Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu Luận: Cho Vay Kích Cầu Đối Với Các Doanh Nghiệp Của Các Ngân Hàng Thương Mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.93 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA NGÂN HÀNG
  




MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI





Tiểu luận:


CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI





GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH:
Lớp: Ngân hàng 4 ngày 1 – K17







TP.HCM, tháng 01/2009

CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Phần 1: Lý thuyết chung về cho vay đối với doanh nghiệp
1. Các khái niệm
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng và Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 03/02/2005 về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban
hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, giải thích:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng nhận vốn vay
cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Dựa vào thời hạn, có thể chia cho vay doanh
nghiệp thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó:
Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng.
Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên.
2. Nguyên tắc vay vốn
Việc vay vốn ngắn hạn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để ngân
hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp tín dụng liên

quan đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định. Nói chung, khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo hai
nguyên tắc:
2.1 Sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên , ngân hàng và khách hàng thoả
thuận và ghi vào trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thoả
thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do
vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách
hàng, đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã
cam kết hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng mục đích hay
không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nộ vay sau này. Việc khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất thoát và lãng phí khiến vốn vay
không tạo ra được ngân lưu để trả nợ cho ngân hàng.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho
ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ
vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
2.2 Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng
sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy
động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách
hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng
gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời
quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả, cả
gốc và lãi.
3. Điều kiện vay
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải bảo đảm các
nguyên tắc như vừa nêu trên nhưng thực tế không phải khách hàng nào cũng có thể tuân

thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc đảm bảo các nguyên tắc vay vốn,
ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi khách hàng thoả mãn một số điều kiện vay nhất định.
Theo quy chế cho vay do Ngân hàng Nhà nước ban hành, các điều kiện vay vốn khách
hàng cần có bao gồm:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật;
Có mục đích vay vốn hợp pháp;
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, các điều kiện vay vốn trên đây chỉ là hướng dẫn chung cần thiết cho các
Ngân hàng thương mại. Khi cụ thể hoá các điều kiện cho vay này, các Ngân hàng thương
mại có thể cụ thể hoá và đặt ra các điều kiện riêng cho phù hợp với tình hình cụ thể của
ngân hàng.
4. Mục đích vay vốn
Theo quy chế cho vay khách hàng, các Ngân hàng thương mại khi cho vay yêu cầu
khách hàng phải có mục đích vay vốn hợp pháp và cam kết sử dụng vốn vay đúng mục
đích đã thoả thuận. Cụ thể khách hàng doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng có thể sử
dụng vốn vay vào những mục đích gì, hay thế nào là có mục đích vay vốn hợp pháp. Đó
là những nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống mà
pháp luật không cấm.
5. Hồ sơ vay vốn
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng một bộ hồ sơ vay
vốn bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay
vốn. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của
các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách
hàng cần gửi cho tổ chức tín dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng,
loại cho vay và khoản vay. Thông thường bộ hồ sơ vay vốn gồm có:
Giấy đề nghị vay vốn.

Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như giấy phép
thành lập doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm Giám đốc, điều lệ hoạt động.
Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.
Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
Trên đây là hướng dẫn chung về các tài liệu khách hàng phải xuất trình trong hồ sơ
vay vốn. Khi cụ thể hoá hồ sơ vay vốn, các Ngân hàng thương mại có thể yêu cầu khách
hàng nộp cho ngân hàng những tài liệu cần thiết phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng
ngân hàng.
6. Thẩm định và quyết định cho vay
Để có căn cứ ra quyết định cho vay hay không cho vay, các tổ chức tín dụng đều
có xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân
định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho
vay. Khi thẩm định, tổ chức tín dụng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án
đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ
đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay. Tổ chức tín
dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho
vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và
thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, tổ chức tín
dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho
vay. Trường hợp quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng
tín dụng và thực hiện các khâu tiếp theo của quy trình tín dụng.
Thẩm định và quyết định cho vay là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy trình tín
dụng.
7. Hợp đồng tín dụng
Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp
đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng
vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm,
giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả

thuận. Ngoài ra hợp đồng tín dụng cũng cần nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên: khách
hàng và ngân hàng một cách chi tiết, cụ thể.
8. Giới hạn và hạn chế cho vay
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại bị giới hạn cho vay và có một số
hạn chế như không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi
về lãi suất, về mức cho vay. Những điều này được quy định trong Luật các tổ chức tín
dụng nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng thương mại.
9. Những trường hợp không cho vay
Tương tự như những giới hạn và hạn chế cho vay, Ngân hàng thương mại trong
hoạt động tín dụng không được cho vay trong những trường hợp được quy định trong
Luật các tổ chức tín dụng.
10. Các phương thức cho vay
Phương thức cho vay là cách thức thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng của ngân
hàng. Hiện nay trong cho vay đối với doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại có thể
thoả thuận với khách hàng về sử dụng loại phương thức cho vay. Tuỳ theo đặc điểm chu
chuyển vốn của khách hàng, ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận lựa chọn phương
thức cho vay thích hợp. Đa số các Ngân hàng thương mại đều có đưa ra các phương thức
cho vay của mình cho khách hàng tham khảo. Ngoài các phương thức cho vay phổ biến
như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo dự án đầu tư, còn
có nhiều phương thức cho vay khác dành cho những hoàn cảnh vay vốn khác nhau được
thực hiện ở những ngân hàng khác nhau.





Phần 2: Thực trạng cho vay kích cầu đối với doanh nghiệp
của các Ngân hàng thương mại trong năm 2008

Hiện nay khó khăn về vốn tín dụng, tức là vốn vay cho sản xuất kinh doanh đang là

mối lo lớn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khả năng tiếp
cận vốn vay ngân hàng kém hơn. Thiếu vốn, doanh nghiệp trước nguy cơ phá sản, không
có vốn tiếp tục cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, thì hàng loạt hợp
đồng thi công, hợp đồng cung ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, không thực hiện
được. Tiếp theo đó là người lao động không có việc làm, máy móc thiết bị phải bỏ không,
gây lãng phí và thiệt hại lớn cho bản thân doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Thậm
chí có thể doanh nghiệp rơi vào nguy cơ bị phá sản.
Thực ra tình trạng khó khăn về vốn tín dụng của doanh nghiệp bắt đầu
từ giữa quý I/2008, khi chính sách tiền tệ bị thắt chặt. Song trong các tháng qua,
không ít doanh nghiệp vẫn có thể vay được vốn của một số Ngân hàng thương
mại, hoặc "giật gấu vá vai” chạy vạy chỗ này chỗ khác, chiếm dụng vốn của đối
tác, chây ỳ công nợ đối với bạn hàng, nhưng tình trạng đó không thể kéo dài
mãi được. Bên cạnh đó chuẩn bị bước vào quý IV, giai đoạn khẩn trương hoàn
thành các hợp đồng kinh tế đã ký kết trước khi kết thúc năm 2008; chuẩn bị hàng
hoá tiêu thụ cuối năm và giao hàng, xuất khẩu hàng cho đối tác của năm mới,
tiêu thụ lúa hàng hoá và thu mua cá tra, cá ba sa, cho chế biến xuất khẩu ở các
tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nên tình hình vốn của doanh nghiệp lại
càng có tính cấp bách và trở thành chủ đề nóng hổi.
Vậy đâu là nguyên nhân của tình hình trên. Có thể khái quát một số lý do
chính sau đây:
Các Ngân hàng thương mại thực hiện hạn mức tín dụng theo yêu cầu kiềm
chế lạm phát và an toàn hoạt động. Năm 2008, hạn mức tín dụng được đưa ra là
tăng trưởng dư nợ cho vay không quá 30% so với cuối năm 2007, chỉ bằng gần
1/2 so với mức tăng khoảng 55% của năm 2007. Song đến nay mức tăng trưởng
tín dụng của các khối Ngân hàng thương mại có khác nhau. Nhiều Ngân hàng
thương mại tăng trưởng tín dụng cao trong 2 tháng đầu năm 2008 đến nay phải
“hãm phanh lại”, hầu như rất ít cho vay mới. Một số Ngân hàng thương mại chỉ
cho vay khách hàng truyền thống, quan hệ có uy tín, kinh doanh có hiệu quả. Do
đó nhiều doanh nghiệp khác không vay được. Một số Ngân hàng thương mại,
chủ yếu là Ngân hàng thương mại cổ phần, đến nay đã đạt được mức tăng

trưởng 30% rồi, nên họ cũng hầu như không cho vay mới, mà chỉ thu nợ được số
vốn vay cũ thì mới cho vay ra, nhưng cho vay ra cũng chọn lọc chứ không phải
doanh nghiệp nào cũng có thể vay được. Một số Ngân hàng thương mại khác,
nhất là Ngân hàng thương mại có quy mô lớn, mặc dù chưa đạt mức tăng dư nợ
30%, nhưng lo ngại rủi ro, nên tốt nhất để bảo đảm an toàn trong bối cảnh hiện
nay họ cũng không mặn mà gì cho vay ra. Các Ngân hàng thương mại này hầu
như chỉ giải quyết vốn cho các dự án lớn về điện, xi măng, của các khách hàng
lớn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng ký từ đầu năm hay ký trước đây, một số
dự án sản xuất hàng xuất khẩu, còn lĩnh vực khác thì rất hạn chế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công bố chương trình dành 33.000 tỷ
đồng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn 2008-2010, nhưng kế hoạch của
năm 2008 chỉ có 3.000 tỷ đồng, chỉ bằng 2-3% tổng dư nợ của ngân hàng này; đồng thời
có giải ngân cho vay đủ số vốn đó hay không lại là cả một câu chuyện về hoạt động tín
dụng hiện nay, bởi nếu không thì mới chỉ dừng ở việc công bố mà thôi.
Lãi suất cho vay mặc dù đã được số đông các Ngân hàng thương mại điều chỉnh
giảm, nhưng mức giảm không nhiều, chỉ khoảng 0,5%-1%/năm, nên vẫn đang ở mức rất
cao, gấp 1,5 lần lãi suất cho vay thời điểm đầu năm hay cùng kỳ này năm trước. Với mức
lãi suất cho vay nội tệ vẫn lên tới 1,6%-1,65%/tháng, hay 19,5%-20,5%/năm, các Ngân
hàng thương mại lo doanh nghiệp làm thế nào cho có lãi mà trả nợ gốc và lãi cho
Ngân hàng thương mại được, nên mặc dù hạn mức tín dụng vẫn còn nhưng Ngân
hàng thương mại rất dè dặt cho vay. Không ít Ngân hàng thương mại đánh giá, với
lãi suất cao như vậy, một số doanh nghiệp “vẫn liều” vay, phải chăng là họ đành chấp
nhận lỗ giai đoạn hiện nay để cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh vượt qua lúc khó khăn.
Nếu không vay vốn, hợp đồng dở dang không thanh toán được. Máy móc thiết bị và nhà
xưởng bỏ không, vừa lo khấu hao, vừa hao mòn vô hình, vừa tốn chi phí trông coi và bảo
dưỡng. Công nhân không việc làm vừa phải trợ cấp 70% lương cho họ, hoặc không họ bỏ
đi làm nơi khác, sau này rất khó thu hút trở lại. Không còn con đường nào khác đành chấp
nhận phải vay, mà may còn có thể vay được của Ngân hàng thương mại chứ không
phải đi vay tư nhân với lãi suất không biết bao nhiêu.
Lãi suất vốn vay cao, nhiều doanh nghiệp cũng không dám vay, vì không lấy đâu

ra lãi, ra lợi nhuận để trả lãi ngân hàng. Chẳng hạn như một doanh nghiệp nhỏ và vừa vay
10 tỷ đồng, mỗi tháng tiền lãi đã lên tới 160-165 triệu đồng, đủ để trả lương cho tới 100
công nhân. Thử hỏi hiếm có lĩnh vực kinh doanh nào chịu đựng nổi lãi suất đó. Thực tế
nguồn vốn cho vay thu mua lúa gạo xuất khẩu, thu mua cá tra, cá ba sa cho chế biến xuất
khẩu, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua là ví dụ điển hình cho tình hình
trên.
Ngân hàng thừa vốn, doanh nghiệp chần chừ chưa vay vì hy vọng lãi suất sẽ hạ
tiếp và cũng vì đầu ra sản phẩm được tiêu thụ trong tình cảnh chậm chạp và thưa thớt
khách mua hàng. Người tiêu dùng thì trước dồn dập thông tin của lạm phát, rồi nguy cơ
đối mặt giảm phát cùng với tỷ lệ thất nghiệp đang tăng cao, đã tạo một tâm lý thắt chặt
hầu bao chi tiêu hơn, cắt giảm tất cả các khoản mua sắm không thực sự cần thiết.
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước, trong 6 tháng đầu năm,
Ngân hàng Nhà nước đã có những phản ứng chính sách kịp thời, sử dụng đồng bộ và
quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và
ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền
từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế và thị trường, điều
hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tăng
cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức
tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các
tổ chức tín dụng.
Các biện pháp về điều hành chính sách tiền tệ trong 6 tháng đầu năm đã đạt được
những kết quả tích cực, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát.
Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát của nước ta từ
tháng 7/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ
bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động ngăn
ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Cụ thể: Kịp thời điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, nâng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc để tạo điều kiện cho các tổ chức
tín dụng giảm lãi suất cho vay, giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng với
mức lãi suất có thể duy trì và mở rộng sản xuất; nới rộng biên độ tỷ giá mua, bán đồng Đô
la Mỹ của các tổ chức tín dụng lên +3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng; đồng

thời, điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng theo hướng tăng dần phù hợp với cung
cầu ngoại tệ trên thị trường và mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Thực tế, sau
những động thái chính sách của Ngân hàng Nhà nước, các đã hạ thấp lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay ngắn hạn nền kinh tế của các Ngân hàng thương mại trong tháng
12/2008 phổ biến ở mức 12-13%/năm. Đối với một số dự án, lĩnh vực sản xuất ưu tiên
như đối tượng xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nông dân, một số Ngân hàng
thương mại chỉ cho vay ở mức 10-11%/năm.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại điều
chỉnh kế hoạch kinh doanh, cơ cấu tín dụng phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nước, của ngành đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín
dụng; ưu tiên vốn cho các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu,
nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án đầu tư có hiệu quả….Đảm
bảo đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng hợp lý, ngăn chặn
suy giảm kinh tế. So với cuối năm 2007, vốn tín dụng đầu tư cho khu vực dân doanh tăng
37%, khu vực Doanh nghiệp Nhà nước tăng 12%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 37%, khu vực
sản xuất tăng 34%, khu vực nông nghiệp, nông thôn tăng 30%, cho vay hộ nghèo đối
tượng chính sách khác tăng 40%. Dư nợ xấu toàn hệ thống chỉ chiếm 3,5% tổng dư nợ tín
dụng.
Những tháng cuối năm 2008
,
lãi suất cho vay của các ngân hàng tiếp tục giảm:
Ngân hàng thương mại nhà nước cho vay ở mức 17-18,5%/năm, các Ngân hàng thương
mại cổ phần ở mức 17-19,5%/năm. Tuy nhiên ở mức lãi suất này, nhiều doanh nghiệp vẫn
ngại vay vốn. Và theo dự báo, khách tìm vay cũng sẽ không tăng mà tiếp tục tình trạng
thăm dò chờ giảm tiếp. Cộng với tâm lý chờ đợi gói kích cầu 6 tỷ USD sẽ được Chính
phủ “giải cứu” ra sao cho thị trường sản xuất và tiêu dùng.
Với sự trở lại ổn định vốn của ngân hàng, cộng với chính sách nới lỏng tín dụng,
bù lãi suất và lãi suất giảm đưa hoạt động của các ngân hàng đang trở lại trạng thái bình
thường, thậm chí ngân hàng thừa vốn nhưng doanh nghiệp cũng không vay. Phải thừa
nhận một thực tế hiện nay nếu đầu tư vào sản xuất mà không có đầu ra thì sẽ tạo ra tình

trạng không thu nhập và mất việc làm hàng loạt. Khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế
thế giới đang suy thoái đã khiến cho sức mua giảm, khả năng tiêu thụ trong nước đang
suy yếu, hàng sản xuất ra tồn đọng. Xu hướng giá thế giới đang giảm, do đó, giá thành
trong nước cũng buộc phải giảm theo. Vì lẽ đó, với các doanh nghiệp hiện nay, mối quan
tâm hàng đầu không phải tập trung giải quyết vốn nữa mà quan trọng hơn lại là giảm giá
thành sản phẩm, nâng cao được năng lực cạnh tranh hàng hoá. Đầu ra khó khăn như vậy,
để có thể cạnh tranh chỉ còn cách giảm giá thành và nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh… Nhưng thực tế thì sao, doanh nghiệp không bán được hàng nhưng cũng không
chịu hy sinh lợi nhuận để giải phóng hàng; không dám “cắt lỗ” để quay vòng sản xuất
nhanh hơn.
Có thể khẳng định, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong năm
2008, ngành Ngân hàng đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hoạt động của hệ thống Ngân
hàng đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng
kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn; lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý; khả
năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo; tín dụng tăng trưởng ở mức
phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ
chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát triển. Đến cuối năm 2008, vốn chủ sở
hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007, tỷ lệ an toàn vốn tăng
từ 8,9% lên 9,7%. Các tổ chức tín dụng tiếp tục chú trọng phát triển nhiều công nghệ,
dịch vụ, tiện ích ngân hàng hiện đại; mạng lưới hoạt động tiếp tục được củng cố và mở
rộng hiệu quả, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận với dịch
vụ ngân hàng.
Phần 3: Những giải pháp để thực hiện cho vay kích cầu
đối với doanh nghiệp của các Ngân hàng thương mại

Thắt chặt, nhưng cần đủ vốn để sản xuất kinh doanh. Lạm phát ở nước ta vẫn còn
cao. Chủ trương của Chính phủ tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát
nhưng Chính phủ cũng chỉ đạo là cần phải linh hoạt, đảm bảo vốn cho sản xuất kinh
doanh, nhất là lĩnh vực xuất khẩu. Thực tế cho thấy, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển hiệu quả có tác dụng thiết thực góp phần kiềm chế lạm phát. Thúc đẩy tăng nguồn

hàng xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần giảm nhập siêu cũng là góp phần
chống lạm phát một cách bền vững. Thiếu vốn, lãi suất vốn vay quá cao, sản xuất kinh
doanh bị đình trệ sau này khôi phục lại cần thời gian rất lâu và cũng rất “tốn kém". Tại
Việt Nam giải quyết vốn cho doanh nghiệp cần được linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thực tế trên cơ sở dự báo những tình huống có thể xảy ra. Chính vì vậy cần có các giải
pháp mang tính khả thi và hiệu quả như:

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các thể chế về tiền tệ, hoạt động ngân
hàng; kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung những qui định chưa đồng bộ
giữa các bộ luật để tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống ngân hàng phát triển ổn định,
bền vững; Chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng
lực hoạt động và khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng,
phát triển thanh toán không dùng tiền mặt để tận dụng tối đa nguồn vốn nhàn rỗi của xã
hội cho đầu tư, mở rộng sản xuất.
Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả
năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong
tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ
bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho
vay theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH12 của Quốc hội.
Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh
linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đầu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng
không để thâm hụt.
Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các Ngân hàng thương mại xem xét điều chỉnh áp
dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện
hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ khó khăn.
Các Ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các
giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ

nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn
vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm.
Sự hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, sự phụ thuộc của
nền kinh tế trong nước vào quốc tế đang quá lớn mà thế giới luôn biến đổi nên doanh
nghiệp phải chủ động đặt ra các phương án khác nhau để có những điều chỉnh kịp thời
.
Phải xem xét cẩn thận doanh nghiệp có thực sự có lợi thế về thị trường không để
có những chuyển đổi kịp thời. Khi xác định đúng khả năng của doanh nghiệp, cần xác
định tăng năng suất, nguồn lực, đổi mới… Đối với những doanh nghiệp không đủ khả
năng tồn tại nên tự tuyên bố phá sản để tạo ra một cơ hội cho những doanh nghiệp khác
phát triển.
Với việc vay vốn, cần xác định tỷ lệ vay hợp lý, trong khi đó tiếp tục nghiên cứu
các nguồn vốn mới. Nếu có thể thì nên thiết lập một số hạn mức tín dụng với ngân hàng
để đảm bảo dòng tiền lúc cần. Cùng với việc củng cố vị trí tiền mặt, doanh nghiệp còn cần
phải tăng cường hiệu quả hoạt động, trong đó chủ động triển khai một loạt hoạt động:
giảm chi phí hoạt động hàng ngày, chi phí nhân sự, chi phí marketing và các chi phí vật tư
đầu vào đồng thời xem xét lại danh mục các yếu tố đầu vào, tìm các đầu vào với chi phí
thấp; xem xét việc giảm đầu tư các dự án và đầu tư vào lĩnh vực ngoài ngành.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những giải pháp để đảm bảo cho mục tiêu tồn tại trước
mắt, về lâu dài, để phát triển, cần có kế hoạch khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi
bằng việc đầu tư vào nghiên cứu phát triển (R&D), công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng và
nhân sự chất lượng cao. Tìm kiếm thị trường mới để bù đắp lại lượng hụt của các thị
trường truyền thống cũng được xem là giải pháp đầu tiên cho tất cả các doanh nghiệp
cộng với việc liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành nhằm tận dụng các lợi thế
của nhau cũng là cách để tiết giảm chi phí tốt nhất trong khi khó khăn, trong đó điều quan
trọng để giải quyết vấn đề liên kết này chính là sự đồng thuận tuyệt đối giữa lãnh đạo các
doanh nghiệp đảm bảo thực hiện mọi cam kết của chuỗi liên kết.

Đồng thời, Chính phủ cần có nhiều giải pháp nhằm kích cầu nền kinh tế và trong
gói 1 tỷ USD được Chính phủ dùng làm kích cầu nên tập trung vào hỗ trợ bù phần lãi suất
cho các ngân hàng cho vay tín dụng, hỗ trợ cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên
cạnh đó, thực hiện gói giải pháp kích cầu đồng bộ thì không chỉ có 1 tỷ USD tiền thật
được dành cho kích cầu mà các chính sách cũng là tiền. Ngay về chính sách giãn thuế,
giảm thuế thì so với những năm trước đó Chính phủ đã không thu về khoảng 15 nghìn tỷ
đồng, cùng với các khoản chi không hết và thực hiện được của những năm khác còn lại
cùng với việc sẽ tổ chức huy động mới thì gói kích cầu này cộng lại sẽ phải trên 100
nghìn tỷ đồng.
Mục tiêu kích cầu là chống suy thoái, duy trì tăng trưởng và tạo việc làm. Mặt
khác, cần lưu ý đến kinh nghiệm, cả của thế giới và của chính Việt Nam kích cầu không
dễ thành công. Thậm chí, trong nhiều trường hợp càng bơm nhiều tiền kích cầu càng bị
thiệt hại. Mấu chốt vấn đề là phải tính toán thật kỹ kích vào đâu, cho ai, theo cơ chế nào?
Nên chăng, các dự án được ưu tiên hưởng phần kích cầu của Chính phủ phải bảo đảm ba
điều kiện:
Một là, giúp tháo gỡ nhanh các nút thắt tăng trưởng gây ách tắc lâu nay - ví dụ như
cảng biển, cầu đường, năng lượng , giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp thông
thoáng, tăng tốc vận hành, tiết kiệm chi phí. Với những dự án “trọng điểm” bị “ách tắc”,
cần kích cầu để hoàn thành sớm. Kích cầu quan trọng là đầu tư vào các công trình cơ sở
hạ tầng để tạo ra việc làm (cầu về sắt thép, ximăng, dịch vụ thiết kế, giám sát, thi công…
cuối cùng cũng sẽ dẫn đến cầu về việc làm), khuyến khích người dân tiêu dùng để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh. Người dân sẽ tiếp tục mua sắm nếu họ yên tâm về tương lai và
nếu họ có thêm nguồn tài chính.
Hai là, kích cầu phải có sức lan toả mạnh. Định hướng ưu tiên là những dự án thu
hút nhiều đầu vào, tạo nhiều việc làm. Thông thường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp
ứng tốt yêu cầu này. Việc kích vào nhóm doanh nghiệp này không phải là “làm từ thiện”
cho những doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hơn. Điều quan trọng là nó nhằm đúng
mục tiêu đại cục của công cuộc kích cầu.
Một vấn đề cần lưu ý là việc kích cầu phải được tiến hành một cách khẩn trương và
thận trọng. Các dự án được kích cầu là tất cả các dự án có “đầu ra” chứ không phải những

dự án chứng minh được có đủ điều kiện “đầu vào”. Đầu ra càng hiện thực bao nhiêu thì
càng tốt bấy nhiêu. Mặt hàng nào cung - cầu vênh thì đưa vốn vào. Bên cạnh đó, các dự
án thuộc lĩnh vực cũng tạo sức mua nhưng sản phẩm rất cơ bản và lâu dài, đó là những
công trình, dự án phát huy tác dụng, hiệu quả trong tương lai xa hơn, tạo ra cơ cấu kinh tế
tốt hơn, làm nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững.
Ba là, gỡ khó cho xuất khẩu. Ở nước ta, hoạt động xuất khẩu gắn nhiều với nông
dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ).
Kích vào đây một mặt để giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền kinh tế, giảm nguy
cơ thâm hụt thương mại đang có khả năng tăng lên; mặt khác, giúp đông đảo người lao
động thuộc nhóm thu nhập thấp, dễ bị tổn thương - và thực tế họ đang bị tổn thương nặng
nề sau cơn lạm phát kéo dài và tác động suy thoái của kinh tế thế giới - duy trì việc làm,
thu nhập và đời sống, đồng thời, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Ba căn cứ trên cho thấy điều quan trọng ở đây là không định hướng kích cầu theo
kiểu phân biệt đối xử - chỉ ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước hay cho những doanh
nghiệp “chạy” giỏi. Nó đòi hỏi phải tính toán cẩn thận, trên lợi ích đại cục để phân bổ vốn
kích cầu đúng những địa chỉ cần ưu tiên. Phải tuyệt đối tránh kích cầu thông qua cơ chế
xin - cho, tránh mang tính vừa chia bình quân hiệu quả không lớn, để lại hậu quả cơ chế
nặng nề.
Để kích cầu chúng ta cần có nguồn vốn. Tất cả các nguồn vốn từ ngân sách, trái
phiếu, tín dụng, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đều cần phải khai thác. Đương nhiên, bên cạnh nguồn vốn trong
nước, chúng ta cũng cần tính đến việc vay thêm vốn từ bên ngoài. Gói kích cầu tổng thể
của Chính phủ gồm nhiều nguồn giải ngân. Nguồn thứ nhất, phát hành trái phiếu Chính
phủ để tiếp tục vay tiền đầu tư vào những công trình mục tiêu như trường học, bệnh viện,
cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi. Tiếp nữa là đầu tư cho các công trình nhà ở xã hội.
Nguồn thứ hai, dùng để kích cầu là sẽ miễn giảm, hoãn, chậm việc thu thuế để doanh
nghiệp có nguồn đầu tư. Nguồn thứ ba, Chính phủ sẽ sử dụng Quỹ dự trữ Nhà nước của
Chính phủ để đầu tư cho một số mục tiêu, chủ yếu là để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tiêu
thụ sản phẩm để thúc đẩy tiêu dùng.
Bên cạnh đó, về chủ trương giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong

quý 4/2008 và năm 2009, cũng cần có những tính toán cụ thể. Năm 2009, nguồn thu ngân
sách được dự báo là sẽ ít thuận lợi hơn nhiều so với năm 2008. Vì thế, càng phải cân nhắc
khi giảm, giãn thuế - giảm loại nào, bao nhiêu, cho ai, bao lâu? Giảm, giãn thuế không
đúng đối tượng cần “kích” thì có khi ngân sách nhà nước thất thu mà mục tiêu kích cầu lại
không đạt được. Hoặc giảm không đủ “độ” thì sức kích sẽ yếu. Nếu thuế giảm không đủ
“độ” thì hành vi giảm thuế chỉ có ý nghĩa mang “quà” Chính phủ “tặng” doanh nghiệp mà
không thể chuyển thành quá trình giảm giá thực tế trên thị trường để đông đảo người dân
cũng được hưởng lợi khi mua hàng. Làm sao việc giảm thuế phải nhằm vào đúng chỗ và
đủ “độ” để tạo ra sự lan tỏa công bằng trong phân phối lợi ích. Khi đó, hiệu quả kích cầu
sẽ tăng. Còn nếu không, việc giảm, giãn thuế dễ trở thành chủ trương chủ yếu phục vụ
cho lợi ích nhóm.
Song song với việc tiếp vốn đó là giải pháp mang tính chất hành chính. Giải pháp
này mang lại hiệu quả quá lớn mà không tốn tiền. Chúng ta đã có kinh nghiệm để rút ngắn
thời gian thực hiện thủ tục hành chính ở một số khâu có thể, cho phép làm song song
nhiều thủ tục trong một dự án. Để làm việc này phải tổ chức những nhóm công tác, có đủ
thẩm quyền quyết định tại chỗ đối với những vướng mắc do các thủ tục hành chính đang
quá rườm rà, hoặc vừa rườm rà nhưng thiếu cụ thể gây ra.


×