SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH TÌM
HIỂU ĐỀ, TÌM Ý, CHỌN VÀ SẮP XẾP
Ý KHI LÀM MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1.Lí do chọn đề tài:
Hoà chung với nhịp độ đi lên của đất nước đang trên đường tiến vào
thế kỉ XXI. Một thế kỉ công nghiệp hoá – hiện đại hoá ( CNH- HĐH).
Mục tiêu của Giáo dục hiện nay là: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”. Đó là một nhiệm vụ hết sức vinh quang nhưng cũng
không kém phần nặng nề của ngành Giáo dục. Như Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ VIII của Ban chấp hành TW đã khẳng định đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng ,
dân chủ và văn minh, đất nước vững bước đi lên CNXH. “Giáo dục &
Đào tạo là quốc sách hàng đầu.”Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là
nền tảng. Mục tiêu giáo dục là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
nhằm đào tạo một thế hệ trẻ vừa “ hồng” vừa “chuyên”, có đầy đủ” Đức-
Trí- Mĩ- Duc”; có kiến thức văn hoá, khoa học, có kĩ năng nghề nhiệp, lao
động tự chủ, sáng tạo, có kĩ thuật, giàu lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã
hội, sống lành mạnh, đáp ứng với nhu cầu phát triển của đất nước trong
những năm 2012-2020 và trong tương lai. Mỗi một môn học ở bậc tiểu
học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ ; cung cấp
cho trẻ những trí thức cần thiết. Đặc biệt môn Tập làm văn là một phân
môn hết sức quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết cho trẻ.
Vì vậy dạy cho học sinh biết tìm hiểu đề ,quan sát tìm ý … để hình thành
một thói quen chuẩn bị tốt trước khi làm một bài Tập làm văn là một yêu
cầu hết sức quan trọng. Muốn tìm hiểu đề tốt, học sinh cần nắm được cách
đặt các câu hỏi tìm trọng tâm của đề một cách chính xác và những yêu cầu
để làm tốt một bài Tập làm văn.
Đối với cả giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức được hết tầm
quan trọng của giờ hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, quan sát, tìm ý ,
chọn lọc ý và sắp xếp ý nên chất lượng giờ dạy còn hạn chế. Từ thực tế
trên, qua quá trình giảng dạy, khi thấy học sinh thường sai đề một cách
đáng tiếc.Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong việc giáo dục
học sinh phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài : “ Hướng
dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài
Tập làm văn.”
I.2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài:
Ngày nay khi đất nước phát triển môn Tiếng Việt nói chung và phân
môn Tập làm văn nói riêng được giáo dục quan tâm và đầu tư đúng mức.
Tiếng Việt không chỉ để học làm ngôn ngữ giao tiếp mà Tiếng Việt còn là
nơi cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người,
cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết
ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện nhân cách con người
cho học sinh.
Đối với học sinh lớp 4+5 là giai đoạn tiếp thu kiến thức khá cao, yêu
cầu của môn Tiếng việt hết sức quan trọng, trong đó phân môn Tập làm
văn đóng vai trò chủ chốt nên giáo viên cần chú ý quan tâm đến việc rèn
luyện các kỹ năng cơ bản từ đó tiếp tục bồi dưỡng cho học sinh tình yêu
Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Chính vì thế mục tiêu của đề tài là hướng dẫn học sinh cách
tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm văn.
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ tìm
hiểu đề, quan sát tìm ý cho bài Tập làm văn hiện nay, tôi có một số suy
nghĩ về việc hướng dẫn học sinh biết cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý
một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học sinh có khả năng nói và viết tốt
hơn.
Với những mục đích, nội dung nghiên cứu của đề tài trên và những
kiến thức thu nhặt được từ quá trình giảng dạy, kết hợp với tham khảo
qua sách báo, tài liệu, bản thân tôi đã tìm hiểu tình hình học tập phân môn
Tập làm văn lớp 4+5 ở Trường tiểu học Phú Lộc qua việc rèn luyện hình
thành các kĩ năng của học sinh. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng học
tập phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4+5.
I.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên đối tượng nghiên cứu của đề tài
là các em học sinh lớp 4+5 Trường Tiểu Học Phú Lộc.
I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Từ thực tế trên, qua quá trình giảng dạy, khi thấy học sinh thường sai
đề một cách đáng tiếc. Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong
việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm
cho bản thân. Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và bổ cứu trong cách dạy của
mình. Sau đây là những bước nhằm giúp học sinh làm bài một cách có
chất lượng qua “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý” trước khi làm
một bài Tập làm văn hoàn chỉnh của lớp 4+5.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Dùng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, ngoài ra còn sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm ( Nghiên cứu bài làm của các em).
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc, tham khảo tài liệu qua sách
báo,
- Khảo sát tình hình thực tế, dự giờ thăm lớp.
- Phương pháp thực hành, so sánh đối chiếu,….
II. PHẦN NỘI DUNG :
II.1. Cơ sở lí luận:
Trong thực tế bài làm của học sinh thường không xuất sắc vì rơi vào
các trường hợp sau: sai đề hoàn toàn; bài làm dàn trãi, không thể hiện
được trọng tâm yêu cầu của đề ra; bài làm phiến diện, thiếu cân đối (ý
trọng tâm thì lướt qua còn ý phụ lại đi sâu hơn); bài làm đúng yêu cầu
nhưng ý nghèo, nông cạn,… Nguyên nhân chính của những sai sót này là
do học sinh không chịu tìm hiểu kỹ đề, tìm và chọn lọc ý mà chỉ đọc qua
quýt rồi làm bài trực tiếp chứ không thông qua làm nháp. Không chỉ do
học sinh lười tìm hiểu đề mà thực chất do giáo viên chúng ta không chú
trọng đến khâu này, không trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra một cách
nghiêm túc, chặt chẽ đối với học sinh cho nên các em không có thói quen
tìm hiểu đề, tìm ý. Thậm chí, một số giáo viên có ý thức chú trọng khâu
này nhưng lại lúng túng chưa tìm ra biện pháp hướng dẫn cho học sinh
xâm nhập đề ra nên đã bỏ qua bước quan trọng bậc nhất này. Tìm hiểu
đề, tìm ý, chọn và sắp xếp ý khi làm một bài văn là khâu đầu tiên quan
trọng nhất quyết định đúng sai trong quá trình làm bài. Đặc biệt, đối với
học sinh tiểu học khâu này lại càng cần thiết vì các em còn nhỏ, ngây thơ
trong cách học, cách hiểu, cách làm bài.
II.2. Thực trạng:
a/ Thuận lợi - Khó khăn:
* Thuận lợi:
+ Về phía giáo viên:
- Trong quá trình dạy học bản thân cũng như các giáo viên khác luôn được
Nhà trường quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác dạy học. Đội ngũ
giáo viên Nhà trường có tay nghề cao là điều kiện thuận lợi để giáo viên
dự giờ học hỏi kinh nghiệm. Học sinh có đầy đủ SGK và Giáo viên có đầy
đủ sách hướng dẫn , được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học
hiện đại. Bản thân giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm.
- Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với công việc giảng dạy, hết lòng yêu
thương trẻ. Quan tâm và hiểu tâm lí của từng học sinh trong lớp, nắm
được sức học của từng em để từ đó có hướng rèn luyện đúng đắn, tạo
hứng thú học văn cho các em.
- Giáo viên nắm rõ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ
bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo của chuyên môn PGD, trường, tổ khối có vai trò tích cực
giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thao đã có nhiều giáo viên thành
công khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, ti vi, đài, sách báo giáo viên
tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
- Tài liệu giảng dạy của thư viện nhà trường phong phú, phù hợp với từng
đối tượng học sinh.
+ Về phía học sinh:
- Đa số học sinh được sự quan tâm chăm sóc của gia đình. Được giáo
dục trong môi trường lành mạnh, trong xã hội tiến bộ và phát triển. Các
em đều có động cơ học tập đúng đắn, luôn muốn tìm tòi, khám phá thế
giới muôn màu, muôn vẻ xung quanh. Sự quan tâm của phụ huynh học
sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng
và môn Tiếng việt nói chung.
- Học sinh lớp 4+5 phần lớn đã đọc thông viết thạo, có cố gắng trong quá
trình tiếp thu bài cũng như hình thành và rèn luyện kĩ năng cho mình. Một
số học sinh có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức, ý thức tốt trong việc tìm
hiểu đề kĩ, quan sát, tìm và chọn lọc ý khi làm một bài văn.
- Các em rất giàu tư duy sáng tạo, mỗi em đều có những sở trường riêng.
Ở lứa tuổi các em rất thích tỏ ra mình là một người lớn, biết vâng lời, luôn
luôn lắng nghe, ham học hỏi,say mê tìm tòi,hồn nhiên, ngây thơ, trong
sáng. Các em thường thể hiện nét ngộ nghĩnh đáng yêu và cảm nhận thế
giới xung quanh theo từng cách riêng với trí tưởng tượng không giống
nhau.
- Các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Buổi sáng học lý thuyết và
buổi chiều được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức. Từ đó giúp các
em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh
hoạt vào các phân môn khác.
* Khó khăn:
- Do đặc điểm lứa tuổi học sinh giai đoạn này thường tiếp thu tốt nhưng
cũng nhanh quên; các em còn ngại khó, hễ gặp vấn đề hơi khó là muốn
dừng lại mà phân môn Tập làm văn lại là môn đòi hỏi tính cần cù, nhẫn
nại cao.
- Trong trường có học sinh của ba dân tộc khác nhau, nhìn chung khả
năng tiếp thu không đồng đều, một số học sinh vốn ngôn ngữ Tiếng việt
hạn chế nên đã ảnh hưởng nhiều đến khả năng tạo lập văn bản của các em.
- Đối với học sinh vùng sâu, vùng xa điều kiện để các em phát triển về
giao tiếp còn hạn chế không được mở rộng như thành thị, học sinh chưa
nhạy bén trong va chạm, vốn sống của các em chưa thật phong phú.
- Ý thức học tập của một số em còn hạn chế. Bên cạnh đó học sinh với lối
tư duy cụ thể, khả năng tư duy trừu tượng chưa cao, chưa có ý thức tự
giác học bài ở nhà, còn trông chờ vào sự giúp đỡ của giáo viên nên kết
quả học tập chưa cao.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình khi cuộc
sống còn gặp nhiều khó khăn, vất vả, còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà
trường, nhờ thầy cô'' cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập các
môn nói chung và Tập làm văn nói riêng.
b/ Thành công – Hạn chế:
* Thành công: Tất cả: Tìm hiểu đề bài, tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình
hoạt động của trí óc giúp cho học sinh làm bài không lạc đề, bài làm trở
nên chặt chẽ và nổi bật trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài viết hấp dẫn
mang phong cách riêng chứ không rập khuôn theo một khuôn mẫu. Chính
vì vậy khi áp dụng phương pháp này trong phân môn Tập làm văn thì khả
năng phát triển của học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
* Hạn chế:
+ Giáo viên:
- Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để
nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm
văn thường rất lớn so với thời gian, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải
trong tiết học.
- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học
nhưng đôi khi cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo
khoa, sách tham khảo vì sợ sai và không đủ thời gian cho một tiết học.
+ Học sinh:
- Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các
phân môn của Tiếng Việt nên các em còn gặp một số khó khăn sau:
+ Chương trình Tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy
sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh
trung bình, yếu.
+ Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương
pháp “làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng
học sinh “coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.
+ Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu
học.
+ Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh
đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc “tìm hiểu
đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý” của các em.
+ Kĩ năng làm văn của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em
chưa biết cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý,… thực hiện làm một bài văn
chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc
để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi
tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết.
- Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học Tập làm văn gặp một số tồn tại sau:
+ Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng
phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn.
Phương pháp này giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi
ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại thường hay bắt chước các câu,
đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau.
+ Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh
trung bình, yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại”
để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá,
giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung bình, yếu. Nhưng nếu tập trung vào học
sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng này đạt được yêu cầu bài văn
thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi.
+ Một khó khăn nữa là nhiều học sịnh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là
rất xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn.
Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, chau chuốt
câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó khăn, gian khổ.
c/ Mặt mạnh- Mặt yếu
* Mặt mạnh:
Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc đề hoặc
làm bài dàn trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã đúng
trọng tâm. Đối với những em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu sắc về
nội dung, chặt chẽ trong lập luận. Do vậy, có một phần không nhỏ cho
thành công của học sinh trong mùa thi.
* Mặt yếu:
Còn có nhiều học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo nên khi làm bài
văn không tìm hiểu sâu sát được vấn đề. Vì vậy bài làm của các em
thường sai đề một cách đáng tiếc.
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Các bài Tập làm văn trong sách giáo khoa của học sinh còn hướng dẫn
một cách chung chung, thiếu cụ thể, khó hiểu, chưa gây hứng thú học tập
cho các em.
- Có một số giáo viên chuẩn bị bài chưa chu đáo nên khi lên lớp hướng
dẫn học sinh tìm hiểu đề, quan sát chưa kỹ, cho nên học sinh chưa biết
cách tìm và chọn lọc ý một cách hợp lí,…
- Học sinh chưa biết ghi chép những gì mình quan sát được một cách rõ
ràng, tỉ mỉ, chưa biết chọn lọc, sắp xếp các ý mà mình đã quan sát được
theo trình tự thời gian, không gian bằng các giác quan của mình.
- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng trong đề bài.
Không quan sát theo đúng yêu cầu. Vốn ngôn ngữ còn quá ít ỏi , chưa
biết dùng từ đặt câu, viết văn còn sai lỗi ngữ pháp và lỗi chính tả quá
nhiều,
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học
tập của các em. Chính vì vậy tôi đã chú trọng việc hướng dẫn học sinh
phải tìm hiểu đề kĩ, quan sát, chọn và sắp xếp ý trước khi làm một bài Tập
làm văn.
e/ Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của học sinh qua các bài kiểm tra khi
viết một bài văn hoàn chỉnh. Tôi có một số suy nghĩ về việc hướng dẫn
học sinh biết quan sát tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới các em
có khả năng nói và viết tốt hơn.
Môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh biết sử dụng
các ngôn bản khi nói và cũng như khi viết. Vốn hiểu biết của các em thể
hiện qua kết quả các bài kiểm tra viết. Qua bài viết hoặc nói của các em
thể hiện rõ sự hiểu biết về thế giới xung quanh, đời sống tinh thần, trình
độ nhận thức của các em.
Tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, chọn lọc ý là hướng dẫn học sinh đọc kĩ
đề bài, tìm ra được yêu cầu chính của đề, để học sinh không đi lạc hướng
trong lúc viết. Tiếp đó tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là
một công việc hết sức quan trọng trong khi dạy môn TLV. Trên cơ sở
quan sát, các em có thể ghi nhớ các hình ảnh đặc trưng, những đặc điểm
nỗi bật của vật được quan sát đã gây ấn tượng và cảm xúc cho các em.
Nhũng hình ảnh đó được ghi lại theo trình tự thời gian và không gian bằng
các giác quan, từ đó tập cho các em thói quen tự giác tích cực trong việc
tìm hiểu đề, quan sát, tìm, chọn, sắp xếp ý thành một dàn bài logic. Đây là
bước đầu tiên khi thực hành làm một bài TLV.
Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy, rất ít giáo viên cũng như học
sinh có thể nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc kỹ đề, quan sát,
tìm, chọn và sắp xếp ý trong quá trình làm một bài TLV. Do đó bài viết
của tôi nhằm nêu rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề trên cũng như kiến
nghị một số giải pháp để giải quyết như sau.
II.3. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP
a. Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp:
- Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề ra.
- Hướng dẫn và yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm trọng tâm đề ra.
- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm ý.
- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi chọn lọc và sắp xếp ý.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp biện pháp:
+ Tìm hiểu đề: Đọc kỹ đề ra (Đọc nhiều lần, đọc theo từng mức độ
khác nhau, vừa đọc vừa suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng ý trong đề
ra)
- Đọc thầm: Đây là bước đầu tiên tiếp xúc với đề ra nên yêu cầu học
sinh thật tập trung chú ý. Giáo viên yêu cầu cả lớp im lặng nhìn lên đề ra
ghi trên bảng và đọc kỹ bằng mắt cho quen chữ, quen cách ngắt, nghỉ
trong từng câu, từng vế của đề ra. Tất nhiên, đây là lúc giáo viên đọc đề
cho các em nghe.
- Đọc to: Yêu cầu vài em đứng dậy đọc to đề cho cả lớp nghe, trong
lúc đó, lớp vẫn đọc thầm bằng mắt theo bạn.
- Đọc diễn cảm: Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình đọc đề,
tìm hiểu đề. Diễn cảm ở đây không phải ngân nga lên bổng xuống trầm
mà là đọc rõ, biết ngắt, nghỉ, nhấn giọng ở những từ ngữ quan trọng (Giáo
viên đọc một lần, yêu cầu hai đến bốn em đọc). Qua đọc, ý của đề ra sẽ rõ
ràng, các trọng tâm yêu cầu rất dễ nhận rõ, giúp học sinh thâm nhập đề ra
một cách dễ dàng nhanh chóng.
Giáo viên có thể hỏi: theo em, nên ngắt, nghỉ hơi ở chổ nào? Nhấn
giọng ở những từ ngữ nào? Vì sao? (Có thể cho vài em đọc lại đúng ngữ
điệu).
Tóm lại, đọc kỹ đề là bước đầu tiên quan trọng nhất giúp các em
nghe, hiểu, thâm nhập đề ra một cách chắc chắn nhất. Nhưng mới chỉ đọc
thì chưa đủ mà trong quá trình đọc phải kết hợp vừa đọc vừa suy nghĩ, cân
nhắc từng chữ, từng từ để xác định mối quan hệ giữa các từ ngữ, các vế
trong đề ra, đặc biệt là cần đặt câu hỏi để xác định trọng tâm yêu cầu của
đề mà ta sẽ nói ở phần tiếp theo.
+ Xác định trọng tâm yêu cầu của đề ra:
Nếu không xác định trọng tâm yêu cầu của đề thì học sinh sẽ làm sai
đề hoăc bài làm của các em sẽ rơi vào dàn trãi hoặc phiến diện. Học sinh
không hiểu đề hay chỉ hiểu một cách mơ màng mà không biết yêu cầu
chính của đề ra.
Muốn xác định đúng trọng tâm của đề ra, yêu cầu các em đặt câu hỏi:
Đề yêu cầu chúng ta phải làm gì? (tả, thuật hay kể?). Đối tượng nào?
(Cảnh, vật, người hay đồ vật? ), yêu cầu: tả, thuật hay kể về cái gì là
chính? Muốn trả lời chính xác câu hỏi sau cùng, giáo viên yêu cầu các em
phải suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng từ, vì có những dạng đề chỉ khác
nhau một chữ, thậm chí có khi chỉ một dấu phẩy.
Ví dụ 1:
a/ Bà em trồng rau. Hãy tả lại
b/ Bà, em trồng rau. Hãy tả lại
Nếu không tinh ý, không nhạy bén sẽ rất khó xác định. Muốn học
sinh hiểu, nắm vững cách đặt câu hỏi tìm hiểu trọng tâm của đề ra, giáo
viên phải
trực tiếp đưa ra những đề có sự khác nhau cụ thể cho học sinh xác định
trực tiếp.
Dạng đề thứ nhất: khác một dấu phẩy dẫn đến khác nội dung. Đó là
dạng như hai đề ở ví dụ 1 đã nêu trên. Đề a, yêu cầu tả một minh bà đang
trồng rau. Đề b, yêu cầu tả cả bà, tả cả cháu đang trồng rau.
Dạng đề thứ hai : Khác một chữ dẫn đến nội dung yêu cầu bài làm
hoàn toàn khác nhau.
Ví dụ 2:
a/ Tả làng em sau cơn bão.
b/ Tả làng em trong cơn bão.
Ở đây, yêu cầu học sinh đọc kỹ đề và cân nhắc từng chữ, qua sự gợi
ý của giáo viên, ở hai đề trên về số lượng từ có khác nhau không? Về đối
tượng có khác nhau không? (không khác vì cùng tả "làng em").
Vậy, khác nhau ở điều gì? (khác ở ý nghĩa qua hai chữ
"sau","trong"),"Tả làng em sau cơn bão" tức là tả làng em khi bão đã như
thế nào? (bão đã tan tức là chỉ còn lại hậu quả của bão gây nên cho làng
em). Còn "làng em trong cơn bão" thì sao? (tức là làng em đang bị bão
hoành hành…). Cả hai đề cùng tả "làng em" nhưng nội dung tả có giống
nhau không ? Vậy do đâu mà có sự khác nhau về trọng tâm yêu cầu đó?
Qua hai đề trên, ta thấy nhiều lúc từ ngữ đóng vai trò gì trong đề văn?
(Quyết định nội dung chính trong bài làm). Bỏ sót từ ngữ hoặc không hiểu
từ, ngữ sẽ dẫn đến sai trọng tâm yêu cầu. Do đó ta phải cân nhắc từng
chữ.
Dạng đề thứ ba: đảo từ ngữ dẫn đến khác nhau về nội dung:
Ví dụ 3:
a/ Tả quê em chiều mưa.
b/ Tả chiều mưa quê em.
Sau khi giúp học sinh nhận định: cả hai đề không khác về số lượng
chữ và đều nói đến "chiều mưa", "quê em" và cùng yêu cầu miêu tả
nhưng vị trí các ngữ được đảo lại.
Qua sự đảo lại như vậy giúp em hiểu trọng tâm yêu cầu của mỗi đề.
Đề a: Yêu cầu tả "chiều mưa" là chính, hay tả "quê em" là chính? (tả
"quê em" là chính: Tức là tả cảnh, người, vật "quê em" lúc trời mưa).
Đề b: Tả cảnh nào là chính? (Cảnh "chiều mưa", tức là cảnh mưa
như thế nào? Âm thanh, màu sắc, mức độ gió ra sao? Sấm? Chớp?… Mưa
làm cho cảnh vật ra sao?
Sau đó, giáo viên cung cấp hai đoạn văn miêu tả (Viết lên bảng).
Giáo viên hỏi học sinh : Theo em đoạn văn nào tả "quê em chiều
mưa" đoạn văn nào tả "chiều mưa quê em"? qua trả lời của học sinh, giáo
viên giúp các em nắm vững hơn về sự khác nhau trên.
Với những dạng đề trên, nếu học sinh hấp tấp thiếu bình tỉnh sẽ rất
dễ sai đề. Nhất là khi các em được làm một đề (đề a hoặc đề b). Đến khi
làm bài kiểm tra, gặp đề còn lại là các em sẽ lướt qua đề rồi viết y như đã
làm bài ở đề trước. Chính vì điều này nên giáo viên lưu ý các em phải chú
ý cân nhắc từng chữ từng từ, không ghi sai hoặc bỏ sót từ ngữ nào và phải
thận trọng khi gặp dạng đề tương tự đề mình đã làm, giúp các em cảnh
giác để tránh những sai lầm đáng tiếc.
Giữa đọc kỹ đề và đặt câu hỏi xác định đề là một yêu cầu quan trọng
phải tiến hành cùng một lúc: vừa đọc kỹ đề vừa cầm bút gạch chân các từ
ngữ quan trọng trong đề ra. Trong óc vừa hình thành câu hỏi thì câu trả lời
ghi vào giấy nháp. Hai vấn đề đó không thể tách rời nhau. Với học sinh
tiểu học, giáo viên cần hướng dẫn từng chữ, từng cách đặt câu hỏi, cách
ghi giấy nháp như thế nào, ba dạng đề trên cũng là ba dạng hướng dẫn
luyện tập tìm hiểu đề cho các em. Sau khi đã tìm hiểu, xác định được
trọng tâm yêu cầu của đề ra, tiến hành bước 2: tìm và chọn lọc, sắp xếp ý.
Đây là khâu giúp các em hình thành được trọng tâm bài văn trên dạng ý
đầy đủ nên cần hướng dẫn học sinh câu hỏi phù hợp với từng thể loại,
từng dạng đề để học sinh áp dụng cho từng đề cụ thể.
+ Tìm ý
Thông thường học sinh miêu tả hoặc kể, thuật lại một cách chung
chung đại khái mà thiếu những yếu tố riêng, cụ thể.
Ví dụ 4:
Ở lớp 4:
Tả cây bàng thì: lá bàng to, màu xanh…
Tả cây chuối tiêu: lá chuối màu xanh, rất to…
Cây tre: lá tre màu xanh rung rinh trước gió…
Thực chất, cây nào cũng có lá màu xanh hoặc rất nhiều cây lá to,
màu xanh, có thân, cành, cội rễ… phần lớn có hoa, quả…
Hoặc ở lớp 5: Tả người: ai cũng có đầu, chân, tay, mặt mũi… cho
nên, đa số học sinh làm chung chung.
Vậy, hệ thống câu hỏi tìm ý, giáo viên phải hướng dẫn làm thế nào
để các em linh hoạt sao cho phù hợp với yêu cầu đề, qua đó, phân biệt
được cây này với cây kia, con này với con kia, người này với người khác.
Trong phần này giáo viên cũng phải cho một số đề cụ thể để vừa làm
ví dụ vừa luyện tập tìm ý:
Ví dụ 5:
a/ Tả con trâu.
b/ Tả con mèo.
Giáo viên ghi 2 đề thành 2 cột trên bảng để hệ thống các ý tìm hiểu
song song nhau nhằm giúp các em nhận thấy được sự khác nhau giữa các
loài vật (giáo viên yêu cầu các em nêu câu hỏi và trả lời, lớp nhận xét bổ
sung, giáo viên chốt lại, ghi bảng).
Câu hỏi bao quát: lông mèo màu gì? Dày hay thưa? Mềm hay cứng?
Lông trâu có giống lông mèo không? Mèo thì ta có nhìn thấy da không?
Còn trâu thì sao? Da trâu màu gì? Đầu mèo như thế nào? Tai ra sao? Còn
mắt mèo? Mũi, miệng? Đầu, tai, mắt, mũi miệng của trâu khác của mèo
như thế nào? Mỗi câu trả lời đúng của học sinh, giáo viên ghi bảng theo
2 cột để học sinh dễ phân biệt.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo hệ thống câu hỏi, giáo viên
có thể kết luận: "loài vật đa số có đầu, thân, lông, chân, đuôi…nhưng mỗi
loài mang những nét đặc điểm riêng biệt. Cây cối, con người cũng thế. Cho
nên chúng ta cần tìm ý tả thật cụ thể để làm toát lên những nét riêng biệt
đó".
Khi đã làm hết ý, giáo viên gợi ý tiếp: Còn ý nào nữa không? Để
buộc các em suy nghĩ và liệt kê hết các ý cần tả, cần thuật lên giấy nháp.
Sau đó giáo viên hệ thống lại bằng những câu hỏi: đối với dạng đề miêu tả
thì các câu hỏi phải nhằm vào cảnh gì? Bộ phận, đường nét gì? Màu sắc,
hương vị, âm thanh, hoạt động như thế nào?
Đối với tường thuật: Việc gì? Làm việc gì trước, làm việc gì sau?
Làm như thế nào? Các thao tác ra sao? Âm thanh? Động tác? Suy nghĩ?
Tâm trạng? Và cảnh vật xung quanh như thế nào?
Đối với kể chuyện: Diễn biến câu chuyện ra sao? Cần thể hiện các chi
tiết như thế nào? Diễn biến tâm lý nhân vật được bộc lộ qua những hành
động ra sao? Hoặc nhân vật sẽ xử lý như thế nào trước những tình huống?
Tất nhiên, giáo viên yêu cầu học sinh phải có vở nháp để ghi lại những ý trả
lời đó.
Luyện tập: giáo viên cho 1 đề cụ thể. Yêu cầu cả lớp thầm đặt câu
hỏi trong vở nháp (một bên là câu hỏi, một bên là câu trả lời). Sau đó, gọi
vài em trình bày phần câu hỏi - trả lời; giáo viên ghi các ý lên bảng - gọi
một số học sinh bổ sung những ý còn thiếu - giữ nguyên hệ thống các ý đó
để làm ví dụ minh họa cho nội dung tiếp theo.
+ Chọn lọc ý
Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp (giáo viên ghi
các ý lên bảng), giáo viên hướng dẫn học sinh tập chọn ý theo hệ thống
câu hỏi: theo các em, những ý kiến trên, ý nào không quan trọng cần lược
bỏ? Ý nào cần tả (hoặc thuật, kể…) lướt qua vài ba câu? Ý nào cần tập
trung tả (hoặc thuật, kể…) kỹ sâu hơn? Tại sao lại không tả (hoặc thuật,
kể…) hết toàn bộ? Tả (hoặc thuật, kể…) một số cảnh (người, vật, sự
việc…) và tả kỹ (…) như vậy nhằm mục đích gì?
Khi học sinh trả lời xong, giáo viên tổng hợp, bổ sung thêm: nếu tất
cả các cảnh (hoặc bộ phận trong 1 cây, 1 người, 1 con vật, 1 đồ vật) hoặc
việc làm, thao tác trong công việc cụ thể đều được tả (hoặc thuật, kể…)
một cách đầy đủ, kỹ càng, chi tiết thì: bài làm sẻ dàn trãi, lan man, dài
dòng gây nhàm chán và mất thời gian; nếu chỉ lướt qua tất cả thì bài làm
sẽ nông cạn, hời hợt, thiếu sâu sắc, không cô đọng. Vậy nên, cần chọn lọc
ý, xác định ý nào không quan trọng cần bỏ hoặc lướt qua vài câu, ý nào
quan trọng làm nổi bật trọng tâm yêu cầu đề thì xoáy sâu hơn để bài văn
trở nên cô đọng, hấp dẫn.
+ Sắp xếp ý
Sau khi đã chọn lọc, cần có sự sắp xếp ý xem ý nào (cảnh nào, bộ
phận nào hoặc sự việc, thao tác nào?) cần viết trước, ý nào (…) cần viết
sau sao cho hợp lý và có tính thuyết phục. Vấn đề sắp xếp ý cần có sự linh
hoạt tùy theo đề bài cụ thể, tùy theo góc độ quan sát và chú ý của từng em
đối với đối tượng của mình. Có em tả ngôi trường từ ngoài vào nên ý tả
cổng trường rồi đến sân trường, đến cột cờ… có em lại tả từ phòng học tả
ra; có em lại tả cột cờ trước… khi tả người lại tùy theo đối tượng người đó
có thể theo nghề nghiệp, công việc, hoặc tuổi trẻ… để chọn điểm nào để
tả trước. Không nên theo khuôn mẫu, công thức nhất định từ đầu đến
chân.
Ví dụ 6: Tả bạn học sinh đang đá bóng thì nên chọn tả hoạt động của
đôi chân, vì lúc này chân nổi bật nhất; hoặc tả ông em đang sửa vườn rau
thì tả đôi tay trước. Có khi tả người già thì có thể tả mái tóc bạc trắng
trước cũng có thể da nhăn nheo hay từ giọng nói phều phào, từ đôi tay run
run… tùy theo chủ đích của người tả.
Tất cả: tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình hoạt động của trí óc giúp cho
bài làm trở nên chặt chẽ và nổi bật trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài
viết hấp dẫn mang phong cách riêng chứ không rập khuôn theo một khuôn
mẫu.
+ Luyện tập tổng hợp:
Luyện tập tổng hợp là yêu cầu không thể thiếu sau khi hướng dẫn các
em theo những quy trình trên. Ngoài những đề luyện tập minh họa cho
mỗi phần, giáo viên ra 1 bài tập tổng hợp, yêu cầu các em thực hiện đầy
đủ các bước đã hướng dẫn.
Cần lưu ý các em, quá trình đặt câu hỏi là quá trình diễn ra trong óc,
không ghi vào giấy nháp mà chỉ ghi những câu trả lời vào giấy nháp thôi.
+ Giáo án thực nghiệm: Tập làm văn lớp 5
Bài: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH
Tiết 1 Tuần 8
I. Mục tiêu:
1. Kiến thức: Biết lập dàn ý cho bài văn miêu tả một cảnh đẹp ở
địa phương - Một dàn ý với các ý riêng của mỗi học
sinh.
2. Kĩ năng: Biết chuyển một phần trong dàn ý đã lập thành đoạn
văn hoàn chỉnh (thể hiện rõ đối tượng miêu tả, trình
tự miêu tả, nét đặc sắc của cảnh; cảm xúc của người
tả đối với cảnh).
3. Thái độ: Giáo dục HS ý thức được trong việc miêu tả nét đặc
sắc của cảnh, tả chân thực, không sáo rỗng.
II. Chuẩn bị:
- Thầy: Giấy khổ to, bút dạ - Bảng phụ tóm tắt những gợi ý giúp
học sinh lập dàn ý.
- Trò: Một số tranh ảnh minh họa cảnh đẹp của đất nước.
III. Các hoạt động:
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
1.Bài cũ: - Kiểm tra việc chuẩn bị bài ở
nhà của học sinh.
2.Bài mới:
a/Giới thiệu bài mới
Các em đã quan sát một cảnh đẹp của
địa phương. Trong tiết học luyện tập tả
cảnh hôm nay, các em sẽ lập dàn ý cho
bài văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương
b/ Phát triển các hoạt động:
* Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh
Tìm hiểu nắm chắc đề bài:
Phương pháp: Đàm thoại
- Giáo viên ghi đề bài lên bảng.
Đặt câu hỏi để gợi ý học sinh tìm ra yêu
cầu trọng tâm của đề bài.
- Thể loại
- Kiểu bài
- Đối tượng miêu tả
- Trọng tâm
- Cảnh đó diễn ra ở đâu? Lúc nào?
Giáo viên vừa gợi ý vừa gạch chân các
từ quan trọng của đề bài.
* Hoạt động 2: Học sinh trình bày
những điều đã quan sát được sắp xếp
thành ý:
Phương pháp quan sát, thực hành
Giáo viên vừa gợi ý HS vừa đ
ặt câu hỏi
- Đã quan sát tỉ mỉ chưa?
- Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa?
- Đã có trọng tâm chưa?
- HĐ nào được tả chính?
- Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa?
- Đã bộc lộ được cảm xúc khi miêu tả
- Hoạt động lớp
- Học sinh theo dõi, trả lời.
- Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần
thiết.
- Hoạt động lớp
- Học sinh lần lượt trả lời
- Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần thiết
chưa?
- Hướng dẫn HS Tìm ý, chọn lọc ý, sắp
xếp ý
* Hoạt động 3: Lập dàn ý miêu tả một
cảnh đẹp của địa phương.
Phương pháp bút đàm
- Giáo viên phát bút dạ và phiếu học tập
cho các nhóm làm bài
- Giáo viên gợi ý
+ Dàn ý gồm mấy phần?
+ Dựa trên những kết quả quan sát, lập
dàn ý cho bài văn với đủ 3 phần.
- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh
tham khảo bài.
+ Vịnh Hạ Long / 81,82: xây dựng dàn
ý theo đặc điểm của cảnh.
+ Tây nguyên / 82,83: xây dựng dàn ý
theo từng phần, từng bộ phận của cảnh.
- Hoạt động nhóm
- 1 học sinh đọc yêu cầu
- Các nhóm làm bài
- Đại diện các nhóm trình bày.
- Các nhóm khác theo dõi nhận xét , đánh
giá.
- 3 phần (Mở bài – Thân bài – Kết bài)
Mở bài: Giới thiệu cảnh đẹp được chọn
tả là cảnh nào? Ở vị trí nào trên quê
hương? Điểm quan sát, thời điểm quan
sát?
Thân bài:
a/ Miêu tả bao quát:
- Chọn tả những đặc điểm nổi bật, gây ấn
tượng của cảnh: Rộng lớn - bát ngát -
đồng quê Việt Nam.
b/ Tả chi tiết:
- Lúc sáng sớm:
+ Bầu trời cao
+ Mây: dạo quanh, lượn lờ
+ Gió: đưa hương thoang thoảng, dịu
dàng đưa lượn sóng nhấp nhô
+ Cây cối: lũy tre, bờ đê òa tươi trong
nắng sớm.
+ Cánh đồng: liền bờ - ánh nắng trải đều
Giáo viên nhận xét, bổ sung
* Hoạt động 3: Dựa theo dàn ý đã lập,
viết một đoạn văn miêu tả cảnh thiên
nhiên ở địa phương
Phương pháp bút đàm + Phương pháp
phân tích, tổng hợp
- Giáo viên nhắc:
+ Nên chọn 1 đoạn trong thân bài để
chuyển thành đoạn văn.
+ Phần thân bài có thể gồm nhiều đoạn
hoặc một bộ phận của cảnh.
+ Trong mỗi đoạn thường có 1 câu văn
nêu ý bao trùm toàn đoạn. Các câu
trong đoạn phải cùng làm nổi bật đặc
điểm của cảnh và thể hiện được cảm
xúc của người viết.
- Giáo viên nhận xét đánh giá cao
những bài tả chân thực, có ý riêng,
không sáo rỗng.
* Hoạt động 4: Củng cố
Phương pháp: Đàm thoại
- ô vuông - nhấp nhô lượn sóng - xanh lá
mạ.
+ Trời và đất - hoạt động con người - lúc
hoàng hôn.
+ Bầu trời: mây - gió - cây cối - cánh
đồng - trời và đất - hoạt động người.
Kết bài:
Cảm xúc của em với cảnh đẹp quê hương
- Học sinh lập dàn ý trên nháp - giấy khổ
to.
- Trình bày kết quả
- Hoạt động lớp, cá nhân
- 1 học sinh đọc yêu cầu
- Lớp đọc thầm, đọc lại dàn ý, xác định
phần sẽ được chuyển thành đoạn văn.
- Học sinh viết đoạn văn
- Một vài học sinh đọc đoạn văn
- Lớp nhận xét
Giáo viên đánh giá
c/ Tổng kết - dặn dò:
- Về nhà hoàn chỉnh đoạn văn, viết vào
vở
- Chuẩn bị: Luyện tập tả cảnh: Dựng
đoạn mở bài - Kết luận.
- Nhận xét tiết học
- Hoạt động lớp
- Bình chọn đoạn văn giàu hình ảnh, cảm
xúc chân thực.
- Lớp nhận xét, phân tích
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp:
Quá trình này không chỉ có tác dụng riêng đối với môn Tập làm văn
mà nếu áp dụng tốt, biết triệt để vận dụng thì ngay tất cả các môn học
khác nó đều phát huy tác dụng.
Giáo viên muốn thực hiện tốt quá trình này phải coi việc tìm hiểu đề,
tìm ý, chọn và sắp xếp ý là nguyên tắc không thể thiếu trong quá trình làm
bài của học sinh. Tất cả các bài tập làm văn của các em không thể thiếu
phần này. Và trong phần này phải vạch từng ý, có dấu hiệu nhấn mạnh ở ý
trọng tâm, có số thứ tự mà các em sắp xếp trước khi làm thế nào để rèn
luyện một thói quen tốt cho các em trong khâu làm bài.
Muốn vậy giáo viên phải thật nghiêm khắc, kiên quyết, dứt khoát và
có sự động viên kịp thời trong kiểm tra, đánh giá, cho điểm ở bài làm của
các em.
Khi chấm bài phải rà lại các ý trong bài làm xem có theo đúng trình
tự các ý các em đã chọn và sắp xếp ở phần tìm hiểu đề, tìm ý không. Nếu
đúng, đánh giá cho điểm thực chất cộng thêm điểm khuyến khích. Nếu
không, yêu cầu về làm lại - giáo viên kiểm tra chưa đạt vẫn yêu cầu làm
lại - cho đến khi làm được mới thôi.
d/ Mối quan hệ giữa giải pháp – biện pháp:
Khi lựa chọn các phương pháp dạy học người giáo viên cần biết phối
hợp nhịp nhàng và truyền đạt ngắn gọn để học sinh dễ hiểu, dễ thực
hiện.
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua thực hiện đề tài này tôi đã triển khai giảng dạy tại Trường Tiểu
học Phú Lộc. Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc
đề hoặc làm bài dàn trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã
đúng trọng tâm. Đối với những em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu
sắc về nội dung, chặt chẽ trong lập luận. Do vậy, có một phần không nhỏ
cho thành công của học sinh trong mùa thi.
II.4. Kết quả:
Qua kiểm tra khảo sát trong hai năm học tôi có kết quả như sau:
Tổng số học sinh : 30 em
Bảng 1.1: Kết quả học tập môn Tập làm văn qua các hai năm
của học sinh lớp 5
Đơn vị: %
Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu
2010-2011 10,0 16,7 53,3 20,0
2011- 2012
27,7 35,6 36,7 0,0
Thực tế qua bảng 1.1 có thể cho chúng ta thấy, thành tích học tập của các
học sinh qua 2 năm, năm 2010-2011 khi chưa áp dụng SKKN và 2011-