SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TRONG ĐOẠN TRAO DUYÊN
TRÍCH TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU NGỮ VĂN 10 TẬP II"
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Ngơn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác
phẩm. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu sáng tạo và là con đường để đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn, cịn những người nghiên cứu đi bóc tách các lớp vỏ ngôn ngữ để thấy
được giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Đối với một tác phẩm văn học, lời thoại
nhân vật là một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện
cuộc sống và cá tính nhân vật. Bởi mỗi nhân vật có một ngơn ngữ riêng.
Để thể hiện tính cách nhân vật, nhà văn khơng chỉ miêu tả ngoại hình, biểu hiện nội
tâm mà cịn thể hiện qua lời thoại của nhân vật. Lời thoại của nhân vật là lời ăn tiếng nói
của nhân vật, là một căn cứ biểu đạt tính cách và phẩm chất của mỗi người. Do đó trong
thể hiện hình tượng nghệ thuật của mình các nhà văn hết sức coi trọng việc thể hiện tính
cách nhân vật thơng qua lời thoại của nhân vật. Như vậy, lời thoại nhân vật (ngôn ngữ
nhân vật) là một khái niệm quen thuộc đối với những nhà nghiên cứu văn học, những nhà
nghiên cứu ngôn ngữ, những người dạy và học văn.
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tác giả đã tập trung ngịi bút của mình vào
nhân vật chính là Thuý Kiều – một số phận hồng nhan bạc phận. Qua “cõi đoạn trường”
của Thúy Kiều, Nguyễn Du thể hiện nỗi “đau đớn lòng” – một phương diện của chủ
nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Ngoài nhân vật chính, ơng lại xây dựng được hàng loạt nhân
vật có cá tính và đã trở thành nhân vật điển hình trong văn học: Kim Trọng,Từ Hải, Hoạn
Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh… . Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ
chỉ được nêu ra trong một số câu thơ, Nguyễn Du cũng để lại cho người đọc những ấn
tượng khó quên qua những màn, những cuộc hội thoại trong tác phẩm.
Qua thực tế giảng dạy các đoạn trích trong Truyện Kiều nhất là đoạn trích Trao
dun, tơi xin mạnh dạn đề xuất một kinh nghiệm nhỏ qua đề tài: Hướng dẫn học sinh
tìm hiểu ngơn ngữ hội thoại của nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Trao duyên (trích
Truyện Kiều – Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tập II). Đề tài sẽ làm rõ đặc điểm sử dụng ngôn
ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du trong đoạn trích; chỉ rõ nhóm
động từ chỉ hành động nói năng của Thúy Kiều và vai trị của chúng trong việc khắc hoạ
tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của đoạn trích; nghiên cứu phương
thức lập luận trong lời thoại của Thúy Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của nhân vật từ
đó chỉ rõ thấy rõ hiệu quả giao tiếp của cuộc trao duyên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài:
a. Hội thoại: Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai
hay nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác
qua lại về hành vi ngơn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định.
b. Lập luận: là một chiến lược hội thoại nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến
một kết luận mà người nói, người viết có định hướng, có chủ đích nêu ra.
c. Chiến lược giao tiếp: là phương châm và các biện pháp sử dụng các hành vi
ngôn ngữ trong giao tiếp nhằm giữ thể diện và tránh đe dọa thể diện của người tham gia
giao tiếp sao cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
2. Ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều và trích đoạn Trao duyên:
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tập trung ngịi bút của mình vào nhân vật chính là
Thúy Kiều. Cụ thể:
- Trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại và 33 lần độc thoại nội tâm thì riêng Thúy
Kiều đã nói tới 76 lượt lời trong 45 cuộc thoại với 512 câu thơ và độc thoại nội tâm 18
lần với 130 câu thơ. Nghĩa là trong 3.254 câu Kiều thì tác giả đã dành riêng cho nhân vật
chính 642 câu chỉ để tả lời ăn tiếng nói của nàng (hoặc trong lúc trị chuyện với các nhân
vật khác hoặc trong những lúc nàng tự nhủ mình): gần một phần năm tác phẩm.
- Chỉ đề tả 6 lần Thúy Kiều đánh đàn mà Nguyễn Du cũng đã dành tới 104 câu thơ
trong đó riêng 2 lần đàn cho Kim Trọng nghe lúc đầu và cuối truyện đã có: 34 + 24 = 58
câu. Cho nên nhân dân ta đặt tên cho tác phẩm của Nguyễn Du là Truyện Kiều cũng
khơng phải là khơng có lý do. Lời của các nhân vật chiếm tới 1.212 dòng thơ đối thoại
tức một phần ba tác phẩm. Nếu kể cả 211 dịng độc thoại nội tâm thì có tới 1.423 dòng
thơ trên 3.254 tức 43,7% dành cho hội thoại. Đây chính là đặc trưng của tiểu thuyết hiện
đại bởi qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ một cách trực tiếp.
Trong trích đoạn Trao duyên, Nguyễn Du sử dụng 26 câu đối thoại (thực chất là
Đơn thoại vì Đơn thoại là chỉ có một nhân vật phát biểu cịn các nhân vật khác chỉ nghe
hoặc khơng phát biểu, một người nói ra thành lời có người nghe nhưng khơng có lời đáp
lại); 04 câu độc thoại (Độc thoại là dạng hội thoại mà nhân vật nói một mình hướng đến
một đối tượng khơng có mặt, ở đây Thúy Kiều nói với Kim Trọng); 04 câu độc thoại nội
tâm (độc thoại nội tâm là lời tự nhủ, tự mình nói với mình của các nhân vật, trong đoạn
trích là lời tự thương của Thúy Kiều). Như vậy, đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân vật
trong Truyện Kiều nói chung và đoạn trích Trao dun nói riêng là sự cá tính hóa rất cao,
mỗi nhân vật Truyện Kiều đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng, không hề lẫn lộn.
Ngôn ngữ của nhân vật đều đã được lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ,
nếp cảm và sự lựa chọn của tác giả khơng chỉ biểu hiện ở những từ khơng có khả năng
thể hiện trực tiếp, cụ thể nội dung tư duy cảm xúc của các nhân vật, bởi ngôn ngữ nhân
vật ở đây vừa tham gia vào việc thể hiện sự phát triển của các sự kiện vừa là nhân tố quan
trọng góp phần tạo nên những tính cách nhân vật đa dạng, điển hình.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho giáo viên khi dạy Truyện Kiều nói chung và đoạn trích
Trao dun nói riêng khơng thể khơng hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngơn ngữ hội thoại
đa dạng mà các nhân vật sử dụng vì nó khơng chỉ là căn cứ để khẳng định tài năng
Nguyễn Du mà còn là cơ sở để hiểu hơn về tâm trạng và sự sắc sảo trong tính cách Thúy
Kiều.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Việc dạy trích đoạn Trao dun khơng chỉ giúp học sinh tiếp thu được các kiến
thức cơ bản theo yêu cầu của tiết học (giúp học sinh nhận ra được ngôn ngữ hội thoại của
nhân vật, tâm trạng thể hiện qua ngôn ngữ; khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của
Nguyễn Du qua việc dùng từ; củng cố cho học sinh kiến thức về ngôn ngữ hội thoại: đơn
thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm…) mà còn giúp hình thành ở học sinh một số kỹ
năng cần thiết trong học tập và cuộc sống (thông qua việc Thúy Kiều vận dụng ngơn ngữ
phù hợp cho từng hồn cảnh, từng đối tượng hướng đến của lời nói mà học sinh đã nhận
thức được các giá trị của lời nói để có cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao
tiếp đa dạng, phức tạp, tế nhị của cuộc sống). Tuy nhiên trong những năm qua:
- Đối với giáo viên: khi dạy trích đoạn Trao duyên thường bỏ qua hoặc ít chú ý đến
việc khai thác các dạng hội thoại mà nhân vật Thúy Kiều đã sử dụng để bộc lộ tâm trạng,
càng không quan tâm đến khả năng lập luận và chiến lược giao tiếp mà nhân vật chính
đã sử dụng để cuộc trao duyên đạt hiệu quả cao nhất. Bỏ qua điều này là giáo viên đã bỏ
đi một cơ sở để hiểu tâm trạng, tính cách Thúy Kiều cũng là bỏ đi một phương diện nghệ
thuật thành cơng của đoạn trích.
- Đối với học sinh: do áp lực học – thi, xu hướng chọn ngành nghề, do khơng có
thời gian nên đa số thờ ơ với môn văn. Với riêng Truyện Kiều, sự cách xa về thời gian,
sự khác biệt về một số quan niệm thuộc phạm trù văn hóa gữa con người thời trung đại và
hiện đại đã khiến học sinh ngại tiếp cận với tác phẩm, học và tìm hiểu tác phẩm với tâm lí
qua loa, đại khái. Mặt khác, khi đặt câu hỏi trong các bài kiểm tra 15 phút hoặc 45 phút
về sự thành công trên phương diện nghệ thuật hầu hết học sinh không làm được bài.
Những hiểu biết về hội thoại (đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm) còn mỏng và hời
hợt. Sự hạn chế hiểu biết về ngôn ngữ hội thoại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp nhận
các giá trị đoạn trích Trao dun nói riêng và Truyện Kiều nói chung.
Từ thực trạng trên, qua đề tài này tác giả sẽ cố gắng làm rõ đặc điểm sử dụng ngôn
ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du trong đoạn trích; chỉ rõ nhóm
động từ chỉ hành động nói năng của Thúy Kiều và vai trò của chúng trong việc khắc hoạ
tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của đoạn trích; nghiên cứu phương
thức lập luận trong lời thoại của Thúy Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của nhân vật từ
đó chỉ rõ thấy rõ hiệu quả giao tiếp của cuộc trao duyên.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU LẬP LUẬN TRONG HỘI THOẠI VÀ CHIẾN
LƯỢC GIAO TIẾP CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TRONG TRÍCH ĐOẠN TRAO
DUYÊN
1.1- Vài nét về ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều và trích đoạn Trao dun:
- Ngơn ngữ hội thoại đóng vai trị khá quan trọng trong Truyện Kiều.
+ Có 1.467 câu hội thoại/3254 câu (chiếm 45,1% ).
+ Có 1.191 câu đối thoại (chiếm khoảng 81,2%); 276 câu độc thoại (chiếm khoảng
18,8 %).
+ Có tới 90 cuộc thoại.
- Trong 34 câu của đoạn trích Trao dun:
+ Có: 26 câu đối thoại (thực chất là Đơn thoại vì Đơn thoại là chỉ có một nhân vật
phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe hoặc khơng phát biểu, một người nói ra thành
lời có người nghe nhưng khơng có lời đáp lại).
+ Có 04 câu độc thoại (Độc thoại là dạng hội thoại mà nhân vật nói một mình
hướng đến một đối tượng khơng có mặt).
+ Có: 04 câu độc thoại nội tâm (độc thoại nội tâm là lời tự nhủ, tự mình nói với
mình của các nhân vật).
1.2- Tìm hiểu lập luận trong hội thoại của trích đoạn Trao duyên.
a. Chỉ rõ đặc điểm cấu tạo của lập luận trong hội thoại trích đoạn Trao duyên
- Một lập luận bao gồm hai phần: luận cứ và kết luận. Lập luận có thể có một luận
cứ hoặc một số luận cứ.
- Về cấu tạo: lập luận có thể là một phát ngôn ghép hoặc là một đoạn văn.
b. Hướng dẫn tìm hiểu cách thức lập luận trong hội thoại của nhân vật Thúy Kiều
trong Trao duyên và cơ sở tạo nên tính thuyết phục của lập luận.
- Cơ sở tạo nên tính thuyết phục của lập luận: hội tụ 4 yếu tố: cơ hội, lí lẽ, tính biểu
cảm của lời và thái độ của người nghe.
- Ngôn ngữ của Kiều nổi bật trong Trao duyên bởi tính lập luận sắc bén và sức cảm
hoá, thuyết phục người đối thoại.
Kiều trao duyên cho Thúy Vân:
“…Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khơn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xn em hãy cịn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lịng chẳng qn.
Mất người cịn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lị hương ấy so tơ phím này.
Trơng ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan…
Ở đây, màn lập luận của Kiều đã hội tụ được các yếu tố cần thiết để tạo nên sự
thành công của việc trao dun:
* Hồn cảnh dẫn đến việc trao dun: Sóng gió bất kì (Hiếu) và Giữa đường đứt gánh
tương tư (Tình).
* Cơ hội để thực hiện màn lập luận đắc địa: Trong đêm thanh vắng, chỉ có hai chị em,
ngày mai chị đã phải ra đi.
* Luận cứ hết sức xác đáng:
- Luận cứ 1: Chị hi sinh vì hiếu thì khơng thể trọn vẹn chữ tình (câu 7 – 8):
Hiếu tình khơn lẽ hai bề vẹn hai.
- Luận cứ 2: Em còn trẻ, hơn nữa giữa chị với em là tình máu mủ (câu 9 - 10):
Ngày xuân em hãy cịn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
- Luận cứ 3: Chị sẽ trao em hết những kỉ vật của tình yêu (câu 13 – 18):
Chiếc vành với bức tờ mây
……………….
- Luận cứ 4: Nếu em “thay lời nước non” giúp chị, chị vô cùng biết ơn (câu 11 – 12, 15 –
16):
Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.
Và:
Xót người mệnh bạc ắt lịng chẳng qn.
* Tính biểu cảm của lời nói: Khi thực hiện màn lập luận, Kiều lạy rồi thưa.
* Thái độ tích cực của Thúy Vân: Lặng im nghe giãi bày, nhận các kỉ vật Kiều trao.
Chính vì vậy, màn lập luận của Kiều đã thành công.
c. Tìm hiểu chiến lược giao tiếp của Thúy Kiều trong Trao duyên:
- Sử dụng lối nói gián tiếp, ước lệ:
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
- Sử dụng các điển cố, điển tích, tránh đề cập trực tiếp vào vấn đề nhằm giữ thể diện cho
Thúy Vân, tránh sự sỗ sàng, đột ngột cho Vân; ngôn ngữ được lựa chọn, cân nhắc:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHẢO SÁT CÁC ĐỘNG TỪ VÀ CÁC TỪ CHỈ HÀNH
ĐỘNG NĨI NĂNG QUA NGƠN NGỮ HỘI THOẠI CỦA THÚY KIỀU TRONG
TRÍCH ĐOẠN TRAO DUYÊN
2.1- Đặc điểm các động từ và các từ chỉ hành động nói năng trong Trao duyên
- Có 09 động từ và các từ chỉ hành động nói năng gắn với lời của nhân vật.
a. Đặc điểm cấu trúc
- Từ đơn tiết: có 06 từ.
- Từ song tiết: 02 từ.
- Từ có ba âm tiết: 01 từ.
b. Đặc điểm ngữ nghĩa và sự hành chức
- Từ chỉ hành động hỏi (Hỏi để thăm dò thái độ người nghe): có chịu lời
- Động từ chỉ hành động nói: thưa.
- Động từ chỉ hành động cầu khiến - mệnh lệnh: cậy, ngồi lên
- Động từ chỉ hành động cam kết: chẳng quên, đền
- Động từ chỉ hành động biểu cảm: lạy
- Thán từ chỉ hành động khóc: Ơi, hỡi
2.2- Yêu cầu học sinh nhận xét về các động từ và các từ chỉ hành động nói năng qua
ngơn ngữ hội thoại của Thúy Kiều trong trích đoạn Trao duyên
- Các hành động nói năng được sử dụng với số lượng lớn, phong phú.
- Đóng vai trị quan trọng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật đồng thời góp
phần thể hiện sự phát triển tính cách nhân vật Thúy Kiều:
+ Cậy chứ không phải Nhờ. Cậy là thể hiện niềm tin nhất, chỉ có em mới là người
chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn.
+ Chịu lời chứ không phải Nhận lời. Chịu lời buộc người mình tin phải nghe theo
khơng thể từ chối. Nếu nói Nhận lời thì người nghe có thể từ chối.
+ Lạy, Thưa: thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình
hàm ơn. Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn chọn những lời lẽ thuyết phục đứa
em ruột của mình. Bởi vì những gì nàng sắp nói ra vơ cùng hệ trọng với hạnh phúc của
em mình. Kiều khơng chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại “Ngồi lên cho chi lạy rồi
sẽ thưa”. Kiều lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân.
- Diễn tả được những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật và thể hiện một
cách tinh tế đời sống nội tâm phức tạp của nhân vật Thúy Kiều:
+ Sau khi đã “chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng bằng hàng
loạt những động từ và những từ chỉ hành động hỏi - nói - cầu khiến - biểu cảm, Thuý
Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ khơng thể nào nói được.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
+ Tiếp tục với những động từ chỉ hành động nói, những câu thơ tiếp Kiều tự điểm
qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và
cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề…
+ Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Th Vân nhưng chính lúc Th
Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình u.
Dun đã khó trao, tình làm sao trao được? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc
vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những
kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là
của riêng nàng và Kim Trọng. Tình u khơng có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự
thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm
trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hồn
tồn trượt mất.
+ Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm
ngùi đau xót nghĩ về tương lai.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lị hương ấy so tơ phím này…
+ Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ bng xi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ
sang hướng khác. Những thán từ chỉ hành động khóc được sử dụng khi Kiều nhớ về Kim
Trọng:
Ơi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thơi thơi thiếp đã phụ chàng từ đây !
Màn trao duyên kết thúc trong tiếng kêu thảng thốt, tiếng nấc nghẹn ngào của
người con gái trong nỗi đau “phụ bạc chàng Kim”.
IV. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG CỦA ĐỀ TÀI
Qua thực tế áp dụng đề tài vào việc giảng dạy tại 2 lớp 10A2 và 10A8 trường
THPT Hàm Rồng, tôi thu được kết quả như sau :
1. Về kiến thức:
- Với cách triển khai phần Đọc – hiểu văn bản Trao duyên theo hướng dành một
phần nhỏ lượng thời gian để hướng dẫn học sinh khảo sát ngôn ngữ hội thoại của Thúy
Kiều trong đoạn trích, học sinh có thể hồn tồn chủ động điểm qua được ngôn ngữ nhân
vật Truyện Kiều – một phương diện nghệ thuật thành công đặc sắc của đoạn trích Trao
duyên. Học sinh đã thấy đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều là sự
cá tính hóa rất cao, từ đó suy ra mỗi nhân vật Truyện Kiều đều có một lối nói riêng, một
vốn từ riêng, không hề lẫn lộn.
- Giờ dạy sẽ giúp học sinh nhận ra ngôn ngữ mà Thúy Kiều dùng để trao duyên cho
Thúy Vân đã được lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ, nếp cảm và ngôn
ngữ của Thúy Kiều ở đây vừa tham gia vào việc thể hiện sự phát triển của các sự kiện
vừa là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên tính cách nhân vật đa dạng, điển hình.
- Thêm một lần để củng cố cho học sinh kiến thức về ngôn ngữ hội thoại: đơn
thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm – thứ ngôn ngữ mà thiên tài Nguyễn Du thường sử
dụng.
2. Về kĩ năng:
- Thông qua việc Thúy Kiều vận dụng ngơn ngữ phù hợp cho từng hồn cảnh, từng
đối tượng hướng đến của lời nói mà học sinh đã nhận thức được các giá trị của lời nói để
có cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng, phức tạp, tế nhị của
cuộc sống.
- Học sinh nhận thức được sự cần thiết của việc tìm hiểu vai trị của ngơn ngữ hội
thoại của các nhân vật trong các tác phẩm văn học bởi đó là căn cứ vơ cùng quan trọng để
hiểu tâm trạng, tính cách các nhân vật và khẳng định sự thành công về mặt nghệ thuật
(phương diện dùng từ) của các tác giả.
3. Về thái độ:
Qua bài học, học sinh có hứng thú được tìm hiểu ngơn ngữ của các nhân vật văn
học đặc biệt khi ngôn ngữ là cơ sở quan trọng để hiểu tâm trạng, tính cách nhân vật. Từ
đó giúp các em có nhu cầu dùng lời nói để bộc lộ tâm trạng, tính cách sao cho hợp lí và
có sức thuyết phục với đối tượng mình giao tiếp.
V. MỘT SỐ LƯU Ý KHI DẠY TRÍCH ĐOẠN TRAO DUYÊN
Thứ nhất, việc khảo sát ngôn ngữ hội thoại của Thúy Kiều trong trích đoạn chỉ là
một phần nhỏ trong việc triển khai Đọc – hiểu văn bản cho học sinh chứ không phải phần
nội dung chiếm phần lớn lượng thời gian. Khi dạy, giáo viên có thể lồng vào từng phân
đoạn theo bố cục đã chia hoặc để dành cho phần tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật
của đoạn trích.
Thứ hai, đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc và những đau
khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt vì có kẻ vu oan, Thúy Kiều
đã phải bán mình để lấy tiền cứu cha và em. Đêm hôm trước ngày Kiều phải ra đi theo
Mã Giám Sinh, nàng đã trao duyên cho em để “trả nghĩa chàng Kim”. Vì vậy khi hướng
dẫn học sinh tìm hiểu phần Tiểu dẫn, GV phải yêu cầu các em chú ý đến điều này vì đó là
hồn cảnh dẫn đến việc trao duyên của Kiều, cũng là cơ sở thứ nhất giúp việc lập luận
của màn trao duyên thành công.
Thứ ba, đoạn văn đậm đặc tính người trong một khơng gian nghệ thuật bao hàm cả
một hệ thống các thủ pháp nghệ thuật, ngơn ngữ, hình tượng, nhất là ngơn ngữ. Ở đó
Nguyễn Du đã sáng tạo nên một cuộc vừa mang tính đối thoại vừa mang tính độc thoại,
gây nên một hiệu ứng thẩm mĩ vô cùng độc đáo; là nơi gặp gỡ giữa ba tâm hồn đồng
cảnh, đang quằn quại vì những lẽ khác biệt của tình đời. Giúp học sinh phân tích đặc
điểm sử dụng ngơn ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du trong đoạn
trích; chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói năng của Thúy Kiều từ đó thấy được vai trị
của chúng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của
đoạn trích là việc giáo viên cần phải lưu ý.
Đoạn trích không dài, cũng không mang một nội dung to tát. Chỉ vẻn vẹn 34 câu
thơ lục bát tái hiện lại cái đêm Kiều nhờ Thúy Vân thay mình lấy Kim Trọng để trả
nghĩa, để chấp nối duyên tình mà Kiều bỏ lại. Đoạn trích có lẽ cũng chỉ có vậy, là một
cuộc đối thoại khá công khai giữa hai chị em: Kiều là người nói, vân là người nghe. Mặt
khác, Thúy Kiều đã trao dun nhưng tình thì cịn giữ lại. Tuy nhiên trong cả 34 câu thơ
ấy, người ta không thấy, không nghe lời của Thúy Vân, điều này cho thấy Nguyễn Du rất
tinh tế, bởi trong hoàn cảnh ấy Thúy Vân khơng thể nói gì. Tất cả ngơn ngữ của Thúy
Kiều đều đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh “mặc nhiên phải chấp nhận”, đó là hiệu quả của
phương thức lập luận trong lời thoại của Thúy Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của
nhân vật. Dạy đoạn trích, giáo viên khơng thể khơng chú ý đến điều này vì nó không chỉ
là căn cứ để khẳng định tài năng Nguyễn Du mà còn là cơ sở để hiểu hơn về tâm trạng và
sự sắc sảo trong tính cách Thúy Kiều.
Trong sự hoảng loạn khi tình yêu đã mất, mọi cái đều trở nên hư ảo, nửa tỉnh nửa mê.
Từ chỗ nói với em, rất tự nhiên Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người u, tức là
từ đối thoại (thực chất là đơn thoại) chuyển sang độc thoại (nói với người vắng mặt) và
độc thoại nội tâm (nói với chính mình). Lưu ý được điều này khi khám phá đoạn trích
cũng là cách quan trọng để GV giúp học sinh cảm nhận sự chuyển biến tâm trạng của một
tâm hồn cô đơn, cô độc đến tuyệt vọng.
C. KẾT LUẬN
Ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều nói chung, trích đoạn Trao duyên nói riêng
đã vượt lên hẳn so với các tác phẩm cùng thể loại, cùng thời đại và thậm chí khác thời đại
của Nguyễn Du. Đó là ngơn ngữ gắn với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân
dân.
Ngôn ngữ lập luận đã được nhân vật Thúy Kiều sử dụng một cách linh hoạt trong
nhiều tình huống giao tiếp khác nhau và đã phát huy tác dụng tích cực của nó.
Nhân vật chính của Trao dun đã vận dụng một cách uyển chuyển các phương
châm, biện pháp, yếu tố của chiến lược giao tiếp khi tham gia hội thoại làm cho những
cuộc thoại trở nên nhuần nhị, nhanh chóng đạt được hiệu đích giao tiếp và trở thành một
trong những mẫu mực về hội thoại mà các nhà ngữ dụng học cần phải quan tâm nghiên
cứu.
Thông qua các động từ nói năng này và ngơn ngữ hội thoại độc đáo, Nguyễn Du đã
khắc hoạ thành cơng tính cách nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều.