Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.05 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Khái niệm 2
1. Khái niệm “Con nuôi” 2
2. Khái niệm “Nuôi con nuôi” 2
II. Điều kiện của việc nuôi con nuôi 3
1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi 3
2. Điều kiện đối với người nhận con nuôi 4
3. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi 6
4. Điều kiện về hình thức 7
III. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi 8
IV. Giải pháp hoàn thiện 10
C. KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
1
1
A. MỞ ĐẨU
Nuôi con nuôi là một là một vấn đề mang tính nhân đạo, nó đóng vai
trò quan trọng khi giải quyết những trường hợp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Chính vì vai trò của nó nên nó cần được đặc biệt chú trọng. Pháp luật Việt
Nam nhận thức được điều đó nên luôn có những sự quan tâm cần thiết đến
vấn đề nuôi con nuôi. Để hiểu rõ hơn về những chính sách ấy, em xin chọn đề
bài số 11: “Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này” làm đề tài nghiên cứu bài tập lớn của mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm
1. Khái niệm “Con nuôi”
Dưới góc độ xã hội, con nuôi là con của người khác nhưng được một,
hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thoả mãn
những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên.


Dưới góc độ pháp lý, con nuôi là người có đủ điều kiện do pháp luật
quy định được một hoặc hai người là vợ, chồng công nhận làm con qua những
thủ tục pháp lý nhất định mà giữa hi bên không có quan hệ huyết thống trực
hệ, không sinh thành ra nhau và không phải là anh em ruột của nhau.
2. Khái niệm “nuôi con nuôi”
Khoản 1, điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định:
“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận
làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với
đạo đức xã hội.”
Khoản 1 điều 3 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định: “Nuôi con nuôi là
việc xác lập quan hệ cha mẹ giữa người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận làm con nuôi.”
2
2
Việc nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý phức tạp, nó thể hiện ý chí
của người nhận nuôi con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ, bản
thân người được nhận nuôi và cả nhà nước.
Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong
muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý
chí, mong muốn đó của người nhận nuôi phải được thể hiện qua đơn xin nhận
nuôi con nuôi.
Đối với cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ thì phải là một sự tự nguyện
thực sự, không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực
nào, phải hoàn toàn độc lập. Sự đồng ý này có thể thể hiện bất cứ lúc nào
nhưng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ được sinh ra mà còn sống.
Với bản thân người được nhận làm con nuôi, ý chí của họ được quy
định rõ trong khoản 2 điều 71 Luật Hôn nhận và gia đình, khoản 1 điều 21
Luật nuôi con nuôi: “Việc nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi phải
được sự đồng ý của trẻ em đó.” Tuy lúc này đứa trẻ chưa có năng lực hành vi

đầy đủ nhưng đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận
biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con
nuôi người khác, cũng như cảm nhận được sự an toàn hay không an toàn khi
được cho làm con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống, Do
đó, pháp luật quy định trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập,
quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình, sự đồng ý
của trẻ từ đủ 9 tuổi là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp
lí.
Ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận (hay không công
nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi (hay
từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi
con nuôi.
II. Điều kiện của việc nuôi con nuôi
1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
3
3
Về vấn đề này, Luật Hôn nhân và gia đình với Luật nuôi con nuôi có sự
khác nhau.
Khoản 1, điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Người được
nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống. Người trên
mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn
tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu
cô đơn.”
Còn khoản 1 điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 lại quy định người
được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi”, nguyên nhân là do ở độ tuổi
này chưa có sự trưởng thành đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần, đang trong quá
trình định hình và phát triển nhân cách, rất cần sự quan tâm chăm sóc, giáo
dục của người lớn. Ngoài ra, quy định độ tuổi như vậy cũng tương ứng với
các quy định của các ngành luật khác như Lao động, dân sự, do đây là lúc đã

có khả năng lao động, tự nuôi sống bản thân, có năng lực hành vi dân sự và sẽ
phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
2. Điều kiện đối với người nhận con nuôi
* Nuôi con nuôi trong nước
Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định rất rõ về điều kiện đối
với người nhận nuôi con nuôi, cụ thể:
“Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một
trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cháu,
người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm
4
4
phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
Nuôi con nuôi vì mục đích xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người
nhận nuôi con nuôi với người được nhận nuôi để trẻ em có sự chăm sóc, giáo
dục tốt nhất. Pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ nuôi con nuôi, trước hết là vì lợi ích của trẻ em được nhận làm con
nuôi. Điều kiện của người nhận con nuôi là yếu tố quan trọng trong việc đảm
bảo cho mục đích của việc nuôi con nuôi trong thực tế.
Người nhận nuôi con có thể là một cặp vợ chồng hoặc một người độc
thân, trong trường hợp vợ chồng nhận nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các

điều kiện quy định tại điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình.
Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và
con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.
Con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng
được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi
của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng.
* Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Trẻ em được người nước ngoài nhận làm con nuôi là điều hết sức tốt
đẹp nếu họ có đủ điều kiện chăm lo cho đứa trẻ đó có một mái ấm hạnh phúc
và một tương lại tươi sáng. Nhưng, liệu cho trẻ em nhận làm con nuôi người
nước ngoài có đảm bảo được sự an toàn và lợi ích của trẻ em hay không? Vấn
đề này chưa được đặt ra trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nhưng
được nhắc đến trong Luật Nuôi con nuôi năm 2010:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường
trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đầy đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định
tại điều 14 của luật này.
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ
các điều kiện theo quy định tại điều 14 của luật này và pháp luật của nước
nơi người được nhận làm con nuôi thường trú. “
Qua đó cho thấy việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phải đảm bảo
đủ điều kiện pháp luật nơi người nhận nuôi thường trú và đủ điều kiện của
5
5
người nhận con nuôi theo điều 14 Luật nuôi con nuôi nhằm ngăn chặn việc
nhận nuôi trẻ em vào những mục đích xấu như đánh đập, hành hạ hay làm nô
lệ, Nó cũng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhằm bảo đảm cho
trẻ em được sống trong môi trường giáo dục tốt nhất để phát triển cả về thể
chất và trí tuệ.
3. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi

Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha
mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của
người giám hộ.
2. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự
đồng ý của trẻ em đó.”
Theo đó, thông thường việc nhận nuôi con nuôi phải có sự đồng ý bằng
văn bản của cha mẹ đẻ (với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà
mất năng lực hành vi dân sự); nếu cha mẹ đẻ chết, mất năng lực hành vi dân
sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải có sự đồng ý của người giám
hộ.
Đối với người được nhận làm con nuôi là người trên 15 tuổi nếu là
thương binh, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của
người già yếu cô đơn thì cần phân biệt rõ: nếu người đó trên 15 tuổi nhưng
chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì
việc cho họ đi làm con nuôi vẫn cần sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ
hoặc người giám hộ; nếu người đó đã thành niên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ thì không cần sự đồng ý của cha mẹ đẻ.
Đối với người được nhận làm con nuôi có một bên cha mẹ đẻ đã chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của người kia.
Đối với người được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ đã ly hôn thì vẫn
cần sự đồng ý bằng văn bản của cả cha và mẹ đẻ.
6
6
Ý chí tự nguyện của người nhận con nuôi phải phù hợp với mục đích
của việc nhận nuôi con nuôi. Nếu nhận nuôi do cưỡng ép, bị lừa dối, hoặc
xuất phát từ động cơ xấu như để bóc lột sức lao động, hoặc xúi giục con trộm
cắp, hành nghề mại dâm, thì việc nhận nuôi con nuôi sẽ bị Toà xử án “huỷ”

theo yêu cầu của những người được quy định tại điều 77 Luật Hôn nhân và
gia đình.
4. Điều kiện về hình thức
Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc nhận nuôi con
nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ
tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Theo quy định của pháp luật về hộ tích, việc nhận con nuôi giữa công
dân Việt Nam với nhau được đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã (phường, thị
trấn) nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi; việc nhận nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài phải được đăng ký tại uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (nếu ở khu
vực biên giới thì do uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của công dân Việt
Nam công nhận.
Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi gồm: giấy thoả thuận về việc cho và
nhận con nuôi theo mẫu; bản sao giấy khai sinh của người được nhận làm con
nuôi; biên bản xác nhận tình trạng trẻ bị bỏ rơi, nếu người được nhận làm con
nuôi là trẻ bị bỏ rơi.
Trong đó, giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi phải do chính
cha mẹ đẻ và người nhận con nuôi lập, kể cả trong trường hợp cha mẹ đẻ đã li
hôn. Nếu một bên cha, mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần chữ kí của người kia; nếu cả cha mẹ
đẻ đều đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lựuc hành vi
dân sự thì người giám hộ của trẻ sẽ kí Giấy thoả thuận. Trẻ em trên 9 tuổi thì
trên Giấy thoả thuận phải có ý kiến của người đó về việc đồng ý làm con
nuôi, trừ trường hợp người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự. Trường hợp người nhận con nuôi không cư trú tại xã,
phường thị trấn, nơi đăng kí việc nuôi con nuôi thì Giấy thoả thuận phải có
7
7
xác nhận của Uý ban nhân dân cấp xã, nơi người nhận con nuôi cư trú về việc

ngừoi đó có đủ điều kiện nuôi con nuôi.
Trình tự đăng ký nuôi con nuôi được quy định rõ trong điều 27 Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể:
“1. Người nhận con nuôi phải trực tiếp nộp hồ sơ nhận con nuôi cho
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đăng ký việc nuôi con nuôi.
2. Trước khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cán bộ Tư pháp hộ tịch phải
kiểm tra, xác minh kỹ các nội dung sau đây:
a) Tính tự nguyện của việc cho và nhận con nuôi;
b) Tư cách của người nhận con nuôi;
c) Mục đích nhận con nuôi.
Thời hạn kiểm tra, xác minh các nội dung trên không quá 5 ngày, kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp cần phải xác minh thêm, thì thời hạn
được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Sau thời hạn nói trên, nếu xét thấy việc cho và nhận con nuôi có đủ
điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân
cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi.
3. Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, bên cho, bên nhận con nuôi phải có
mặt; nếu người được nhận làm con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên, thì cũng phải có
mặt. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi và Quyết
định công nhận việc nuôi con nuôi. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và
cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi.
Bản sao Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi được cấp theo yêu cầu của
các bên cho và nhận con nuôi. Bên cho con nuôi có trách nhiệm giao cho
cha, mẹ nuôi bản chính Giấy khai sinh của con nuôi.”
Nếu không đồng ý với quyết định không công nhận và đăng ký việc
nuôi con nuôi thì cha, mẹ đẻ, người giám hộ và người nhận nuôi con nuôi có
quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
III. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ

8
8
và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.
Con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được
người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của
con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng.”
Như vậy, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi, quan hệ pháp luật
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập, theo đó, giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật Hôn
nhân và gia đình. Con nuôi có quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản đối
với cha mẹ nuôi như con đẻ và ngược lại, tức là, giữa cha mẹ nuôi với con
nuôi có quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ, được quy định từ
điều 34 đến điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình. Con liệt sĩ, thương binh, con
của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con nuôi vẫn
được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, thương binh, người có công
với cách mạng.
Khi một người làm con nuôi người khác thì cha mẹ nuôi có quyền yêu
cầu thay đổi họ, tên, xác định lại dân tộc cho con nuôi, được quy định rõ trong
khoản 1 điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình:
“Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định việc thay đổi họ tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con
nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Việc thay đổi
họ, tên của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý
của người đó và được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch (Điều
28 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ).
Việc xác định dân tộc của con nuôi được quy định tại điều 28 Bộ luật
dân sự năm 2005. Điều 22 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ cũng
quy định con nuôi được xác định dân tộc theo dân tộc của cha, mẹ đẻ; trường
hợp cha, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì được xác định là dân tộc của

cha hoặc mẹ đẻ theo tập quán hoặc thoả thuận. Nếu không xác định được cha
mẹ đẻ là ai thì dân tộc của con nuôi được xác định theo dân tộc của cha, mẹ
nuôi; trường hợp cha, mẹ nuôi thuộc hai dân tộc khác nhau thì xác định theo
dân tộc của cha, mẹ nuôi theo tập quán hoặc theo thủa thuận. Nếu sau đó lại
xác định được cha, mẹ đẻ thì dân tộc của người con nuôi có thể được xác định
9
9
lại theo yêu cầu của người con nuôi đó đã thành niên, yêu cầu của cha mẹ đẻ
hoặc cha mẹ nuôi.
Theo truyền thống của gia đình Việt Nam và dựa trên những chuẩn mực
đạo đức xã hội, việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những
người đã từng là cha, mẹ nuôi và con nuôi của nhau sẽ bị pháp luật cấm
(khoản 4 điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình)
Trong quan hệ về thừa kế, cha, mẹ nuôi và con nuôi có quyền thừa kế
di sản của nhau theo quy định tại điều 679 và 680 Bộ luật dân sự. Theo đó,
con nuôi vừa có quyền thừa kế di sản của cha, mẹ nuôi, vừa có quyền thừa kế
di sản của cha, mẹ đẻ.
Việc nhận nuôi con nuôi không làm chấm dứt hoàn toàn quan hệ giữa
người con nuôi với cha, mẹ đẻ mình. Đặc biệt, điều 77 Luật Hôn nhân và gia
đình quy định cha mẹ đẻ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định
chấm dứt việc nuôi con nuôi. Khi đó, nếu con nuôi là người chưa thành niên
hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình, Toà án có thể quyết định giao lại
người đó cho cha mẹ đẻ trông nom, nuôi dưỡng. Đồng thời, người con đã làm
con nuôi người khác vẫn có quyền thừa kế di sản của cha mẹ đẻ mình.
IV. Một số giải pháp hoàn thiện

Trước hết, cần sớm ban hành luật nuôi con nuôi với những quy định
toàn diện, đầy đủ và thống nhất điều chỉnh các quan hệ nuôi con nuôi trong
nước và con nuôi có yếu tố nước ngoài, có tính đến đặc thù của đồng bào

miền núi, dân tộc thiểu số, có chế tài rõ ràng cụ thể, tuyên truyền phổ biến
pháp luật về nuôi con nuôi và hộ tịch sâu rộng để nâng cao nhận thức của các
ngành, các cấp và người dân.
Tiếp theo, cần có sự thống nhất, loại bỏ bớt những quy định không cần
thiết trong hồ sơ đăng ký, ví dụ như bỏ tường trình của người phát hiện trẻ (đã
được thể hiện ở biên bản bỏ rơi trẻ em); bổ sung thêm quy định về giấy thoả
thuận trong hồ sơ đăng ký trong trường hợp cha mẹ đã ly hôn, nếu hai bên
không liên lạc được với nhau thì giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi
chỉ cần chữ ký của người hiện đang nuôi dưỡng trẻ (quy định như khoản 1
10
10
điều 26 NĐ 158 khó thực hiện). Đối với trường hợp người cho con đang chấp
nhận hình phạt tù, không thể có mặt tại UBND xã nơi làm thủ tục, nên có quy
định linh hoạt cho phép vắng mặt có giấy xác nhận của cơ quan quản lý. Hiện
tượng nhiều cha mẹ nuôi ngại thủ tục phiền hà nên không đăng kí hộ tịch dù
việc nuôi con đã được thực hiện trên thực tế, đã ảnh hưởng rất nhiều đến
quyền lợi của con nuôi, ví dụ như nếu cha mẹ nuôi mất, con nuôi không được
pháp luật công nhận, không được hưởng thừa kế.
Cần xem xét và sửa đổi quy định về phần khai dân tộc của trẻ em được
nhận làm con nuôi. Nên có quy định cho phép thay đổi dân tộc của trẻ em
được nhận làm con nuôi theo dân tộc của cha mẹ nuôi mà không nhất thiết chỉ
khi không xác định được cha mẹ đẻ để đảm bảo sự hòa nhập của trẻ trong môi
trường gia đình thay thế.
Cũng cần sửa đổi, bổ sung quy định cho phép được thay đổi phần khai
về họ tên cha mẹ đẻ sang cha mẹ nuôi trong giấy khai sinh của trẻ em sau khi
làm thủ tục đăng ký nuôi con nuôi. Theo quy định hiện nay, nếu cha mẹ đẻ và
cha mẹ nuôi không đạt được thỏa thuận thì phần khai về cha mẹ vẫn giữ
nguyên của cha mẹ đẻ, như vậy sẽ ảnh hưởng tới sự hòa nhập, tâm lý của trẻ
em và cha mẹ nuôi.
Tương tự, cũng cần có quy định linh hoạt hơn về việc thay đổi họ tên

của trẻ em được nhận làm con nuôi mà không cần có sự thỏa thuận của cha
mẹ ruột.
Đặc biệt, nên tăng cường biện pháp chế tài và tăng mức xử phạt hành
chính đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi.
C. KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi là một nghĩa cử cao đẹp, và hiện nay, đó là một hành
động khá phổ biến khi mà nhu cầu nhận nuôi con của các cặp vợ chồng lớn
tuổi nhưng hiếm muộn đang ngày càng cao. Để hành động này đạt được mục
đích tốt đẹp mà nó vốn có thì phải nghiêm túc hoàn thiện những thiếu sót,
vướng mắc đang tồn tại.
Em xin cảm ơn các thầy (cô) đã theo dõi bài làm của mình.
11
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Luật nuôi con nuôi 2010.
3. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, trường Đh Luật Hà Nội,
nxb Công An Nhân Dân, TS. Nguyễn Văn Cừ chủ biên.
4. wikipedia.com
5. chinhphu.vn
6. moj.gov.vn
12
12

×