thực hiện ở nhiều vùng nông thôn và đã thu được những kết quả đáng khích lệ,
góp phần quan trọng trong việc cải thiện và phát triển nông thôn, đáp ứng phần
nào sự mong mỏi của toàn đảng toàn dân về một sự thay đổi toàn diện của bộ mặt
nông thôn nước nhà. Xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là một trong
những xã điểm của huyện được lựa chọn xây dựng mô hình nông thôn mới.
Trong thời gian qua đảng bộ , chính quyền và nhân dân xã Nghi Trung đã đoàn
kết trên dưới một lòng chung tay xây dựng và phát triển quê hương. Mụ hình đã
thu được kết quả đáng kể, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, mọi lĩnh vực
kinh tê, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như an ninh quốc phòng đều có bước
chuyển biến quan trọng, đời sống người dân được nâng cao. Bên cạnh những kết
quả đạt được cũng còn tồn tại khá nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình
triển khai xây dựng mô hình nông thôn mới trên cả nước nói chung và xã Nghi
Trung nói riêng, xuất phát từ những vấn đề trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “
Đánh giá quá trình triển khai mô hình nông thôn mới tại xã Nghi Trung,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An”.
4
PHẦN II : TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Một số lý luận cơ bản về mô hình nông thôn mới
2.1.1 Một số khái niệm
- Nông Thôn
Ở Việt Nam, nông thôn là bao gồm các địa bàn dân cư có số lượng dân tập
trung dưới 4.000 người, mật độ dân cư ít hơn 6.000 người/km
2
và tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp dưới 60%, tức là tỷ lệ lao động nông nghiệp đạt từ 40% trở lên.
(TS. Mai Thanh Cúc và cộng sự, 2005).
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn, còn
nhiều quan điểm khác nhau.
Khi xem xét khái niệm về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với
đô thị. Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn người ta thường dùng chỉ tiêu

mật độ dân số, cụ thể số lượng dân cư ở nông thôn thường thấp hơn so với thành
thị.
Có quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ
tầng, có nghĩa là vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô
thị.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị
trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn vì cho rằng nông thôn
có trình độ sản xuất hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường so với đô thị là
thấp hơn.
Một quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn là vựng cú dân cư làm nông
nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản
xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng trong từng khía cạnh cụ thể và
từng nước nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp
dụng cho từng nền kinh tế.
5
Như vậy, khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay đổi theo thời
gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý, có thể
hiểu “Nụng thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông
dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và
môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ
chức khỏc” (TS. Mai Thanh Cúc và cộng sự, 2005).
- Mô hình nông thôn mới
Xây dựng mô hình nông thôn mới là chính sách về một mô hình phát triển cả
về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh
vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan
hệ với các chính sách khỏc, cỏc lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính
tổng thể khắc phục tình trạng rời rạc hoặc duy ý chí.
Vì vậy, khái niệm nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ không
phải là Thị tứ; Thứ hai, là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền

thống. Nếu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông
thôn mới phải bao hàm cơ cấu và chức năng mới. Đô thị hoá và phi nụng hoỏ
nông dân chính là nguồn động lực quan trọng để xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng nông thôn mới phải đặt trong bối cảnh đô thị hoá. Trong khi đó, chuyển
dịch lao động nông thôn chính là nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng
nông thôn mới với chủ thể là các tổ chức nông dân. Các tổ chức hợp tác khu xã
nông dân kiểu mới đóng một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp này.
Khái niệm mô hình nông thôn mới mang đặc trưng của mỗi vùng nông thôn
khác nhau. Nhìn chung, mô hình nông thôn mới là mô hình cấp xó, thụn được phát
triển toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, văn minh
hóa. Sự hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới là
những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu KHKT hiện
đại mà vẫn giữ được nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của người Việt Nam.
6
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: đáp ứng yêu cầu
phát triển (đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường), đạt hiệu quả
cao nhất trờn cỏc mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, tiến bộ hơn so với mô
hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
Xây dựng nông thôn mới là việc đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của người dân,
tạo động lực giúp họ phát triển kinh tế, xã hội góp phần thực hiện chính sách vì
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thay đổi diện mạo đời sống văn hóa qua đó thu
hẹp khoảng cách sống nông thôn, thành thị. Đây là quá trình lâu dài và liên tục, là
một trong những nội dung trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong đường
lối, chủ trương phát triển đất nước và của các địa phương trong giai đoạn trước mắt
cũng như lâu dài.
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại; Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; Môi trường sinh thái được bảo vệ;
Nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nông

thôn; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí
thức, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc, đảm bảo thực hiện thành
công CNH - HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiểu một cách chung nhất của mục đích xây dựng mô hình nông thôn mới
là hướng đến một nông thôn năng động, có nền sản xuất nông nghiệp hiện đại,
có kết cấu hạ tầng gần giống đô thị.
Vì vậy, có thể quan niệm: “Mụ hình nông thôn mới là tổng thể những đặc
điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng
yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn
được xây dựng so với mô hình nông thôn củ (truyền thống, đó cú) ở tính tiên
tiến về mọi mặt”. (Cam Thành Nam Cam Ranh, 2011).
7
2.1.2 Sự cần thiết phải xây nông thôn mới ở nước ta
Có thể nói, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới chủ trương, chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước ta thì nông nghiệp
được xem là mặt trận hàng đầu, chú trọng các chương trình lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phát triển kinh tế trang trại, đẩy mạnh
CNH - HĐH nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở… đã bắt đầu tạo ra những yếu tố mới trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, nhà nước ta đã và đang phối hợp với các tổ
chức, các tổ chức xã hội trong nước để xúa đúi giàm nghèo cải thiện môi trường
thiên nhiên và môi trường xã hội ở nông thôn. Các chủ trương của Đảng, chính
sách của nhà nước ta đã và đang đưa nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang nền
nông nghiệp hàng hóa. Những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ đổi mới là rất to lớn, tuy nông nghiệp nông thôn nước ta vẫn
tiềm ẩn những mâu thuẫn, thách thức và bộc lộ những hạn chế không nhỏ như:
Thứ nhất: Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch và tự phát
- Hiện nay, nông thôn đang thiếu quy hoạch, tự phát, có khoảng 23% xó
cú quy hoạch nhưng thiếu đồng bộ, tầm nhìn ngắn, chất lượng chưa cao. (Theo
tài liệu của BTG Trung ương, 2010)

- Cơ chế quản lý theo quy hoạch còn yếu.
- Xây dựng tự phát, kiến trúc làng quê bị pha tạp lộn xộn, nhiều nét đẹp
văn hóa truyền thống bị mai một.
Thứ hai: Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu không đáp ứng được
yêu cầu phát triển lâu dài
Thủy lợi chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Tỷ lệ
kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa mới đạt 25%. (Theo tài liệu của
BTG Trung ương, 2010). Giao thông chất lượng thấp, không có quy chuẩn, chủ
yếu phục vụ dân sinh, nhiều vùng giao thông chưa phục vụ tốt sản xuất, lưu
thông hàng hóa, phần lớn chưa đạt quy chuẩn quy định. Hệ thống lưới điện hạ
8
thế ở tình trạng chắp vá, chất lượng thấp, quản lý lưới điện ở nông thôn còn yếu,
tổn hao điện năng cao (22% - 25%), nông dân phải chịu giá điện cao hơn giá
trần nhà nước quy định.
Hệ thống các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở ở nông thôn có tỷ
lệ đạt chuẩn về cơ sở vật chất thấp (32,7%), còn 11,7% số xã chưa có nhà trẻ,
mẫu giáo; mức đạt chuẩn nhà văn hóa, khu thể thao xã mới đạt 29,6%, hầu hết
cỏc thụn không có khu thể thao theo quy định, tỷ lệ chợ nông thôn đạt chuẩn
thấp, có 77,6% số xã có điểm bưu điện văn hóa theo tiêu chuẩn, 22,5% số thôn
có điểm truy cập internet. Cả nước hiện còn hơn 4000 nhà tạm bợ (tranh, tre,
nứa, lá), hầu hết nông thôn được xây không có quy hoạch, quy chuẩn. (Theo tài
liệu của BTG Trung ương, 2010)
Thứ ba: Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, đời sống người dân còn ở mức
thấp
- Kinh tế hộ còn phổ biến ở quy mô nhỏ (36% số hộ có dưới 0,2 ha đất)
- Kinh tế trang trại chiếm hơn 1% tổng số hộ nụng - lõm - ngư nghiệp
trong cả nước.
- Kinh tế tập thể phát triển chậm, hầu hết cỏc xó đó cú hợp tác xã. Cú trờn
54% số hợp tác xã ở mức trung bình và yếu.
- Đời sống nông dân nông thôn tuy được cải thiện nhưng còn ở mức thấp,

chênh lệch giàu nghèo ở thành thị và nông thôn, giữa cỏc vựng ngày càng cao.
Chênh lệch thu nhập giữa 10% nhóm người giàu và 10% nhóm người nghèo
nhất là 13,5 lần.
- Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn cao (16,2%). (Theo tài liệu của
BTG Trung ương, 2010).
Thứ tư: Các vấn đề văn hóa - môi trường - giáo dục - y tế còn hạn chế
- Giỏo dục mầm non: Còn 11,7% số xã chưa có nhà trẻ, mẫu giáo.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn rất thấp (khoảng 12,8%). (Theo tài liệu
của BTG Trung ương, 2010).
9
- Mức hưởng thụ về văn hóa của người dân thấp, những vấn đề xã hội ở
nông thôn vẫn phát sinh nhiều vấn đề bức xúc, bản sắc văn hóa dân tộc ngày
một mai một, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng.
- Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển.
- Môi trường sống ô nhiễm.
- Số trạm y tế đạt chuẩn quốc gia thấp, vai trò của trạm y tế dự phòng của
trạm y tế còn hạn chế.
Thứ năm: Hệ thống chính trị còn yếu (nhất là trình độ và năng lực điều
hành)
- Trong hơn 81000 công chức xã: 0,1% chưa biết chữ, 2,4% tiểu học,
21,5% trung học cơ sở, 75,5% trung học phổ thông.
- Về trình độ chuyên môn: Chỉ có 9% có trình độ đại học, cao đẳng,
32,4% trung cấp, 9,8% sơ cấp, 48,7% chưa qua đào tạo
- Về trình độ quản lý nhà nước: Chưa qua đào tạo là 44%, chưa qua đào
tạo tin học là 87%. (Theo tài liệu của BTG Trung ương)
Góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên và nhằm đưa nghị
quyết nông thôn của Đảng đi vào cuộc sống, thì một trong những việc cần làm
trong giai đoạn này là xây dựng mô hình nông thôn mới đáp ứng yêu cầu CNH -
HĐH và hội nhập nền kinh tế thế giới.
2.1.3 Các nội dung và chỉ tiêu của mô hình nông thôn mới

2.1.3.1 Vai trò của mô hình nông thôn mới trong phát triển kinh tế - xã hội
 Về kinh tế
Nông thôn có nền sản xuất hàng hoá mở, hướng đến thị trường và giao
lưu, hội nhập. Để đạt được điều đó, kết cấu hạ tầng của nông thôn phải hiện đại,
tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất giao lưu buôn bán.
- Thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, khuyến khích
mọi người tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều
10
chỉnh, giảm bớt sự phõn hoỏ giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa cỏc
vựng, giữa nông thôn và thành thị.
- Hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới các hợp tác xã
theo mô hình kinh doanh đa ngành. Hỗ trợ các hợp tác xã ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ phù hợp với các phương án sản xuất kinh doanh, phát triển ngành
nghề ở nông thôn.
- Sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, mang nét độc đáo, đặc sắc của từng
vùng, địa phương. Tập trung đầu tư vào những trang thiết bị, công nghệ sản
xuất, chế biến bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch.
 Về chính trị
Phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật, gắn lệ làng, hương
ước với pháp luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, tôn
trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ của làng xã.
Phát huy tối đa quy chế dân chủ ở cơ sở, tôn trọng hoạt động của các đoàn
thể, các tổ chức hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, nhằm huy động tổng lực vào xây
dựng nông thôn mới.
 Về văn hoá xã hội
Xõy dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, giúp nhau xoỏ đúi giảm nghèo,
vươn lên làm giàu chính đáng.
Về con người
Xõy dựng hình mẫu người nông dân sản xuất hàng hoá khá giả, giàu có,
kết tinh các tư cách: Công dân, thể nhân, dân của làng, người con của các

dòng họ, gia đình.
 Về môi trường
Xây dựng, củng cố, bảo vệ môi trường, sinh thái. Bảo vệ rừng đầu nguồn,
chống ô nhiễm nguồn nước, môi trường không khí và chất thải từ các khu công
nghiệp để nông thôn phát triển bền vững.
11
Các nội dung trên trong cấu trúc mô hình nông thôn mới có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình
hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp
lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện, động viên tinh thần. Nhân dân
tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi chính sách. Trên tinh thần đú, cỏc
chính sách kinh tế - xã hội sẽ tạo hiệu ứng tổng thể nhằm xây dựng mô hình
nông thôn mới.
2.1.3.2 Các nội dung chủ yếu của mô hình nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới không phải chỉ nhằm xây dựng con đường, kênh
mương, trường học, hội trường mà cỏi chớnh là qua cách làm này sẽ tạo cho
người nông dân hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa và thúc đẩy họ tự tin, tự quyết,
đưa ra sáng kiến, tham gia tích cực để tạo ra một nông thôn mới năng động hơn.
Phải xác định rằng, đây không phải là đề án đầu tư của Nhà nước mà là việc
người dân cần làm, để cuộc sống tốt hơn, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng thôn về tiềm năng, lợi thế, năng lực
của cán bộ, khả năng đóng góp của nhõn dõn… từ đó xác định nhu cầu và nội
dung hoạt động của đề án. Xột trờn khía cạnh tổng thể, những nội dung chủ yếu
trong xây dựng mô hình nông thôn mới là:
 Đào tạo nâng cao năng lực phát triển cho cộng đồng
- Nâng cao năng lực cộng đồng trong việc quy hoạch, thiết kế, triển khai
thực hiện, quản lý điều hành các chương trình dự án trên địa bàn thôn.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở và đội ngũ cán bộ các cấp về
phát triển nông thôn bền vững.
- Nâng cao trình độ dân trí của người dân

- Phát triển mô hình câu lạc bộ mô hình khuyến nông nông thôn để giúp
nhau ứng dụng TBKT vào sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ để giảm lao
động nông nghiệp
 Tăng cường và nâng cao mức sống cho người dân
12
- Quy hoạch lại các khu dân cư nông thôn, với phương châm: Giữ gìn tính
truyền thống, bản sắc của thôn, đồng thời đảm bảo tính văn minh, hiện đại, đảm
bảo môi trường bền vững.
- Cải thiện điều kiện sinh hoạt của khu dân cư, ưu tiên những nhu cầu cấp
thiết nhất của cộng đồng dân cư để triển khai xây dựng: đường làng, nhà văn
hóa, hệ thống tiờu thoỏt nước…
- Cải thiện nhà ở cho các hộ nông dân: Tăng cường thực hiện xóa nhà
tạm, nhà tranh tre nứa, hỗ trợ nhà dân cải thiện nhà ở, nhà vệ sinh, chuồng trại
chăn nuụi…
 Hỗ trợ người dân phát triển hàng hóa, dịch vụ nâng cao thu nhập
Căn cứ điều kiện cụ thể vào mỗi thôn để xác định cơ cấu kinh tế hợp lý,
có hiệu quả, trong đó:
- Sản xuất nông nghiệp: Lựa chọn tập trung phát triển cây trồng, vật nuôi
làm lợi thế, có khối lượng hàng hóa lớn và có thị trường, đồng thời đa dạng hóa
về sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy khả năng về đất đai, nguồn nước và
nhân lực tại địa phương.
- Cung ứng các dịch vụ sản xuất và đời sống như: Cung ứng vật tư, hàng
hóa, nước sạch cho sinh hoạt, nước cho sản xuất, điện, tư vấn kỹ thuật chuyển
giao tiến bộ khoa học, tín dụng…
- Hỗ trợ trang bị kiến thức và kỹ năng bố trí sản xuất, thay đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi hợp lý.
- Củng cố tăng cường quan hệ sản xuất, tư vấn hỗ trợ việc hình thành và
hoạt động của các tổ chức: tổ hợp tác, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư…
tạo mối liên kết bốn nhà trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
 Xây dựng nông thôn gắn với phát triển ngành nghề nông thôn tạo việc

làm phi nông nghiệp
13
- Đối với những nông thôn chưa có nghề phi nông nghiệp: để phát triển
được ngành nghề nông thôn cần tiến hành “cấy nghề” cho những địa phương
còn trắng nghề.
- Đối với những nông thôn đó cú nghề: Củng cố tăng cường kỹ năng cho
lao động, hỗ trợ công nghệ mới, quảng bá và mở rộng nghề, hỗ trợ xử lý môi
trường, hỗ trợ tư vấn thị trường để phát triển bền vững.
 Hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ sản xuất
- Tư vấn hỗ trợ quy hoạch giao thông, thủy lợi nội đồng, chuyển đổi
ruộng đất, khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại với
nhiều loại hình kinh tế trang trại thích hợp.
- Hỗ trợ xây dựng mặt bằng cụm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng
nghề, chế biến sau thu hoạch, giao thông, thủy lợi nội đồng.
 Xây dựng nông thôn gắn liền với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ở
nông thôn
Vấn đề bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường từ việc quản lý nguồn cấp
nước, thoát nước đến quản lý thu gom rác thải nông thôn cũng đã trở nên đáng
báo động. Đã đến lúc cơ quan địa phương cần có những biện pháp quản lý môi
trường địa phương mình như: Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, tuyên truyền
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, xây dựng hệ thống quản lý
môi trường ở khu vực mình một cách chặt chẽ.
 Phát triển cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc ở nông thôn
Thông qua các hoạt động ở nhà văn hóa làng, những giá trị mang đậm nét
quờ đó được lưu truyền qua các thế hệ, tạo nên những phong trào đặc sắc mang
hồn quê Việt Nam riêng biệt, mộc mạc - chân chất - thắm đượm tình quê hương.
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa xã hội ở nông thôn, trước hết xuất phát từ xây
dựng làng văn hóa, nhà văn hóa làng. Phong trào này phải được phát triển trên
diện rộng và chiều sâu.

14
Các nội dung trên trong cấu trúc mô hình nông thôn mới có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Các nội dung cần được song song thực hiện tạo điều kiện cho
sự phát triển đồng bộ, toàn diện trong mô hình nông thôn mới. Nhà nước đóng
vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách,
xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực,
tạo điều kiện, động viên tinh thần. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong
thực thi chính sách. Trên tinh thần đú, cỏc chính sách kinh tế - xã hội sẽ tạo hiệu
ứng tổng thể nhằm xây dựng mô hình nông thôn mới.
2.1.3.3 Căn cứ xác định tiêu chí, chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới theo đề án
của Bộ NN&PTNT
Căn cứ quyết định số: 491/QĐ - TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
Căn cứ thông tư số 54/2009/TT - BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ
Nông Nghiệp và PTNT về việc hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới.
 Cỏc nhóm tiêu chí: Gồm 5 nhóm
- Nhóm I: Quy hoạch (có 01 tiêu chí)
- Nhóm II: Hạ tầng kinh tế - xã hội (có 08 tiêu chí)
- Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất (có 04 tiêu chí)
- Nhóm IV: Văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu chí)
- Nhóm V: Hệ thống chính trị (có 02 tiêu chí)
 19 tiêu chí xây dựng mô hình nông thôn mới áp dụng cho vùng bắc
trung bộ.
- Tiêu chí thứ 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
+ Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ: Đạt
+ Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới: Đạt
15
+ Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư

hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn bản sắc văn hóa tốt đẹp: Đạt
- Tiêu chí thứ 2: Giao thông
+ Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn
theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT: 100%
+ Tỷ lệ km đường trục thôn được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của
Bộ GTVT: 70%
+ Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận
tiện: 70%
+ Tỷ lệ km đường ngừ, xúm sạch và không lầy lội vào mùa mưa: 100% (70%
cứng hóa)
- Tiêu chí thứ 3: Thủy lợi
+ Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh: Đạt
+ Tỷ lệ km kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa: 85%
- Tiêu chí thứ 4: Điện nông thôn
+ Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện: Đạt
+ Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn: 98%
- Tiêu chí thứ 5: trường học
Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, THCS có cơ sở vật chất
đạt chuẩn quốc gia: 80%
- Tiêu chí thứ 6: Cơ sở vật chất văn hóa
+ Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ VH-TT-DL: Đạt
+ Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ
VH-TT-DL: 100%
- Tiêu chí thứ 7: Chợ nông thôn
Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng: Đạt
- Tiêu chí thứ 8: Bưu điện
+ Có Internet đến thôn: Đạt
16
+ Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông: Đạt
- Tiêu chí thứ 9: Nhà ở dân cư

+ Nhà tạm, dột nát: Không
+ Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt chuẩn Bộ Xây dựng: 80%
- Tiêu chí thứ 10: Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân tỉnh: 1,4 lần
- Tiêu chí thứ 11: Hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo: < 5%
- Tiêu chí thứ 12: Cơ cấu lao động
+ Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nụng, lõm, ngư,
nghệp: 35%
- Tiêu chí thứ 13: Hình thức tổ chức sản xuất
Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả: Có
- Tiêu chí thứ 14: Giáo dục
+ Phổ cập giáo dục trung học: Đạt
+ Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông,
bổ túc học nghề): >35%
- Tiêu chí thứ 15: Y tế
+ Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế: 30%
+ Y tế xã đạt chuẩn quốc gia: Đạt
- Tiêu chí thứ 16: Văn hóa
+ Xó có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa theo
quy định của bộ VH-TT-DL: Đạt
- Tiêu chí thứ 17: Môi trường
+Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc
gia: 85%
+ Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường: Đạt
+ Khụng cú các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp: Đạt
17
+ Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch: Đạt
+ Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định: Đạt
- Tiêu chí thứ 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh

+ Cỏn bộ xã đạt chuẩn: Đạt
+ Cú đủ các tổ chức hệ thống cơ sở theo quy định: Đạt
+ Đảng bộ chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch vững mạnh”: Đạt
+ Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đạt danh hiệu tiên tiến trở lên: Đạt
- Tiêu chí thứ 19: An ninh trật tự xã hội
+ An ninh, trật tự xã hội được giữ vững: Đạt
Xã đạt chuẩn nông thôn mới là xã đạt được 19 tiêu chí cụ thể đó.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về xây dựng mô hình nông thôn mới trên
thế giới
Trong bối cảnh nền kinh tế khu vực và thế giới phát triển như vũ bão, để
nông nghiệp và nông thôn nước ta phát triển mạnh mẽ sánh bước cựng cỏc nước
trên thế giới thì việc tham khảo học tập kinh nghiệm phát triển nông nghiệp,
nông thôn của các nước trên thế giới là một yếu tố quan trọng tác động đến sự
phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
2.2.1.1 Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc
Vào những năm đầu 60 Hàn Quốc vẫn là nước chậm phát triển, nông
nghiệp là hoạt động kinh tế chính với khoảng 2/3 dân số sống ở khu vực nông
thôn, nông dân quen sống trong cảnh nghèo nàn, an phận, thiếu tinh thần trách
nhiệm. Do vậy nhiều chính sách mới về phát triển nông thôn ra đời nhằm khắc
phục tình trạng trên.
Bài học của Hàn Quốc về phát triển nông thôn đáng để nhiều nước quan
tâm và suy ngẫm. Cùng với nhiều biện pháp quan trọng khác, Hàn Quốc đã đặt
mục tiêu là làm thay đổi suy nghĩ thụ động và tư tưởng ỷ lại của phần lớn người
dân nông thôn. Từ đó sẽ làm cho nông dân có niềm tin và tích cực với sự nghiệp
18
phát triển nông thôn, làm việc chăm chỉ, độc lập và có tính cộng đồng cao.
Trọng tâm của cuộc vận động phát triển nông thôn này là phong trào xây dựng
"làng mới" (Saemoul Undong).
Tổ chức phát triển nông thôn được thành lập chặt chẽ từ trung ương đến cơ

sở. Mỗi làng bầu ra "Uỷ ban Phát triển Làng mới" gồm từ 5 đến 10 người để
vạch kế hoạch và tiến hành dự án phát triển nông thôn.
Nguyên tắc cơ bản của phong trào làng mới: Nhà nước hỗ trợ vật tư, nhân
dân đóng góp công của. Nhân dân quyết định loại công trình nào ưu tiên xây
dựng và chịu trách nhiệm quyết định toàn bộ thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm
thu công trình. Sự giúp đỡ của Nhà nước trong những năm đầu chiếm tỷ lệ cao,
dần dần các năm sau, tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa
phương và nhân dân tham gia tăng dần. Nội dung thực hiện của chương trình:
Thứ nhất là, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn. Bao gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng cho từng hộ dân như ngúi hoỏ nhà
ở, lắp điện thoại, nâng cấp hàng rào quanh nhà và kết cấu hạ tầng phục vụ sản
xuất, đời sống của nông dân.
Thứ hai là, thực hiện các dự án nhằm tăng thu nhập cho nông dân như tăng
năng suất cây trồng, xây dựng vùng chuyên canh, thúc đẩy hợp tác trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm, phát triển chăn nuôi, trồng rừng, đa canh.
Kết quả đạt được, 12 loại dự án mở rộng đường nông thôn, thay mỏi lỏ cho
nhà ở, lắp đặt cống và máy bơm, xây dựng các trạm giặt công cộng cho làng và sân
chơi cho trẻ em đã bắt đầu được tiến hành. Sau 8 năm, đến năm 1978, toàn bộ nhà
nông thụn đó được ngúi hoỏ (năm 1970 có gần 80% nhà ở nông thôn lợp lá), hệ
thống giao thông nông thôn đã được xây dựng hoàn chỉnh. Sau 20 năm, đó cú đến
84% rừng được trồng trong thời gian phát động phong trào làng mới. Sau 6 năm
thực hiện, thu nhập trung bình của nông hộ tăng lên 3 lần từ 1025 USD năm 1972
lên 2061 USD năm 1977 và thu nhập bình quân của các hộ nông thôn trở nên cao
19
tương đương thu nhập bình quân của các hộ thành phố. Đây là một điều khó có thể
thực hiện được ở bất cứ một nước nào trên thế giới.
Thông qua phong trào nông thôn mới, Hàn Quốc đã phổ cập được hạ tầng
cơ sở ở nông thôn, thu nhỏ khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, nâng cao
trình độ tổ chức của nông dân, chấn hưng tinh thần quốc dân, cuộc sống của
người nông dân cũng đạt đến mức khá giả, nông thôn đã bắt kịp tiến trình hiện

đại hóa của cả Hàn Quốc, đồng thời đưa thu nhập quốc dân Hàn Quốc đạt đến
tiêu chí của một quốc gia phát triển.
2.2.1.2 Xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc
Trung Quốc xuất phát từ một nước nông nghiệp, đại bộ phận người lao
động sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nên cải cách kinh tế ở nông thôn là
một khâu đột phá quan trọng trong cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc. Vì vậy
từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã chọn hướng phát triển nông
thôn bằng cách phát huy những công xưởng nông thôn thừa kế được của các
công xã nhân dân trước đây, thay đổi sở hữu và phương thức quản lý để phát
triển mô hình "công nghiệp hưng trấn". Các lĩnh vực như chế biến nông lâm sản,
hàng công nghiệp nhẹ, máy móc nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp… đang
ngày càng được đẩy mạnh.
Nguyên tắc của Trung Quốc là quy hoạch đi trước, định ra các biện pháp thích
hợp cho từng nơi, đột phá trọng điểm, làm mẫu đường. Chính phủ hỗ trợ, nông dân
xây dựng. Với mục tiêu "ly nông bất ly hương", Trung Quốc đã thực hiện đồng
thời 3 chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn:
- Chương trình đốm lửa: Điểm khác biệt của chương trình này là trang bị
cho hàng triệu nông dân các tư tưởng tiến bộ khoa học, bồi dưỡng nhân tài đốm
lửa, nâng cao tố chất nông dân. Sau 15 năm thực hiện, chương trình đã bồi
dưỡng được 60 triệu thanh niên nông thôn thành một đội ngũ cán bộ khoa học
cốt cán, tạo ra một động lực tiềm năng thúc đẩy nông thôn phát triển, theo kịp
với thành thị.
20
- Chương trình được mùa: Chương trình này giúp đại bộ phận nông dân áp
dụng khoa học tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại để phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Trong 15 năm sản lượng lương thực của Trung Quốc đã tăng lên 3
lần so với những năm đầu 70. Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sản xuất các
nông sản chuyên dụng, phát triển chất lượng và tăng cường chế biến nông sản
phẩm.
- Chương trình giúp đỡ vựng nghốo: Mục tiêu là nâng cao mức sống của

cỏc vựng nghốo, vựng miền núi, dân tộc ít người, mở rộng ứng dụng thành tựu
khoa học tiên tiến, phổ cập tri thức khoa học công nghệ và bồi dưỡng cán bộ
khoa học cốt cán cho nông thôn xa xôi, tăng sản lượng lương thực và thu nhập
của nông dân. Sau khi thực hiện chương trình, ở những vùng này, số dân nghốo
đó giảm từ 1,6 triệu người xuống còn 5 vạn người, diện nghèo khó giảm từ 47%
xuống còn 1,5%.
Tại hội nghị toàn thể Trung Ương lần thứ 5 khoá XVI của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, năm 2005, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra quy hoạch "Xây dựng
nông thôn mới xã hội chủ nghĩa". Đây là kế hoạch xây dựng mới được Trung
Quốc đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm lần thứ XI (2006-
2010). Mục tiêu của quy hoạch là: "Sản xuất phát triển, cuộc sống dư dật, làng
quê văn minh, thôn xã sạch sẽ, quản lý dân chủ". Xây dựng nông thôn mới ở
Trung Quốc tạo nên một hình ảnh mới đầy ấn tượng về một "nông thôn Trung
Quốc" đầy vẻ đẹp tráng lệ.
2.2.1.3 Phát triển nông thôn ở Đài Loan
Đài Loan là một nước thuần nông nghiệp. Từ năm 1949 – 1953 Đài Loan
bắt đầu thực hiện sách lược “lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp
phát triển nông nghiệp”.
Một vấn đề cải thiện kinh tế nông nghiệp đã được Chính phủ thực hiện là
"Chương trình phát triển nông thôn tăng tốc", "Tăng thu nhập của nông trại và
tăng cường chương trình tái cấu trúc nông thôn", "Chương trình cải cách ruộng
21
đất giai đoạn 2". Từ các chương trình này nhiều đầu tư đã được đưa vào cơ sở hạ
tầng nông thôn và được cụ thể hoá bằng 10 nội dụng cụ thể:
- Cải cách ruộng đất.
- Quy hoạch và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường nghiên cứu nông nghiệp và đổi mới kỹ thuật.
- Chuyển giao công nghệ mới.
- Tập huấn các nông dân hạt nhân.
- Cung cấp các đầu vào hiện đại.

- Tín dụng nông nghiệp.
- Mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp tương ứng với sự thay đổi lao
động và đầu tư.
- Dịch chuyển cơ cấu thị trường.
- Cải thiện phúc lợi xã hội cho nông dân.
=> Như vậy, kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc, Đài Loan,
Trung Quốc cho thấy: Dù đây là các quốc gia đi trước trong vấn đề hiện đại hóa
nhưng họ đều tương đối chú trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển nông
thôn, đồng thời tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú. Các cách làm này
chủ yếu bao gồm: Kịp thời điều chỉnh mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn,
quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp; Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
hiện đại; Cố gắng nâng cao thu nhập cho nông dân; Nâng cao trình độ tổ chức
cho người nông dân; Thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, bồi dưỡng nông dân theo mô
hình mới.
Đối với Đảng và nhà nước ta cũng vậy, xây dựng đất nước dựa trên phát
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nước ta đã chủ trương đẩy mạnh CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu phát triển nông thôn theo hướng
hiện đại, đảm bảo phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đi theo đường lối của
Đảng, từng địa phương trong cả nước tiến hành phát triển kinh tế mà trước hết là
22
phát triển kinh tế nông nhiệp, nông thôn, trong đó cú chỳ trong phát triển công
nghiệp nông thôn góp phần vào CNH - HĐH đất nước.
2.2.2 Xây dựng mô hình nông thôn mới ở Việt Nam
Nông thôn Việt Nam là một địa bàn chiến lược chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn coi trọng vai trò của nông thôn, mà gắn liền với nó là nông
nghiệp, nông dân. Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới ở vùng
giải phóng với 3 nội dung chủ yếu: “Thi đua tăng gia sản xuất để diệt giặc đói,
thi đua học chữ quốc ngữ để diệt giặc dốt, thi đua giúp đỡ bộ đội, xây dựng dân

quân du kích để diệt giặc ngoại xõm”.
Ngày 3 tháng 4 năm 1946, Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương
được thành lập nhằm đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng đời sống mới
trong toàn dân và toàn quốc. Đây là những tiền đề đầu tiên để tiến hành xây
dựng nông thôn mới trong suốt quá trình chiến đấu chống thực dân pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quá trình xây dựng
nông thôn mới vẫn tiếp tục được duy trì và phát huy trong thời kỳ mới và đã đạt
được những thành tựu to lớn, góp phần ổn định chớnh trị-xó hội, xóa bỏ tàn dư
của văn hóa thực dân do Mỹ - ngụy để lại, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ
vững chủ quyền và an ninh quốc gia, tạo những tiền đề cho quá trình đổi mới đất
nước.
Sau hơn 20 năm đổi mới, vấn đề xây dựng nông thôn mới đã đạt được
những bước phát triển quan trọng. Cơ sở kinh tế ở nông thôn là nông nghiệp đã
chuyển từ nền sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị
trường, định hướng XHCN. Đây là bước chuyển cơ bản làm thay đổi cấu trúc
kinh tế - văn hóa - xã hội ở nông thôn, tạo động lực xây dựng nông thôn mới.
23
Trong việc xây dựng nông thôn mới, lĩnh vực xây dựng và phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn - tiền đề để đẩy mạnh CNH - HĐH luôn được Đảng và
Nhà nước Việt Nam quan tâm. Trong những năm qua, mạng lưới điện nông thôn
phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống của người dân. Năm
1994, cả nước có 60,4% số xã , 49,6% số thôn, ấp, bản và 53,2% số hộ có điện.
Đến nay, 98,6% số xã và 93,3% số hộ có điện lưới quốc gia. (GS. TS Phùng
Hữu Phú và cộng sự, 2009).
Đường giao thông nông thôn được xây dựng và nâng cấp cả về số lượng và
chất lượng. Sự phát triển mạnh mẽ giao thông nông thôn với phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” đã góp phần đầu tư vào khu vực nông thôn, tạo
công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở
nông thôn. Đến năm 2006, cả nước đó cú 8792 xã có đường ô tô đến khu trung

tâm, chiếm 96,9% tổng số xó. Cỏc đường liờn thụn, liên xã được bê tông hóa,
nhựa hóa ở các mức độ khác nhau, chiếm 64,8% tổng số xã. (GS. TS Phùng Hữu
Phú và cộng sự, 2009).
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là cơ sở để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài. Công tác giáo dục và đào tạo ở nông thôn đã được chú trọng. Hệ thống
trường học các cấp tiếp tục được mở rộng về số lượng và cơ bản xóa trường, lớp
tạm. Năm 2006, có 88,3% số xó cú trường mẫu giáo; 99,3% số xó cú trường tiểu
học, 90,8% số xó cú trường trung học cơ sở, 10,8% số xó cú trường trung học
phổ thông. Đến nay, có 54,5% số thụn cú lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà
trẻ… (GS. TS Phùng Hữu Phú và cộng sự, 2009).
Hệ thống y tế nông thôn được quan tâm xây dựng rộng khắp và trở thành
tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu quan trọng cho nhân dân. Năm 2006, có 9013
xó cú trạm y tế, chiếm 99,3% tổng số xã. Bình quân một trạm y tế có 0,63 bác sĩ
và 10000 dõn cú một bác sĩ; 44% số trạm được xây dựng kiên cố. Đến nay có
24

×