Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

luận văn đại học sư phạm cơ sở lý luận Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.55 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn đổi mới. Bên cạnh những thành
tựu đáng kể mà ngành giáo dục đã đạt được, còn có rất nhiều những vấn đề
cần được xem xét và sửa đổi.
Thực trạng dạy và học tập môn Hoá học ở THPT đang có nhiều vấn đề bất
cập, đáng lo ngại. Phần lớn học sinh chưa có khả năng tự học, còn lười học,
mang tính chất học vẹt, học thuộc nhưng hiểu không sâu. Nguyên nhân chủ
yếu là do giáo viên phần lớn còn sử dụng lối truyền thụ một chiều, gây sự
nhàm chán với học sinh. Giờ học diễn ra bình thường, phẳng lặng. Thái độ
học sinh khi nghe giảng, một số thì ngủ gật, một số làm việc riêng trong lớp.
Giờ học chưa thực sự gây được hứng thú với học sinh. [9]
Trong vòng 10 năm gần đây, giáo dục Việt Nam đã và đang chú trọng
nhiều đến chất lượng đào tạo giáo viên và đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH). Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001-2010 đã nhấn mạnh
vấn đề cần thay đổi về chất đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học.
Điều 4 Luật giáo dục (2005) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên”. Xuất phát từ những yêu cầu trên, việc đổi
mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học nói chung và
bộ môn Hoá học nói riêng ở trường phổ thông là rất cần thiết, phù hợp với
yêu cầu dạy học hiện nay.
Đối với mỗi giáo viên, khi bắt đầu một tiết dạy mới đều phải có phần mở
đầu bài giảng. Qua thực tế tìm hiểu, trò chuyện với một số giáo viên và dự
giờ tại trường THPT đã thực tập, tôi nhận thấy rằng nhiều giáo viên vẫn chưa
chú ý nhiều đến việc phải mở đầu một tiết học như thế nào để học sinh cảm
thấy hứng thú nhất. Những công đoạn quen thuộc có thể gặp ở bất kỳ lớp học
nào đó là: kiểm tra bài cũ và “hôm trước chúng ta đã học xong bài … hôm
nay chúng ta học bài mới là…”. Học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán với việc là
1
ngày nào, tiết học nào cũng nghe “điệp khúc” đó. Từ việc nhàm chán ngay từ


đầu tiết học sẽ làm giảm không khí cũng như hứng thú học tập của học sinh.
Một giờ học hiệu quả sẽ không thể có một mở đầu kém hấp dẫn. Mở đầu
mỗi tiết học là khoảng thời gian ngắn, nhưng quyết định đến hiệu quả của cả
giờ học. Những giáo viên làm việc hiệu quả là người biết đầu tư thời gian cho
việc tổ chức và sắp xếp lớp học nhằm tạo hiệu quả cho việc học của học sinh.
Có nhiều giáo viên xem nhẹ việc mở đầu bài giảng, cho rằng khi mình giảng,
trước sau học sinh cũng phải chú ý vào bài. Nhưng sự thật không phải như
vậy, nếu giáo viên không làm cách nào đó để cuốn hút học sinh vào công việc
học tập, để học sinh chủ động và tích cực trong việc tiếp nhận kiến thức ngay
từ đầu thì coi như giờ học đó đã thất bại.
Nhận thức tầm quan trọng của mở đầu bài giảng và mối quan hệ trực tiếp
của mở đầu bài giảng với hứng thú học tập của học sinh nói chung và trong
môn Hoá học nói riêng, tôi đã chọn đề tài “Một số kỹ thuật mở đầu bài
giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT”.
Có nhiều cách mở đầu bài giảng tuỳ theo mục đích của người dạy. Trong
phạm vi khoá luận tốt nghiệp này, bước đầu đưa ra một số kỹ thuật mở đầu
bài giảng hiệu quả tạo hứng thú học tập cho học sinh trong một số tiết học cụ
thể môn Hoá học (phần hiđrocacbon không no, lớp 11). Đây là một vấn đề có
giá trị thực tiễn đối với dạy học ở Việt Nam.
2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa mở đầu bài giảng và hứng thú học tập của
học sinh THPT dựa trên quan điểm sư phạm tương tác.
- Bước đầu đưa ra một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả trong môn
Hoá học nhằm tạo hứng thú học tập môn Hoá cho học sinh THPT, đồng thời
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Hoá trong trường phổ thông.
2
3. Nhiệm vụ của đề tài.
- Tổng hợp và phân tích các tài liệu, sách báo và các báo cáo khoa học đã
công bố về các vấn đề liên quan đến sư phạm tương tác và việc gây hứng thú
học tập cho học sinh.

- Điều tra và đánh giá hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT.
- Đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học gây
hứng thú cho học sinh.
- Khảo sát tính hiệu quả của các kỹ thuật mở đầu bài giảng đã đề xuất.
- Tổng kết và xử lý các số liệu.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học môn Hoá ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Các kỹ thuật mở đầu bài giảng môn Hoá học.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do yếu tố thời gian và cơ sở vật chất nên đề tài nghiên cứu trong các phạm
vi sau:
- Các kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT.
- Các ví dụ đưa ra nằm trong phần hiđrocacbon không no (Hoá học lớp 11).
- Điều tra tại 3 lớp 11 trường THPT Chuyên Hưng Yên, Hưng Yên và 3
lớp 11 trường THPT Việt Đức, Hà Nội.
- Khảo sát kết quả tại 3 lớp 11 trường THPT Việt Đức, Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu.
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
3
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp tài liệu của sư phạm tương tác và một số
tài liệu và các bài báo có liên quan, đề xuất một số kỹ thuật mở đầu bài giảng
hiệu quả gây hứng thú học tập cho học sinh THPT.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Phương pháp quan sát.
Dự giờ một số tiết Hoá tại trường THPT Việt Đức. Bước đầu đánh giá về

hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT.
6.2.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
- Điều tra học sinh bằng mẫu phiếu điều tra với hệ thống câu hỏi có đáp án
lựa chọn và một số câu hỏi mở.
- Phỏng vấn trực tiếp một số giáo viên với mẫu câu hỏi đã chuẩn bị và
những câu hỏi mở.
6.3. Phương pháp thực nghiệm khoa học.
Triển khai một số kỹ thuật mở đầu bài giảng đã đề xuất tại 3 lớp 11 tại
trường THPT Việt Đức (một lớp so sánh), phát phiếu học tập sau giờ học
đánh giá tính thực tiễn và hiệu quả của kết quả nghiên cứu.
6.4. Phương pháp thống kê, xử lý.
Dùng phương pháp thống kê toán học xử lý các thông tin định lượng và
định tính trong phiếu điều tra.
***
4
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm sư phạm tương tác với việc tạo hứng thú học tập môn
Hoá học cho học sinh THPT.
1.1.1. Khái niệm hứng thú và hứng thú của học sinh THPT.
Theo tâm lý học:
Húng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân
trong quá trình hoạt động.
- Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi
nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.
- Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu, hứng thú là một
trong hệ thống động lực của nhân cách. [4]
Cũng theo tâm lí học lứa tuổi thì đối tượng học sinh THPT đã hình thành

những đặc điểm khác hẳn với lứa tuổi THCS. Ở đây, xin đi sâu vào đặc điểm
hoạt động học tập ở lứa tuổi này. Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi
hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều. Học sinh càng
trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em càng ý thức được
rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Do vậy thái độ có ý
thức của các em với học tập ngày càng phát triển. Thái độ học tập với từng
môn học trở nên có sự lựa chọn hơn. Càng ngày, các em càng xác định được
cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, với một lĩnh
vực tri thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan đến việc chọn nghề
nghiệp của học sinh. Hơn nữa, hứng thú nhận thức của thanh niên học sinh
mang tính chất rộng rãi và bền vững hơn thiếu niên. Thái độ học tập của học
sinh lúc này được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với tuổi
trước. Ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa
xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác…
5
Nhưng thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là một mặt các em rất
tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã
chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để đạt
điểm trung bình. Giáo viên cần làm cho các em hiểu được ý nghĩa của từng
môn học đối với thực tiễn và bản thân các em. [3]
1.1.2. Quan điểm sư phạm tương tác. [8]
Quan điểm sư phạm tương tác cơ bản dựa trên mối quan hệ tương hỗ tồn
tại giữa ba tác nhân: người học, người dạy và môi trường. Quan điểm sư
phạm tương tác tập trung trước hết vào người học và căn bản dựa trên tác
động qua lại tồn tại giữa người dạy, người học và môi trường. Nó nhằm tạo
ra ở người học sự hứng thú, tham gia và trách nhiệm. Nó gắn cho người dạy
vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt động và hợp tác. Nó gán cho môi
trường ảnh hưởng quan trọng đến các phương pháp riêng của người học và
người dạy.
Trong quá trình tiến hành bài dạy, để học sinh có được ba đòi hỏi trên thì

giáo viên trước hết phải tạo được hứng thú cho học sinh, nghĩa là tác động
vào hệ thống khứu não hay chính là trung tâm hứng thú. Trong bất cứ việc
học nào hệ thống này cũng phải được kích thích để đưa đến sự thích học. Hệ
thống khứu não (vùng limbique) tác động vào bất cứ việc học nào như kích
thích mong muốn, từ bỏ hoặc buộc phải chấp nhận kiến thức đó. Bất cứ sự
phát triển nào cũng tuân theo một nhu cầu nào đó. Học sinh sẽ cảm thấy
càng hứng thú hơn khi việc học được hấp dẫn bằng việc đáp ứng nhu cầu của
mình. Giáo viên phải đặc biệt chú ý đến hứng thú của học sinh ngay từ đầu
tiết học. Phần mở đầu bài giảng - khoảng thời gian bắt đầu một tiết học, là
thời điểm hâm nóng, thời điểm tạo tình huống, thời điểm dạo đầu lôi cuốn
việc thu lượm tri thức mới. Đó chính là khoảng thời gian góp phần quyết
định đến sự thành bại của tiết học.
Dựa trên quan điểm sư phạm tương tác, sư phạm hứng thú đã đưa ra
những lý thuyết quan trọng về việc gây hứng thú ở người học.
6
Trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên bị cám dỗ bằng ý thức muốn
nhanh chóng đưa học sinh trực tiếp vào trong quá trình học mà đã không làm
cho họ biết trước tầm quan trọng, lợi ích của công việc. Cùng lúc đó, giáo
viên có thể bỏ qua một giai đoạn quan trọng hàng đầu và chủ yếu trong vai
trò dẫn dắt hoạt động là việc gây hứng thú ở học sinh. Một cách chính xác,
giáo viên phải làm cho học sinh biết rằng sẽ khám phá ra ở đối tượng học một
nguồn thoả mãn cá nhân mà đầu tư sự cố gắng vào đó, tham gia tìm kiếm tri
thức mới và đạt mục đích cho kế hoạch học tập của họ.
Làm thế nào để tạo nên ở học sinh sự hứng thú thúc đẩy họ thực hiện việc
học? Chính giáo viên - người dẫn dắt hoạt động có trách nhiệm sử dụng một
quan điểm sư phạm được gọi là hứng thú. Quan điểm này nhằm làm cho học
sinh có ý thức rằng có một mối quan hệ đầy hứng thú giữa chính bản thân
người học và đối tượng học.
Để đạt được mục đích này, người dạy trước hết phải gắng làm cho người
học ý thức là cần học, họ phải thấy rằng mình thực sự đang thiếu tri thức mới.

Đối với người dạy, vấn đề là phải tạo ra và hiện thực hoá nhu cầu này, nó sẽ
thúc đẩy người học phải hành động để khắc phục sự thiếu hụt trở thành một
yếu tố kích thích một chuyển động thích nghi lại, bù trừ và tìm kiếm một sự
cân đối mới. Người học do vậy trở thành người mong muốn thoả mãn nhu
cầu tri thức của mình.
Giúp người đọc thật sự hiểu được yếu điểm của mình, người dạy đã thực
hiện được một giai đoạn mấu chốt. Phương pháp sư phạm hứng thú, thiết lập
một môtíp quan hệ phù hợp giữa người đọc và đối tượng học. Điều quan
trọng là nhu cầu học có thể xuất hiện đối với người học dưới hình thức một
lợi ích cá nhân, một lợi thế quan trọng. Ý thức lúc này vào cuộc và tăng
cường ở người học sự ham muốn học, bằng cách giới thiệu với người học đối
tượng học là một cái gì đó có giá trị, được đánh giá cao và có lợi, vì vậy
người học có thể khám phá trong đối tượng học một yếu tố tò mò, sinh ra sự
lôi cuốn cái chưa biết và của sự khám phá một lợi ích cho tương của mình, và
cũng còn là một cơ hội phát triển cá nhân, nó cho phép người học đạt được
7
mục đích mong muốn, vượt qua khó khăn, tự khẳng định và tuệ đánh giá
mình.
Cuối cùng, và cũng là giai đoạn kết thúc trong phương pháp sư phạm hứng
thú, người học phải có mối quan hệ tương hợp giữa chính bản thân và đối
tượng học đến mức mà nó khơi dậy ở người học một sự hứng thú thực sự, ở
thời kỳ này, người học trở thành bên nhận của đối tượng học: đó là mối liên
hệ có ý nghĩa với đối tượng học. Mối quan hệ tương hợp vì vậy đã đạt tới nấc
cuốn hút, chuyển đổi thành động cơ hành động. Sự hứng thú nội tâm mà ý
thức làm nảy sinh ra dưới sức ép của cái có ích và cái dễ chịu phân cực chú ý
của người học. Hứng thú thực sự khởi động sự năng động, thúc đẩy người
học muốn thoả mãn nhu cầu học của mình.
Hình dưới đây tái tạo lại một cách hệ thống và có bài bản, những cơ sở của
phương pháp sư phạm hứng thú: kích hoạt nhu cầu ở người học, sự thiếu hụt
so với đối tượng học, tìm kiếm một mối quan hệ tương hợp giữa người học và

đối tượng học, mối quan hệ làm nảy sinh một mối quan hệ thực sự.
Những chiến lược nào mà người dạy - người dẫn dắt hoạt động mong
muốn sử dụng, khi người dạy có tham vọng khơi dậy ở người học một sự
hứng thú đối với đối tượng học? Hiển nhiên người dạy sẽ loại bỏ ngay tức
khắc bất cứ một phương pháp cưỡng bức nào với bất cứ một biện pháp nào
dù chúng là gì. Thật vậy, sẽ là ảo tưởng để áp đặt hoặc dành sự hứng thú bằng
các phương tiện xa lạ với đối tựơng học như là các phần thưởng, sự trừng
phạt hoặc các dụng cụ học mới,: trong những trường hợp này, người học có
thể dễ dàng chạy trốn, bằng cách hoàn toàn đơn giản là giả vờ hứng thú. Nó
cũng ít đòi hỏi phải phát biểu hoặc viết lên bảng mục tiêu học trong một công
thức sáo rỗng sẽ không có hoặc có ít hiệu lực thần diệu có khả năng tạo nên
sự hứng thú nhất là ở những học sinh trình độ tiểu học hoặc trung học.
8
Những cơ sở của phương pháp sư phạm hứng thú:
Sẽ là tốt nhất nếu thực hành một chiến lược mang tính hiện sinh trong
phương pháp sư phạm tương tác. Đối với ngưòi dạy - người dẫn dắt hoạt
động, vấn đề là sắp xếp một tình huống thực sự có ý nghĩa đối người học.
Thật vậy, phải chăng là mánh khoé nếu buộc người học phải đối đầu với vấn
đề của cuộc sống hàng ngày mà họ không biết giải pháp? Vì vậy, người dạy
phải gắng giúp người học, hoá giải vấn đề nhạy cảm với những mặt có ích dễ
chịu và có lợi của giải pháp.
Tính hiệu quả của chiến lược này, phần lớn dựa trên việc hình thành vấn
đề. Trong mục đích gây nên sự tò mò thậm chí ngạc nhiên của người học,
người dạy cố gắng xác định một vấn đề cụ thể chính xác, đi từ thực tế hoặc
gắn với môi trường trước mắt. Vấn đề cũng như giải pháp phải có một mối
liên hệ chặt chẽ với đối tượng học. Chẳng hạn như trong vấn đề nghiên cứu
động cơ, rất nên gợi lại sự bay của các máy bay phản lực, sự chạy của các ô
tô trong các cuộc đua và thậm chí là sự di chuyển riêng của họ để đi đến
trường. Và trong tất cả những chuyển động này họ sẽ giải thích như thế nào?
Trách nhiệm thuộc về người học là tìm ra giải pháp. Nghệ thuật của người

dạy - người dẫn dắt hoạt động là đưa ra được vấn đề thực mà những người
dạy học muốc tìm ra giải pháp.
Nó dùng làm điểm xuất phát cho bài học, điểm quy chế cho quá trình học
và sự hồi quy sau khi đã tìm ra giải pháp.
Tình hình cần
Đối tượng học
Tình hình mong muốn
Người học
Quan hệ tương hợp
Hứng thú
9
Tóm lại quan điểm sư phạm hứng thú rất thích hợp trong quan điểm sư
phạm tương tác ở nghĩa là người dạy với tư cách là người hướng dẫn giúp
người học - người thợ của quá trình học thiết lập nên một mối quan hệ hứng
thú giữa chính bản thân mình với đối tượng học bằng cách thực hiện một nhu
cầu thực tế, sắp xếp để vấn đề trở nên có ý nghĩa cụ thể.
1.2. Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng thông thường.
Mở đầu bài giảng là công đoạn khởi đầu cho mỗi tiết học phải đảm bảo
được hai yêu cầu:
- Định hướng học tập cho học sinh (nghĩa là bài học này nhằm mục đích gì,
để trả lời câu hỏi gì, học sinh thu được gì sau tiết học này, )
- Thu hút sự chú ý của học sinh vào bài học, qua đó quản lý và kiểm soát
lớp học thông qua các hình thức triển khai dạy học.
Chúng ta biết rằng, một người giáo viên giỏi là lôi cuốn được học sinh vào
bài giảng của mình, tạo hứng thú và khiến học sinh chủ động lĩnh hội kiến
thức. Một người giáo viên giỏi là những người tạo ra môi trường lớp học thân
thiện với người học sôi động, kích thích khả năng tư duy và tạo ra được
những thách thức cho người học. Họ làm được điều đó bởi vì họ khởi đầu với
đầy đủ các bước trong quy trình quản lý lớp học.
Vai trò của giáo viên là mở ra cánh cửa học tập cho học sinh. Trong từng

tiết học cụ thể, giáo viên lại tìm cách sao cho cánh cửa được mở ra trong sự
mong chờ và đầy hứng thú của học sinh. Vẫn là cánh cửa cũ kĩ, nhưng mỗi
ngày chúng ta “sơn” cho nó một màu khác nhau, nó sẽ trở nên mới lạ và hấp
dẫn. Công việc “sơn” lại cánh cửa học tập chính là thiết kế phần mở đầu cho
mỗi bài giảng.
Chúng ta có ba cách thông thường để mở đầu bài giảng: mở đầu bài giảng
trực tiếp, mở đầu bài giảng với trò chơi hoặc mở đầu bài giảng bằng cách nêu
vấn đề - tình huống.
Và với phần mở đầu hấp dẫn, hiệu quả thì giáo viên không chỉ định hướng
học tập cho học sinh mà còn kích thích tư duy học sinh, hình thành động cơ
10
chủ động tìm tòi và lĩnh hội kiến thức, giáo viên không chỉ thu hút được sự
chú ý của học sinh mà còn tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Tuỳ thuộc vào mục tiêu tiết học, nội dung bài học và đối tượng học sinh
mà giáo viên có thể xây dựng các hình thức mở đầu bài giảng khác nhau. Một
số hình thức mở đầu bài giảng thông thường có thể triển khai như sau:
1.2.1. Mở đầu bài giảng trực tiếp.
Đây là cách mở đầu bài giảng đi thẳng vào vấn đề cần trình bày, gọi nôm
na là “đi đường thẳng”. Đây là cách phổ biến nhất với các giáo viên vì nó có
ưu điểm là nhanh chóng và trực tiếp truyền tải thông tin đến học sinh mà
không tốn nhiều thời gian và công sức. Người dạy không cần phải đầu tư,
nghiên cứu nhiều vẫn có thế giới thiệu ngay bài học và những nội dung chính
của tiết học. Cách thức triển khai hình thức này cũng rất đơn giản: giáo viên
trực tiếp đi thẳng vào vấn đề cần nói đến, giới thiệu chủ đề chính của bài học,
và tiến hành triển khai tiết học. Xem xét hai nhiệm vụ chung của phần mở
đầu bài giảng đó là định hướng học tập và thu hút sự chú ý của học sinh thì
cách mở đầu bài giảng trực tiếp đã đảm bảo hoàn thành được cả hai nhiệm
vụ. Khi giáo viên triển khai hình thức này, học sinh sẽ không phải tư duy
nhiều, mà trực tiếp tiếp cận được ngay với nội dung bài học, xác định được
ngay định hướng học tập mà không bị “lạc đường”. Cũng chính vì thế mà

cách này sẽ không tạo ra được “thách thức” với người học, mà người học sau
khi định hướng mục tiêu học tập sẽ phải tự đặt ra thách thức cho mình. Tuy
nhiên, không phải học sinh nào cũng làm được điều này.
Hiệu quả của mở đầu bài giảng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nếu
chọn cách trực tiếp thì giáo viên cần tạo hứng thú cho học sinh bằng phong
cách, ngôn ngữ, giọng nói, …qua đó mà hấp dẫn học sinh vào bài học. Vì đây
là cách phổ biến và thông dụng nên cũng rất dễ gây nhàm chán, không tạo
được hứng thú học tập, do đó, gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
1.2.2. Mở đầu bài giảng gián tiếp
1.2.2.1. Mở đầu bài giảng bằng các trò chơi.
11
Một trong những cách mở đầu bài giảng gián tiếp phổ biến là thiết kế trò
chơi. Các trò chơi được xây dựng có thể dựa trên cơ sở nội dung của bài học,
cũng có thể chỉ mang tính chất thu hút sự chú ý của học sinh. Vì là phần mở
đầu bài giảng nên thời gian cũng được giới hạn , thường là khoảng 5 phút. Do
đó, Các trò chơi tổ chức cho học sinh cũng phải hết sức đơn giản, nhanh gọn
nhưng vẫn phải hiệu quả. Có thể chia trò chơi thành hai nhóm là: nhóm trò
chơi tạo hưng phấn và nhóm trò chơi kích thích tư duy.
Với nhóm thứ nhất, chỉ mang tính chất vui vẻ, tạo sự hứng khởi cho học
sinh trước khi vào bài học. Cách này đem lại một hiệu quả rõ rệt đó là học
sinh sẽ cảm thấy thoải mái trong giờ học và thân thiện với giáo viên. Tuy
nhiên, một bất lợi khác có thể xảy ra đó là học sinh sẽ “quá” hưng phấn mà
quên mất nhiệm vụ học tập. Mặt khác, các trò chơi dạng này không liên quan
đến nội dung bài học nên không có tác dụng kích thích tư duy và không tạo ra
được thách thức với người học. Do đó mà các trò chơi kiểu này không được
sử dụng nhiều, đôi khi nó được tổ chức nhằm mục đích thu hút sự tập trung
của người học vào giáo viên và quản lý lớp học.
Nhóm trò chơi thứ hai là các trò chơi được xây dựng dựa trên nội dung bài
học. Với các trò chơi kiểu này không những hút được sự chú ý của học sinh
vào bài học mà còn kích thích tư duy học sinh, qua đó tạo hứng thú nhất định

trong tiết học và hứng thú lâu dài với môn học. Giáo viên sẽ tốn khá nhiều
thời gian và công sức để thiết kế các trò chơi như vậy, nhưng đổi lại sẽ thu lại
những kết quả bất ngờ. Khi tham gia trò chơi, học sinh sẽ tự tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh, mỗi người đều phải tư duy hết sức để dành
chiến thắng. Khi thiết kế các trò chơi như vậy, giáo viên phải chú ý đảm bảo
các yêu cầu đó là: nhanh chóng, vừa sức và gắn liền với nội dung bài học.
Khi tham gia trò chơi, học sinh được tư duy nghĩa là giáo viên qua đó đã tạo
được một “thách thức” nhất định.
Các hình thức trò chơi phổ biến đó là trò chơi ô chữ, trò chơi ghép hình,
đóng vai … với môn hoá học còn có thêm các trò chơi lắp ghép các mô hình
phân tử, …
12
1.2.2.2. Mở đầu bài giảng bằng cách nêu vấn đề - tình huống.
Đây cũng là một hình thức phổ biến, thường được giáo viên sử dụng trong
khi giảng dạy. Nêu vấn đề - tình huống là cách dễ tạo “thách thức” nhất với
người học. Giáo viên tổ chức các tình huống học tập bằng cách đặt câu hỏi và
nêu ra vấn đề cần giải quyết dựa trên cơ sở là nội dung bài học. Câu hỏi đặt ra
phải đảm bảo yêu cầu ngắn gọn, bao quát, gắn liền với nội dung bài học, kích
thích tư duy học sinh và phải là câu hỏi mở. Câu hỏi hay tình huống giáo viên
đưa ra trong phần mở đầu sẽ định hướng cho học sinh trong tiết học, và sau
khi kết thúc bài học, học sinh tự mình trả lời được câu hỏi và giải quyết được
tình huống của giáo viên đưa ra ban đầu nghĩa là đã lĩnh hội được kiến thức.
Có hai cách đặt câu hỏi – tình huống là đặt câu hỏi từ xa nghĩa là đặt câu hỏi
gián tiếp liên quan đến nội dung bài học, và đặt câu hỏi trực tiếp với nội dung
bài học. Mỗi hình thức sẽ mang lại một hiệu quả khác nhau, tuỳ thuộc vào nội
dung cụ thể của tiết học.
Nêu vấn đề tình huống là hình thức dễ triển khai, đơn giản, thuận tiện và
mang lại hiệu quả cao cho tiết học. Để tổ chức cách mở đầu bài giảng kiểu
này, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài học, trên cơ sở đó thiết kế
những câu hỏi mang tính chất gợi mở, kích thích tư duy, chuẩn bị những tình

huống học tập để học sinh tham gia vào bài học một cách tự nhiên và thoải
mái. Cách mở đầu bài giảng này có thể áp dụng hiệu quả với tất cả các môn
học và với tất cả các đối tượng học sinh.
***
Nói chung, mỗi cách mở đầu có những ưu điểm khác nhau và khả năng
phù hợp nhất định. Người giáo viên trong quá trình giảng dạy nên linh hoạt
sử dụng các hình thức này để bài học thêm sinh động. Cũng không nên
thường xuyên lặp đi lặp lại một kiểu mà nên thay đổi cho phù hợp với từng
nội dung và yêu cầu của bài học. Một mở đầu hiệu quả sẽ là tiền đề đem lại
thành công cho tiết học.
13
1.3. Những đặc điểm cơ bản của môn Hoá học và bản chất của dạy học
Hoá học ở THPT.
1.3.1. Đặc điểm môn Hoá học. [5]
Môn Hoá học là môn học trong nhóm các môn Khoa học tự nhiên.
Môn Hoá học cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học phổ thông, cơ
bản về các chất, sự biến đổi các chất, mối liên hệ qua lại giữa công nghệ hoá
học, môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng, giúp học
sinh có nhận thức khoa học về thế giới vật chất, góp phần phát triển năng lực
nhận thức và năng lực hành động, hình thành nhân cách con người lao động
mới năng động, sáng tạo.
Học sinh phổ thông khi học tập môn Hoá học sẽ được trang bị:
- Về kiến thức:
+ Kiến thức cơ sở hoá học chung.
+ Hoá học vô cơ.
+ Hoá học hữu cơ.
- Về kỹ năng:
Học sinh có được hệ thống kỹ năng hoá học phổ thông cơ bản và thói quen
làm việc khoa học:
+ Kỹ năng học tập hoá học.

+ Kỹ năng thực hành hoá học.
+ Kỹ năng vận dụng kiến thức hoá học.
- Về thái độ:
Học sinh có thái độ tích cực như:
+ Hứng thú học tập bộ môn Hoá học.
+ Phát hiện và giải quyết vấn đề một cách khách quan, trung thực trên cơ
sở phân tích khoa học.
+ Ý thức trách nhiệm với bản thân, với xã hội và cộng đồng.
+ Ý thức vận dụng những tri thức hoá học vào cuộc sống và vận động
người khác cùng thực hiện.

14
1.3.2. Quá trình dạy học Hoá học.
1.3.2.1. K
hái niệm dạy học.
Theo lý luận dạy học chung thì dạy học:
Là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học, hai hoạt
động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất.
Quá trình này là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục tổng thể, trong
đó:
- Vai trò của nhà sư phạm là định hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ
tri thức, kỹ năng và kỹ xảo đến người học một cách hợp lý, khoa học, do đó
luôn luôn có vai trò và tác dụng chủ đạo.
- Người học tiếp thu một cách có ý thức độc lập và sáng tạo hệ thống kiến
thức, kỹ năng và kỹ xảo, hình thành năng lực và thái độ đúng đắn. Người học
là chủ thể sáng tạo của việc học, của việc hình thành nhân cách bản thân. [2]
1.3.2.2.Dạy học Hoá học.
Dạy học môn Hoá cũng tuân theo nguyên tắc chung của việc dạy học. Tuy
nhiên, tri thức mà người dạy truyền đạt và người học lĩnh hội trong môn Hoá
học đó là những kiến thức về các hợp chất, cấu trúc, tính chất và sự biến đổi

qua lại của các hợp chất đó….
1.3.2.3. Dạy học phần mở đầu bài giảng môn Hoá học.
Đối với môn Hoá học, trực tiếp gắn liền với cuộc sống thực tế, những kiến
thức hoá học liên quan mật thiết với các hiện tượng tự nhiên và với nhau. Đó
là điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể triển khai các tiết học một cách hấp
dẫn và thu hút sự chú ý của học sinh. Trong đó chúng ta có thể triển khai
phần mở đầu bài giảng theo ba hướng:
- Mở đầu bài giảng trực tiếp.
- Mở đầu bài giảng gián tiếp:
+ Mở đầu bài giảng bằng cách nêu vấn đề - tình huống.
+ Mở đầu bài giảng bằng các trò chơi.
15
1.4. Mối quan hệ giữa mở đầu bài giảng và hứng thú học tập môn Hoá
học của học sinh THPT.
Bất kỳ một hoạt động nào cũng đều có mở đầu. Sự khởi đầu là một khâu
quan trọng quyết định đến diễn biến của hoạt động. Cổ xưa có câu “vạn sự
khởi đầu nan”, đối với mỗi giáo viên, sự khởi đầu cho một bài học mới là hết
sức quan trọng, đó là một nghệ thuật không chỉ đơn thuần dựa trên mục tiêu,
nội dung của bài học mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng học sinh
(năng lực, kiểu học, tâm lý, …). Nếu giáo viên có một mở đầu thành công
cho bài dạy của mình sẽ tạo được không khí học tập và niềm say mê cho học
sinh, làm chủ được lớp học và kích thích khả năng tư duy, tạo điều kiện thuận
lợi cho học sinh lĩnh hội kiến thức mà giáo viên truyền đạt.
Chúng ta biết rằng, những giáo viên hiệu quả có khả năng ảnh hưởng và
tác động tới học sinh của mình. Vai trò của giáo viên là mở ra cánh cửa học
tập cho học sinh. Một giáo viên giỏi và hiệu quả biết cách làm cho học sinh
phải học tập. Để tạo ra ảnh hưởng với học sinh, giáo viên cần có những biện
pháp hiệu quả. Học sinh sẽ chỉ học tập khi giáo viên có một ảnh hưởng đáng
kể tới các em. [7]
Để có một tiết học thành công thì đầu tiên phần mở đầu bài giảng phải tốt.

Những giáo viên hiệu quả là những người mở đầu bài giảng tốt. Mở đầu bài
giảng bao gồm hai nhiệm vụ là định hướng học tập cho học sinh, thu hút sự
chú ý qua đó quản lý lớp học. Như vậy, nếu như không hoàn thành được hai
nhiệm vụ này, tiết học sẽ không thể hiệu quả. Không những thế, mở đầu bài
giảng còn là khoảng thời gian để giáo viên “tạo ấn tượng” với học sinh về
bài học ngày hôm đó. Nếu không có gì hấp dẫn, các em sẽ không dành sự chú
ý tới bài học cũng như tới giáo viên, và như thế kéo theo đó là không có hứng
thú học tập, và trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả học tập.
Hứng thú học tập của học sinh trong mỗi tiết học trực tiếp được hình thành
từ khâu mở đầu bài giảng của giáo viên. Để tạo được hứng thú cho học sinh,
trước hết phần mở đầu phải hấp dẫn và có khả năng kích thích tư duy học
sinh. Những học sinh hay quậy phá trong lớp không hẳn là những học sinh
16
hư, cũng có thể do bài giảng không thu hút được sự chú ý của các em nên sự
chú ý đã sang một hướng khác. Nghệ thuật mở đầu bài giảng ở chỗ đó là giáo
viên tạo ra hứng thú và ý thức “muốn học” một cách tự nhiên cho học sinh,
học sinh hào hứng tham gia bài học mà không có cảm giác bị ép buộc hay bị
ràng buộc bởi một hình thức kỷ luật hay hình phạt nào đó.
Thực chất, mở đầu bài giảng chỉ chiếm khoảng thời gian rất ngắn trong
một tiết học, nhưng chính khoảng thời gian ngắn ngủi đó góp phần quyết
định tới sự thành bại của tiết học. Đó là vì người học là nhân tố quyết định
đến tiết học, do đó, nếu người dạy không tạo được ảnh hưởng nhất định tới
người học thì sẽ không nhận được sự hợp tác tuyệt đối từ phía học sinh. Đối
tượng học sinh nào cũng không bao giờ muốn bị ép buộc học tập, hay bị
ràng buộc bởi những hình thức kỷ luật khắt khe, tất cả phải được hình thành
một cách tự nhiên và thoải mái. Dù là với hình thức mở đầu bài giảng như
thế nào, khi đã tạo được hứng thú học tập cho học sinh nghĩa là giáo viên đã
thành công một nửa tiết học.
Với môn Hoá học, có nội dung kiến thức gắn liền với thực tiễn. Đó là điều
kiện thuận lợi để giáo viên có thể triển khai các tiết học một cách hấp dẫn và

thu hút sự chú ý của học sinh. Để tạo hứng thú cho học sinh trong môn Hoá
học, người dạy cần đi sâu khai thác những đặc điểm thú vị của môn học này,
mỗi nội dung học trong từng bài cụ thể sẽ có một đặc điểm riêng thú vị và
hấp dẫn. Trong những bài học lý thuyết, đó là sự mới lạ của kiến thức mới,
đó là những ví dụ sinh động gắn liền với thực tiễn và cuộc sống hàng ngày,
đó là mối liên hệ mật thiết của các hợp chất hoá học hay tính hai chiều giữa
cấu tạo hoá học và tính chất hoá học, … Trong các bài luyện tập, giáo viên
có thể triển khai các trò chơi vui, bổ ích để học sinh ôn luyện kiến thức đã
học, hoặc nhìn nhận lại kiến thức đã học theo một hướng khác để tìm ra điểm thú
vị, … Trong các bài thực hành, hứng thú lại là sự khám phá những hiện tượng
thú vị, những sự biến đổi về màu sắc, về trạng thái, …
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung tiết học cũng như đặc điểm học sinh mà giáo
viên có thể lựa chọn hình thức triển khai mở đầu bài giảng sao cho thích hợp
17
và đạt hiệu quả cao nhất. Môn Hoá học không phải là một môn học khô khan
hay trừu tượng mà kiến thức rất sinh động, phong phú và có tính thực tiễn
cao. Học sinh sẽ tìm thấy ở môn Hoá học những điều bổ ích, lý thú và có ích
cho cuộc sống. Nhiệm vụ của người giáo viên là tạo hứng thú cho học sinh
bằng những kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả và phù hợp, kích thích tư
duy và đưa học sinh tham gia vào bài học và có trách nhiệm với hoạt động
học của mình thông qua những hình thức triển khai dạy học.
18

×