Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH hđh ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.63 KB, 37 trang )

GIỚI THIỆU
Đề tài: "Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH -
HĐH ở Việt Nam hiện nay".
1. Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1.
2. Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương
3. Mục tiêu của đề tài:
Mục tiêu của đề tài: Nêu lên thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về mặt thời gian nên đề tài nghiên cứu cảu nhóm chúng em tập trung
vào phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng về tình hình và chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam từ 1986( đổi mới) tới nay nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục.
Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong đất nước Việt Nam.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa
1 XHCN Xã hội chủ nghĩa
2 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3 CMKT Chuyên môn kỹ thuật
4 NQTW Nghị quyết trung ương
BỐ CỤC:
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Nội dung
A Cơ sở lí thuyết
I Tổng quan về sự nghiệp CNH, HĐH.
1 Khái niệm CNH, HĐH
2 Tính tất yếu khách quan và tác dụng của CNH, HĐH ở nước ta
II Mục tiêu nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
1 Khái niệm nguồn nhân lực con người, vai trò của nguồn nhân con người lực trong sự


nghiệp CNH, HĐH.
2 Quan điểm và chủ trương của đảng về phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH,
HĐH
B Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
I Thực trạng nguồn nhân lực nước ta
1 Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực nước ta
2 Những mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta
3 Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước hiện nay.
II Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn yếu
kém.
III Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực nước ta trong sự nghiệp CNH, HĐH.
C Liên hệ: tìm hiểu về việc phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của trường đại học Thương Mại.
Phần 3: kết luận.
Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ 3 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như
lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ
hiện đại, với hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm làm ra,
con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội,
của lịch sử nhân loại, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đó là một khái niệm không hề mới nhưng lại mang một ý
nghĩa vô cùng lớn lao. Đảng ta đã xác định rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nó là bước chuẩn
bị, bước xây dựng hạ tầng cơ sở, xây dựng nền tảng cho nền kinh tế của đất nước. Nhưng
muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải có rất nhiều nguồn lực như: cơ sở
vật chất, kinh tế, chính trị, xã hội,… song nguồn nhân lực chính là nền tảng, là tiền đề
quan trọng. Nguồn nhân lực tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đạt được những bước phát triển nhanh chóng.

` Vấn đề đặt ra là: thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay ra sao? Theo số liệu
thống kê cho biết: Việt Nam chúng ta đang có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước
gần 86 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực. Cơ cấu
Dân số vàng ở nước ta bắt đầu đầu xuất hiện từ năm 2010 và kết thúc vào năm 2040, kéo
dài trong khoảng 30 năm. Rõ ràng chúng ta đang có thế mạnh lớn về nguồn lực lao động
nhưng tại sao chúng ta vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy kinh tế đi lên?
Có nhiều nguyên nhân lí giải cho vấn đề này, trong đó chất lượng nguồn nhân lực hiện
nay được xem là nguyên nhân mấu chốt. Vậy chúng ta phải làm gì để có thể nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực? Đây thực sự là những vấn đề vô cùng quan trọng và cấp
bách. Đó cũng là lý do mà nhóm chúng em quyết định chọn đề tài thảo luận: “ Phát huy
nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay’’
Nội dung
A. Cơ sở lí thuyết
I. Tổng quan về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có
nền kinh tế lạc hậu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển. Kế thừa có
chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công nghiệp hoá vào điều
kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, tại hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VII
(Tháng 1-1994), Đảng ta đã có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm công
nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến
bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
2. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta.
a. Tính tất yếu khách quan
Khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, nước ta trong điều kiện cơ sở vật chất-

kỹ thuật còn ở trình độ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông
nghiệp là chủ yếu, đa số dân cư sống bằng nghề nông nghiệp, cơ cấu nghành nghề
trong nông nghiệp cũng đơn giản – cơ bản là độc canh lúa nước. Nền sản xuất vật chất
của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự cấp tự túc, tỷ xuất hàng
hoá trong nền kinh tế tế thấp. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, nền kinh tế với cơ sở
vật chất – kỹ thuật nói trên khó tồn tại và phát triển bình thường. Cho đến năm 1990,
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 22,6% thu nhập quốc dân, về thu nhập bình quân đầu
người thì nước ta thuộc nhóm nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt hậu xa hơn. Từ tình
hình nói trên, nếu không có sự thay đổi và phát triển thì nền kinh tế không thể tăng
trưởng nhanh, đất nước không thể vượt qua tình trạng nghèo nàn và kém phát triển. Vì
vậy, con đường tất yếu để ta thoát khỏi tình trạng đó là phải tiến hành CNH, HĐH .
Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở nước ta còn do
yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết định. Sản phẩm của nền sản xuất xã hội
không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội nói chung, mà chúng còn phải được đem
bán, chúng phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường, có khả năng giữ vững và mở rộng
thị trường, Do vậy, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phải được sản xuất dựa trên môt
nền tảng vững chắc của cơ sở vât chất – kỹ thuật hiện đại, một cơ cấu lành nghề linh
hoạt, hợp lý, chi phí trên một đơn vị sản phẩm ở mức thấp nhất; phân công lao động ở
trình dộ cao, kỹ thuật hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng
thu lợi nhuận lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế và tham gia vào quan hệ kinh
tế quốc tế ở mức độ cao hơn.Từ đó lại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển hơn nữa.
Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở nước ta
còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm năng quốc phòng của quốc gia chi phối.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự nghiệp bảo vệ, giữ
gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình phức tạp của bầu không khí
chính trị kinh tế hiện nay, các lực lượng phản động trong nước và ngoài nước luôn tìm
mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây
dựng xã hội mới ở nước ta nói chung. Vì vậy chúng ta luôn phải tăng cường, củng cố,
hiện đại hoá lực lượng quốc phòng để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng

bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, để cùng chung sức với các dân tộc bảo vệ nền hoà bình
thế giới, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hiện đại hoá quốc
phòng, tăng sức mạnh vật chất – kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, dành thế chủ động
trong mọi biến động chính trị chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền công nghiệp
hiện đại và một nền kinh tế phát triển mạnh vững chắc.
b. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có tác dụng to lớn
về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức
chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng
lợi của CNXH.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng
cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động
kinh tế - xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến
hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật
chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp
tác quốc tế.
II. Mục tiêu nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
1. Khái niệm nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta.
a. khái niệm:
Hiện nay có nhiều khái niệm về nguồn nhân lực:
Ngân hàng thế giới WB cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực,
trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá
trình sản xuất, kinh doanh hay một hoạt động nào đó.

Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc WTO: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát
triển kinh tế- xã hội trong một cộng đồng.
Qua các ý kiến khác nhau đó chúng ta có thể tóm lược lại nguồn nhân lực là tổng
thể những yếu tố thuộc về thể chất, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội,…
tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá
trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và trong hoạt động của xã hội.
b. Vai trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Theo các nhà kinh tế cổ điển, con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội mà còn là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội. Trong những năm gần đây, nhiều nghị
quyết của Đảng đã đề cập tới vai trò và việc chăm lo phát triển nguồn nhân lực con
người. Đảng ta xác định, để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục
tiêu và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh
tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Không thể thực hiện được công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà
khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo
vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng. Như vậy ta có thể thấy
rằng vai trò của nguồn lực con người là rất to lớn, nó được thể hiện qua 4 điểm sau đây:
 Nguồn nhân lực con người quan hệ với các nguồn lực khác: trong các yếu tố quyết định
đến sự vận động và phát tiển của xã hội thì yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất đó chính là
con người. Lênin đã khẳng định rằng: lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại
là công nhân người lao động. Các nguồn lực khác chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi
kết hợp với nguồn lực con người, thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Nói
cách khác nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động con người thì mọi nguồn lực
khác đều trở nên vô nghĩa. Nhờ có nguồn lực con người mà các nguồn lực khác mới phát
huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
 Trong khi các nguồn lực khác là hữu hạn có thể bị khai thác cạn kiệt thì nguồn lực con
người mà cốt lõi là trí tuệ lại có tiềm năng vô tận, nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về
mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng phát triển về chất lượng con người xã hội.

Nhờ vậy mà con người làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên
mới, nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ
thấp đến cao
 Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn khi được vật thể hóa trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
dẫn đến nền kinh tế của các nước công nghiệp vận động đến nền kinh tế trí tuệ. Rõ ràng
là bằng những kĩ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người tạo ra mà
ngày nay con người đang chứng kiến những biến đổi thần kì trong lịch sử phát triển của
mình.
 Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của nước ta cho thấy sự thành công của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người.
Qua toàn bộ kết luận trên ta có thể kết luận rằng nguồn lực con người có vai trò
quyết định đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy muốn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thành công thì cần đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành văn
hóa, giáo dục, y tế nước nhà nhằm phát triển nguồn lực con người.

2. Quan điểm và chủ trương của Đảng về phát huy nguồn nhân lực trong sự
nghiệp CNH, HĐH:
Trong tiến trình của các cuộc cải biến cách mạng xã hội theo hướng tiến bộ, con
người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Như vậy vai trò của nhân
tố con người được xem như chủ thể của toàn bộ tiến trình cách mạng. Quan niệm này
xuất phát từ một nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Marx: Con người là chủ thể của các
quan hệ xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do con người, vì con
người. Chính vì mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng đó mà khi hình dung trên những nét
đại thể về xã hội tương lai, Marx và Engels đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Con
người là chủ thể xây dựng, đồng thời là kết quả của sự phát triển xã hội đó.
Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng cũng là nhằm đạt tới mục tiêu cao cả trên. Để đạt tới mục tiêu đó,
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước. Tức là phải bằng mọi cách phát huy vai trò tích cực của con người Việt Nam cho
sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải tìm những giải pháp tốt
nhất nhằm phát huy nhân tố con người – chủ thể của toàn bộ tiến trình đó. Nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố đó, trong các nghị quyết ban chấp hàng trung ưng Đảng
khóa VII, VIII, IX, X, Đảng ta luôn đánh giá cao việc phát huy nguồn nhân lực con người
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước:
- Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: Cùng với khoa
học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy. Như
vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có tính xã hội hóa cao. Nền giáo dục và đào tạo tốt sẽ
cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do
vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh
thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước,
không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường.”
- Tiếp theo đến đại hội thứ IX đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục và đào tạo là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", thực hiện "giáo dục cho mọi người",
"cả nước trở thành một xã hội học tập". Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.”
- Đại hôi X xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để
tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình

độ giáo dục của khu vực và thế giới; Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây dựng nền giáo dục hiện
đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
B. Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta
hiện nay.
I. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta:
1. Những thế mạnh, ưu điểm của nguồn nhân lực nước ta:
a) Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào
Theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số nước
ta là 85.789 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới, xếp thứ 7 ở khu vực châu Á và xếp thứ
2 trong khu vực Đông Nam Á. Tốc độ tăng dân số bình quân thời kì 1999 – 2009 là 1.2%.
Trong tổng dân số, dân số thành thị 25,4 triệu người, chiếm 29,6% tổng dân số; dân số
nông thôn 60,4 triệu người, chiếm 70,4%. Tỷ lệ giới tính nước ta năm 2009 ở mức 98,1
nam trên 100 nữ. Quy mô dân số lớn, phát triển nhanh, dự báo đến năm 2020 quy mô dân
số sẽ đạt khoảng 100 triệu và đến 2050 sẽ đạt khoảng 123 triệu người.
Dân số trong độ tuổi lao động nước ta là 55 triệu người, dự báo đến năm 2015 sẽ
có khoảng 64,3 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 62,8% tổng dân số. Với quy mô
lực lượng lao động như vậy, Việt Nam đã bước vào thời kỳ đỉnh cao về số lượng dân số,
đó là thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Đây là “cơ hội vàng” cho Việt Nam phát triển, tận
dụng nguồn nhân lực vô cùng quý giá để phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo kịp sự phát triển với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên là 56.7% so với tổng
số lao động trong độ tuổi, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên
là 27,8%. Điều đó cho thấy nước ta có nguồn nhân lực dồi dào.
Cụ thể: Tính đến hết năm 2009:
- Nguồn nhân lực từ nông dân:
Chiếm khoảng hơn 61 triệu người, bằng khoảng 73% dân số cả nước. Số liệu trên đây
phản ánh một thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội.
- Nguồn nhân lực từ công nhân:

Về số lượng giai cấp công nhân ở Việt nam có khoảng 5 triệu người chiếm 6% dân
số của cả nước, trong đó công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước khoảng 2 triệu
người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân cả nước; lực lượng công nhân của
khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực
lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi và lực lượng công
nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên.
Số công nhân xuất khẩu lao động cũng liên tục tăng, từ năm 2001 đến 2006, Việt
Nam đã đưa gần 357 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ,
tăng gấp 4 lần so với thời kì 1996 – 2000(95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam
làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng
lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. Chúng ta không chỉ thực hiện việc xuất khẩu lao
động sang các thị trường truyền thống như Ma-lai-xi-a, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,
các nước Trung Đông và Bắc Phi mà còn mở rộng thị trường ra các nước có nhiều tiềm
năng như các nước châu Âu, châu Úc, Bắc Mỹ… hằng năm thu về hàng triệu đô la từ
xuất khẩu lao động. Việc xuất khẩu lao động còn là cơ hội tốt để xây dựng thương hiệu
nguồn nhân lực của Việt Nam, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động. Đây là
thời cơ tốt nhất cho nguồn nhân lực phát triển.
- Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức:
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức thì đội ngũ trí
thức của Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển
nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm.
Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn
người,
Tốc độ tăng lượng sinh viên ĐH, CĐ tại Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2007)
Cả nước đến nay có 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó
giáo sư; 16.000 người có trình độ thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học công nghệ
; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó 49% có trình độ thạc sĩ trở lên, gần
14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề, 925.000 giáo viên
dạy phổ thông; gần 9000 tiến sĩ được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý và 30%

thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người
trong tổng số 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại
một số trường đại học trên thế giới.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức nói trên, nguồn nhân lực là công chức, viên
chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành cũng tăng nhanh:
Nghìn người
Như vậy, với nguồn nhân lực dồi dào việc thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta
sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, nhiều dự án đầu tư cần nguồn nhân lực lớn đã được triển khai
ở nước ta như: may mặc, da giày, chế biến thủy hải sản, cơ khí, điện tử, điện lạnh… giải
quyết công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động xã hội
b) Tỉ trọng lao động trẻ cao
Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Lao động trẻ
sẽ có sức bật nhanh, thuận lợi cho việc đào tạo phát triển, nâng cao trình độ, tiếp thu
nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Nước ta là 1 trong số ít những quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi
của dân số và lao động khá lý tưởng: nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%; nhóm
người ở độ tuổi trung niên tử 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%; số nhân lực cao tuổi chiếm
hơn 7%. Mỗi năm Việt Nam có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung
vào lực lượng lao động của đất nước.
Nguồn nhân lực trẻ với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu
cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo
nghề họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yếu tố rất
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Người
c) Thể lực và trí lực của nguồn nhân lực ngày được nâng cao
- Tình trạng sức khỏe của người Việt nam vẫn ở mức Trung bình, nhưng đang ngày một
cải thiện:
Gần đây đã có một số công trình phân tích khuynh hướng thể lực về tăng trưởng ở
người Việt Nam (cả trẻ em và người lớn) từ sau chiến tranh nhất là từ thời kỳ đổi mới đến
nay và nhận định có khuynh hướng gia tăng tăng trưởng. Đó là một biểu hiện đáng mừng

về chất lượng nòi giống được cải thiện. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em đang
giảm dần, năm 1985 là 59,7% , năm 2009 là 31,9%. Như vậy, giảm suy dinh dưỡng thấp
còi đi song song với gia tăng tăng trưởng.
Theo chương trình nâng cao tầm vóc và thể trạng của người Việt Nam, kết thúc
giai đoạn I (đến năm 2010) chiều cao thân thể trung bình của nam thanh niên 18 tuổi sẽ
đạt từ 165-166 cm, nữ đạt 154-155 cm. Theo phân tích của các nhà chuyên môn hiện tại
chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam là 1,65m, nữ là 1,53m. Sau 25 năm
chiều cao trung bình của người Việt Nam đã tăng 6,14 cm ở nam và 4,88cm ở nữ. Đó là
dấu hiệu đáng mừng, đáng khích lệ trong việc chăm sóc sức khoẻ của nước ta.
- Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được nâng lên
đáng kể:
Nếu như năm 1985, tỷ lệ lao động có học vấn phổ thông là 42.5% thì năm 2003,
lao động có học vấn phổ thông trung học chiếm 62.2%, năm 2005 tăng lên đến 69.3% và
đến nay tỷ lệ lao động có học vấn phổ thông chiếm khoảng 73%.
Chất lượng về trí thức của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn
mà quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật , thông qua số lượng và chất lượng
lao động đã qua đào tạo. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng lên:

Biểu đồ: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ CMKT ở Việt Nam
d) Phẩm chất tâm lý, xã hội của nguồn nhân lực Việt Nam
Nhìn chung nguồn nhân lực Việt Nam vẫn được các nhà đầu tư nước ngoài đánh
giá cao vì có những phẩm chất vượt trội như: hiếu học, thông minh, cần cù, chịu khó,
khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kĩ năng sử dụng các công
Số liệu thống kê lao động ở Việt nam năm 2005
nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế canh tranh quan trọng của nguồn nhân lực
nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế.
 Với những lợi thế trên, Đảng ta đã phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong sự
nghiệp CNH, HĐH như thế nào?
Đảng ta đã nhận thức và phát huy cao độ nhân tố con người đối với sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã cụ thể hóa, bổ
sung, phát triển và làm sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một là, đặc trưng về con người XHCN nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) được diễn đạt gọn hơn song vẫn đảm bảo đúng bản chất của xã hội XHCN mà
chúng ta xây dựng. Đó là: “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện”.
Điểm mới trong tư duy của Đại hội Đảng lần thứ XI là, một mặt, khẳng định vai
trò chủ thể của con người, mặt khác chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện
và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ của mình.
Bởi lẽ dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của con người. Đồng thời một khi dân chủ được đảm bảo đầy đủ sẽ tạo ra sự
đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực phát triển đất nước.
Hai là, Đảng ta lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm
2020. Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ, để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tức là, chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều rộng sang chiều
sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của nguồn nhân lực. Song Đại hội Đảng lần
thứ X cũng như các kỳ đại hội trước chưa xác định đó là khâu đột phá, là những khâu
trọng yếu của sự phát triển. Lựa chọn đúng khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những
điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả
các nguồn lực cho phát triển. Trong ba khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao" được xem là
khâu đột phá thứ hai.
Ba là, đặt ra yêu cầu phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Đối với Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này là yêu cầu
nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề sống còn của sự nghiệp đổi
mới ở nước ta. Do vậy, “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và

ứng dụng khoa học, công nghệ” là một nội dung mới thể hiện tính hướng đích của Đảng
ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững.
2. Những mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta:
Nguồn nhân lực nước ta có nhiều ưu điểm, thế mạnh của mình song bên cạnh nó
cũng còn tồn tại rất nhiều hạn chế:
a. Về số lượng nguồn lực con người:
Theo số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy lực lượng lao động tăng thêm
hàng năm trên 1 triệu lao động cộng với trên 2 triệu lao động chưa có việc làm ở nông
thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm sấp xỉ 8 triệu chỗ làm việc. Như
vậy, ta có thể thấy rằng, quy mô dân số và lực lượng lao động ở nước ta gia tăng ở mức
cao dẫn đến sức ép về việc làm hiện nay là rất lớn. Quy mô dân số đông, lực lượng dồi
dào, đó là sức mạnh quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng
đối với các nước chậm phát triển trong đó có nước ta, khả năng mở rộng và phát triển sản
xuất rất hạn chế, nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu thiếu thốn, cơ sở hạ tầng
yếu kém…thì nguồn lao động đông, thiếu việc làm là bài toán nan giải mà nước ta đã,
đang và sẽ tiếp tục giải quyết trong những thập kỷ tới.
b. Về chất lượng nguồn lực con người:
Chất lượng con người quyết định sức mạnh của nguồn lực con người, nó bao gồm
các yếu tố: thể lực, trí lực, và những phẩm chất đạo đức – tinh thần của con người:
Về thể lực:
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tầm vóc và thể lực của con người Việt Nam
đang được cải thiện nhưng vẫn còn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và
so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta. Với mức thu nhập thấp mà tốc độ
tăng dân số vẫn cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân lại thấp
nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống, trong đó có vấn đề giáo
dục và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở và các ngành
sản xuất cũng như trong một số ngành hành chính sự nghiệp của nước ta còn rất khắc
nghiệt, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại
vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có
chiều hướng tăng nhất là khu vực kinh tế tư nhân và hợp tác xã.

Về trí lực:
Phải khách quan thừa nhận rằng năng lực chuyên môn, trình độ tay nghề, khả năng
biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động Việt Nam còn hạn
chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình CNH – HĐH đất nước. Thêm vào đó
chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp làm việc đúng ngành
nghề đào tạo. Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực
nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ, nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hoặc làm
không đúng nghề, họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm.
Phải chăng đào tạo nguồn nhân lực nước ta chưa thực sự hợp lý?
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên
tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng
chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo
nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất
hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp
là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10.
=>Câu chuyện muôn thuở: Thầy nhiều hơn thợ! Hãy xem Tập đoàn Samsung của
Hàn Quốc ở Việt Nam hiện nay họ bố trí cơ cấu lao động: cứ 100 lao động có 4,5% kỹ
sư; 16,7% trung cấp; 65,8% công nhân kỹ thuật; 13% lao động phổ thông. Những số liệu
trên đã nói lên sự bất hợp lý trong cơ cấu nền giáo dục – đào tạo, vì nó tạo ra hình tháp lật
ngược "Thầy nhiều hơn thợ" là như vậy.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực
của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB)
trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
Mất cân đối về ngành nghề: Đào tạo công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp,
còn tỷ trọng các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Thiếu nhiều công nhân
kỹ thuật lành nghề, trước hết là trong các ngành trọng điểm (cơ khí, điện tử - kỹ thuật
điện, hóa chất ) và ở các khu công nghiệp lớn, các khu kinh tế mới. Ngoài ra, nước ta
cũng còn thiếu nhiều nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng như:

Nghiên cứu hoạch định chính sách, tư vấn luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế), chuyên
gia cao cấp về quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, thương mại quốc tế và lao động
kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam cũng chưa sở hữu hay làm chủ được bất kỳ công nghệ
nguồn, công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực công nghệ cao (CNC). CNC hầu như còn
vắng bóng ở hầu hết các ngành kinh tế.
c.Về phẩm chất đạo đức – tinh thần của người Việt Nam:
Xem xét chất lượng nguồn lực không thể không nói đến đạo đức, tư tưởng, văn
hóa, tâm lý, tình cảm, tính cách… của con người. Nó thúc đẩy tích cực và làm gia tăng
hiệu quả hoạt động của con người. Những phẩm chất đạo đức tinh thần trên không chỉ do
tồn tại xã hội đồng thời chi phối mà nó chịu ảnh hưởng dai dẳng của xã hội trước, nhất là
khi đã trở thành truyền thống.
3. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
Thực trạng trên cho thấy thị trường lao động nước ta tuy rất dồi dào nhưng lao
động đã qua đào tạo thấp, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu
thuẫn giữa lượng và chất. Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân,
công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực
hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đang xảy ra tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp, công nhân kỹ thuật có
tay nghề, các chuyên gia giỏi về kinh tế, các nhà doanh nghiệp giỏi. Báo chí nước ngoài
thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp
thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực này lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa
bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế – xã hội Việt Nam. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách
xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng…. Các
vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một cách cơ bản. Không thể nói đến nhân lực
chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp
kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả
năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin kém…
II. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam

còn yếu kém.
Thứ nhất, mặc dù kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh theo hướng CNH, HĐH
nhưng nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Tính đến hết năm 2007, tỷ
trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (29,6%), số lao động trong các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo
chiếm một tỷ lệ đa số. Tính chất nông thôn và sự phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp thể
hiện ở một tỷ trọng lớn trong tổng số người có việc làm nằm ở hai nhóm chỉ số về vị thế
việc làm, đó là lao động tự làm và lao động gia đình không được trả công, trả lương. Hai
nhóm lao động này chiếm khoảng từ 2/3 đến 3/4 tổng số người có việc làm năm 2009, có
nghĩa là một tỷ lệ lớn trong tổng số việc làm là dễ bị tổn thương, có nguy cơ thiếu việc
làm bền vững. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những nguyên nhân cơ bản
đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm
qua còn quá nhiều bất cập:
- Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ít nhất là đến năm 2020
- Chất lượng thấp, mâu thuẫn giữa lượng và chất cao dẫn đến khi sử dụng thì “thừa thầy
thiếu thợ”
- Phát triển không đồng đều có yếu tố chia cắt và phân vùng kiểu hành chính, thiếu sự
cộng lực và hợp tác, còn thiếu và rất yếu tính chất tham gia công việc nhóm hay tập thể.
Thứ ba, sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực
ở Việt Nam hiện nay. Chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề
còn cứng nhắc theo khuôn khổ chung cố định, không có sự linh hoạt cho phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của xã hội ngày một thay đổi và tăng cao. Các phương pháp dạy và học của
chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng nề về lý thuyết,
nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập.
Người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì
người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của
mà còn lãng phí về thời gian đối với người học… Ngoài ra còn nhiều vấn đề tiêu cực

trong việc đào tạo bằng cấp, trong việc tuyển dụng lao động…dẫn đến việc chất lượng
lao động cao đôi khi chi là hình thức, nhãn mác. Mặt khác, Cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất
là trang bị thí nghiệm, thực hành của nhà trường đã thiếu, lại lạc hậu với thực tiễn sản
xuất. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục.
Tình trạng tách rời giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với cơ quan nghiên cứu triển khai và
các doanh nghiệp còn khá phổ biến. Nhiều nghị quyết của Đảng về giáo dục, nhất là
NQTW 2 (khoá 8) và Kết luận của Hôi nghị TW6 (khoá 9) chậm được thể chế hoá về mặt
nhà nước, chậm đi vào cuộc sống.
Thứ tư, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn nhân lưc,từ đó chưa có định
hướng phát triển rõ ràng,hiệu quả và chiến lược. Xưa đến nay, chúng ta vẫn quan niệm và
tự hào "đất nước Việt Nam là rừng vàng biển bạc”, mà không coi trọng đến yếu tố hay tài
nguyên lớn và đáng tự hào nhất, có thế xây dựng, cải tạo và phát triển được đó là yếu tố
con người, nguồn nhân lực Việt. Chính vì vậy việc phát triển, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực còn chưa được định hướng rõ ràng và triệt để. Hiệu quả từ việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đem lại còn chưa cao.
III. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực nước ta trong sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới là “ đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.” Để triển khai và thực hiện quan điểm trên cần xác định: việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy phát triển
KT-XH của đất nước, trong đó nâng cao mặt bằng dân trí chính là nền tảng để phát triển
nguồn nhân lực; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực có trình độ cao và tăng cường công tác quản
lý là nhiệm vụ có tính chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
1. Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế
Cần thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế và
chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nói cách khác, các nhà hoạch định và tổ
chức thực hiện chính sách khi đưa ra chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rõ nhu cầu,
điều kiện yêu cầu về nguồn nhân lực đồng thời cơ quan lập chiến lược phát triển nhân lực

coi đây là thông tin đầu vào cơ bản để có hướng xác định đúng đắn.
Áp dụng chiến lược này trong thực tế, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường
và doanh nghiệp, giữa Bộ GD-ĐT và các Bộ, ngành, địa phương khác. Ngày 19/4/2011,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược
phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa
phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch
phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các
biện pháp, hành động cụ thể.
Phát triển nhân lực phải kết hợp hài hòa đảm bảo công bằng và lợi ích quốc gia
với sử dụng cơ chế và những công cụ của kinh tế thị trường trong phát triển và sử dụng
nhân lực. Đặc biệt, phải chuyển nhanh hệ thống đào tạo nhân lực sang hoạt động theo cơ
chế đào tạo theo nhu cầu của xã hội và thị trường lao động, nhất là các ngành trọng điểm.
2. Chính sách xã hội
Nhà nước và Doanh nghiệp cần xây dựng 1 chế độ đãi ngộ xứng đáng với nhân
lực theo mức độ cống hiến và khả năng phát triển trong tương lai. Chính sách tiền lương
được xây dựng và thực hiện một cách linh hoạt theo tiêu chuẩn tài năng.
Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho phát
triển nhân lực: thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi (gồm những giải pháp ưu đãi về
thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân
lực chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn) để khuyến khích mạnh mẽ các doanh
nghiệp đầu tư cho đào tạo nhân lực với các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ
sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo
trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã hội; tạo
động lực phấn đấu nâng cao chất lượng công việc cũng như thu hút nhân tài trong và
ngoài nước, không để xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” hiện nay. Ví dụ :
Với nguồn lực từ nông dân, cần phải đầu tư nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao
khả năng học tập và sức khoẻ của nông dân để mang lại hiệu quả cao hơn trong nông
nghiệp. Cần có các chính sách khuyến khích nông dân trồng trọt, chăn nuôi, phát huy khả
năng sáng tạo để nền nông nghiệp nước nhà tiến lên mạnh mẽ hơn.
Với nguồn lực từ công nhân, cần tạo điều kiện để đội ngũ công nhân có cuộc sống

khá, no ấm, có điều kiện học tập, chuyên tu để nâng cao tay nghề. Đặc biệt là tổ chức,
đơn vị, Công đoàn cần quan tâm và hỗ trợ đời sống vật chất tinh thần của các công nhân
ngay trong đơn vị mình.
Với nguồn lực từ trí thức, đây là những người có thể đưa ra được những hoạch
định, đưa ra được các chính sách, các đường hướng phát triển trong tương lai của đất
nước. Ngoài chế độ ưu đãi về lương còn có nhiều phương thức khác: cung cấp nhà ở, hỗ
trợ bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao, tạo điều kiện và môi trường làm việc
thuận lợi, du lịch, tín dụng,… Đội ngũ trí thức được xem như tương lai của đất nước nên
việc có những đầu tư cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đội ngũ trí thức được xem
như một sự đầu tư đúng đắn của Đảng ta.
3. Chiến lược phát triển giáo dục
Hệ thống giáo dục hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi. Tỷ lệ chi ngân sách
cho Giáo dục so với GDP của Việt Nam là tương đối cao so với nhiều nước trong khu
vực. Theo số liệu của World Bank, chi ngân sách cho Giáo dục của Việt Nam năm 2009
là 5,2% GDP - cao hơn so với hầu hết các nước trong khu vực ASEAN (Malaysia - dưới
5%; Thái Lan - 4%; Indonesia - 3,5%). Nhưng hệ thống Giáo dục lại chưa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội và các doanh nghiệp, cả về số lượng và chất lượng. Vậy chúng ta phải
làm thế nào để có thể nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo?
* Mở rộng quy mô giáo dục đào tạo các ngành, các cấp từ bậc mầm non, tiểu học
đến cao đẳng, đại học,… và hệ thống dạy nghề, hướng nghiệp. Xây dựng một số cơ sở
đào tạo bậc đại học và dạy nghề đạt trình độ quốc tế để cung cấp nhân lực trình độ cao
cho hệ thống giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước. Nhiều chính sách hỗ trợ học sinh-sinh viên, đặc biệt là học sinh vùng sâu,
vùng xa, hoàn cảnh khó khăn như: giảm học phí, học bổng, vay lãi suất thấp,
* Nâng cao chất lượng đào tạo theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực làm việc độc lập, sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc
học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia
đình, nhà nước và xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục là khâu đột phá. Phát triển đội

ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt.
* Xây dựng và triển khai Chương trình đào tạo và chính sách trọng dụng nhân tài
trong các lĩnh vực, đặc biệt là hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành
trong quản lý hành chính, ngoại giao và kinh tế đối ngoại, quản trị kinh doanh, giáo dục,
đào tạo, khoa học - công nghệ, tư vấn hoạch định chính sách, pháp lý, y học, văn hóa,
nghệ thuật.
4. Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế
Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế để đẩy nhanh đào tạo nhân lực, trước hết tập
trung ưu tiên cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế và nhân lực các
ngành trọng điểm, các nghề mới hiện đại. Thực hiện hợp tác quốc tế về phát triển nhân
lực theo các hướng chủ yếu sau:
 Hợp tác đào tạo nhân lực chung: tăng cường gửi người Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài
(bằng nguồn ngân sách nhà nước, khuyến khích du học tự túc, khuyến khích các cơ sở
đào tạo trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài
và tranh thủ các nguồn viện trợ quốc tế) gắn với nâng cao hiệu quả và định hướng ngành
nghề (tập trung vào những ngành nghề mới, hiện đại và ngành nghề trong nước chưa đào
tạo được và có đào tạo nhưng chất lượng còn thấp). Đồng thời, chú trọng mở rộng đào
tạo ở trong nước bằng các nguồn lực ở nước ngoài (vốn, công nghệ, đội ngũ giảng viên
…) để nhanh chóng đào tạo các nhóm nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế trong ngắn hạn và
xây dựng được tiềm lực đào tạo hiện đại đạt trình độ quốc tế ở trong nước về lâu dài.
 Hợp tác trong lĩnh vực đào tạo chuyên gia tư vấn: bằng các hình thức đào tạo tập trung và
công việc thực tế, khẩn trương đào tạo đội ngũ chuyên gia tư vấn trong các lĩnh vực
hoạch định chính sách, luật quốc tế, thương mại quốc tế, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng,
quy hoạch đô thị, kiến trúc sư, tổng công trình xây dựng, chuyên gia thiết kế, giám sát thi
công … đạt trình độ quốc tế.
 Hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo chuyên gia quản lý: mở rộng hợp tác quốc tế để đào
tạo đội ngũ nhân lực quản lý hành chính công, quản trị doanh nghiệp, kiểm toán … đáp
ứng yêu cầu đổi mới hành chính nhà nước và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
• Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới của Đảng, Nhà

nước:
Dựa theo Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 của Văn bản
chỉ đạo điều hành : 579/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ, tóm tắt chiến lược này như
sau:
1. Đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực
- Quán triệt quan điểm con người là nền tảng, là yếu tố quyết định nhất trong phát
triển bền vững kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước và sự hưng
thịnh của mỗi đơn vị, tổ chức. Tạo sự chuyển biến mạnh về nhân lực ở tất cả các cấp lãnh
đạo từ Trung ương đến cơ sở và người dân về việc cần phải đổi mới triệt để và có tính
cách mạng trong quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, xây dựng xã hội học tập; về sự
cần thiết phải cải thiện giống nòi, đảm bảo dinh dưỡng và chăm sóc toàn diện sức khỏe
nhân dân; về sự cần thiết phải nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện làm việc.
- Sử dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực thực và kết quả,
hiệu quả công việc.
- Đào tạo nhân lực phải gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao động.
2. Đổi mới căn bản quản lý nhà nước về phát triển và sử dụng nhân lực
- Quy hoạch phát triển nhân lực là nhiệm vụ quan trọng của các Bộ ngành và tỉnh,
thành phố nhằm đảm bảo cân đối về lao động cho sự phát triển của các ngành và địa
phương.
- Đổi mới căn bản cơ chế quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo
theo hướng: hoàn chỉnh các quy định quản lý nhà nước về điều kiện thành lập và chuẩn
mực chung về hoạt động của các cơ sở giáo dục
- Xây dựng bộ tiêu chí về phát triển nhân lực và sáng tạo của các địa phương và
cấp quốc gia. Đánh giá và công bố hàng năm sự phát triển nhân lực theo bộ tiêu chí này.
- Đẩy mạnh phân cấp, thực hiện quyền tự chủ, nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của
các cơ sở đào tạo nhân lực trên cơ sở quản lý của nhà nước và giám sát của xã hội.
- Xây dựng những quy chế, cơ chế, chính sách đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã
hội, gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp
3. Tập trung xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm sau
- Xây dựng một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề đạt trình độ quốc tế.

- Đổi mới đào tạo và chính sách sử dụng cán bộ, công chức gồm: áp dụng các
chương trình đào tạo công chức hành chính tiên tiến, hiện đại theo những tiêu chí, chuẩn
mực quản trị hành chính của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;.
- Xây dựng và triển khai Chương trình đào tạo và chính sách trọng dụng nhân tài
trong các lĩnh vực
- Thực hiện đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là
tiếng Anh.
- Triển khai quyết liệt đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành một nước mạnh về
công nghệ thông tin - truyền thông”, trong đó phát triển và đảm bảo nhân lực là giải pháp
hàng đầu.
- Giảm nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, trong đó tập trung vào dự án dinh
dưỡng học đường kết hợp tăng cường giáo dục thể chất và các hoạt động thể dục - thể

×