Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.04 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1.3. CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH RỦI RO TÍN DỤNG 11
1.4. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DUNG 13
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
21
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động 21
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP
Xuất nhập khẩu Việt Nam 25
2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI EXIMBANK 35
2.2.1. Chính sách tín dụng của Eximbank 35
2.2.2. Tình hình rủi ro tín dụng tại Eximbank 46
* Tình hình rủi ro mất vốn: 50
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI EXIMBANK 51
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hạn chế rủi ro tín dụng tại
Eximbank 51
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 51
3.1.1. Định hướng phát triển chung 59
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng của Eximbank thời gian tới
61
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBTD: Cán bộ tín dụng
CIC: Trung tâm thông tin tín dụng NHNN Việt Nam
DN: Doanh nghiệp
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
FED: Cục dự trữ liên bang Mỹ
KH: Khách hàng
NHNN: Ngân hàng Nhà nước


NH: Ngân hàng
NHTM: Ngân hàng thương mại
RR: Rủi ro
RRTD: Rủi ro tín dụng
TW: Trung ương
TMCP: Thương mại cổ phần
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG
Danh mục sơ đồ
1.3. CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH RỦI RO TÍN DỤNG 11
1.3. CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH RỦI RO TÍN DỤNG 11
1.4. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DUNG 13
1.4. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DUNG 13
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
21
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
21
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động 21
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động 21
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP
Xuất nhập khẩu Việt Nam 25
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP
Xuất nhập khẩu Việt Nam 25
2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI EXIMBANK 35
2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI EXIMBANK 35
2.2.1. Chính sách tín dụng của Eximbank 35
2.2.1. Chính sách tín dụng của Eximbank 35
2.2.2. Tình hình rủi ro tín dụng tại Eximbank 46
2.2.2. Tình hình rủi ro tín dụng tại Eximbank 46
* Tình hình rủi ro mất vốn: 50
* Tình hình rủi ro mất vốn: 50

2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI EXIMBANK 51
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI EXIMBANK 51
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hạn chế rủi ro tín dụng tại
Eximbank 51
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hạn chế rủi ro tín dụng tại
Eximbank 51
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 51
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 51
3.1.1. Định hướng phát triển chung 59
3.1.1. Định hướng phát triển chung 59
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng của Eximbank thời gian tới
61
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng của Eximbank thời gian tới
61
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay là hoạt động lớn nhất và chủ yếu của ngân hàng
thương mại. Thông thường ở các nước phát triển hoạt động này mang lại
khoảng 60% thu nhập cho ngân hàng. Còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm gần 80% tổng thu
nhập của mỗi ngân hàng. Đồng thời hoạt động tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi
ro, những rủi ro mà nó đưa lại rất nặng nề, có thể dẫn đến phá sản.
Từ giữa năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ không chỉ gây chấn
động hệ thống tài chính Mỹ mà cơn “địa chấn tài chính” này đang lan rộng và
đe dọa sự ổn định nền kinh tế của nhiều quốc gia khác. Trong một thế giới
toàn cầu hóa như ngày nay thì cuộc khủng hoảng này đang tạo ra những “sang
chấn” đáng kể đổi với nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Đó là việc kim ngạch
xuất khẩu bị sụt giảm đáng kể, đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài

giảm mạnh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, cá nhân và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Đây chính là
thách thức lớn đối với hệ thống NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Xuất
nhập khẩu Việt Nam nói riêng.
Sau gần 20 năm hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, Eximbank
đã có bước tiến đáng kể, không ngừng đổi mới nâng cao vị thế của ngân hàng
trong thị trường tiền tệ và đóng góp một phần vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên hoạt động của ngân hàng còn bộc lộ không ít hạn chế trong hoạt
động kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng. Chất lượng tín dụng tiềm
ẩn nhiều rủi ro, sản phẩm tín dụng chưa đa dạng và phong phú, cơ cấu dư nợ
chưa hợp lý, mô hình tổ chức quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế. Đặc biệt trong
năm 2008, nợ quá hạn tăng cao do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu đặt ra những thách thức đối với Eximbank trong thời gian tới.
1
Điều này sẽ ảnh hưởng sự phát triển bền vững của Eximbank. Vì vậy,
khắc phục và hạn chế rủi ro tín dụng là điều tất yếu mà bất kỳ ngân hàng nào
cũng đặt lên hàng đầu. Xuất phát từ lí luận cũng như thực tiễn, tôi đã chọn đề
tài “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập
khẩu Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về RRTD của NHTM;
- Phân tích và đánh giá RRTD tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất
nhập khẩu Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp hạn chế RRTD tại Eximbank.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro tín dụng tại Eximbank;
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2005-2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, phương pháp nghiên cứu được sử

dụng là phương pháp duy vật biện chứng trên cơ sở đó sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân tích và diễn giải.
5. Đóng góp của đề tài
- Khái quát những vấn đề lí luận chung về tín dụng và RRTD của NHTM;
- Phân tích, đánh giá thực trạng RRTD tại Eximbank từ năm 2005-2008;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại Eximbank.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương với nội dung
căn bản
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Xuất
nhập khẩu Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Xuất nhập khẩu Việt Nam.
2
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết
mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng thương mại là tổ
chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một tổ chức trung gian tài chính quan

trọng trong nền kinh tế, góp phần thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là
chính sách tiền tệ, là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính
phủ nhằm ổn định kinh tế.
NHTM với đặc thù là doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt - hàng
hóa tiền tệ. Đa phần trong các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn
tiền của các NHTM đang có thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong
hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh
hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa. Các nguồn tiền gửi
của cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi
suất hơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho một ngân hàng tìm kiếm
nguồn tiền gửi song lại làm gia tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ
3
thống. Tài sản của ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản
cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng cao.
Vì vậy, hoạt động kinh doanh của NHTM luôn tiềm ẩn các rủi ro và
nó sẽ mang lại tổn thất cho ngân hàng. Có rất nhiều loại rủi ro phát sinh
trong quá trình hoạt động của NHTM, chúng ta có thể xem xét một số loại
rủi ro sau:
1.1.1. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái là khả năng xảy ra thiệt hại (tổn thất) mà ngân hàng
phải gánh chịu do sự biến động của giá cả tiền tệ thế giới.
Tuy nhiên chúng ta phải lưu ý rằng không phải khi nào tỷ giá hối đoái
biến động thì NHTM sẽ gặp phải rủi ro hối đoái. Sự biến động của tỷ giá hối
đoái chỉ là một điều kiện cần để có thể làm cho NH gặp phải rủi ro tỷ giá bởi
vì nếu hoạt động kinh doanh của NH đơn thuần chỉ liên quan đến nội tệ và
diễn ra trong nước thì rủi ro tỷ giá lúc này sẽ không có.
Nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tỷ giá đối với NHTM:
- Hoạt động nội bảng: Hoạt động nội bảng của NHTM sẽ gây ra rủi ro tỷ
giá là do sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại
ngoại tệ.

- Hoạt động ngoại bảng: Sự tham gia của NHTM vào thị trường ngoại
hối được thực hiện thông qua 4 hoạt động sau:
Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện và thanh toán các
hợp đồng ngoại thương; mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện
đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp; Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng
(hoặc chính mình) để cân bằng trạng thái ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá;
mua bán ngoại tệ nhằm mục đích kiếm lãi khi tỷ giá biến động.
4
1.1.2. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là nguy cơ biến động thu nhập và giá trị tài sản ròng của
ngân hàng khi lãi suất thị trường biến động.
Đây là rủi ro mang tính đặc trưng của bất kỳ một NHTM nào. Quá trình
chuyển hoá tài sản được coi như là một chức năng đặc biệt cơ bản của hệ
thống ngân hàng.
Rủi ro về thu nhập: là khả năng suy giảm thu nhập lãi ròng của ngân
hàng khi lãi suất thị trường biến động.
Rủi ro giảm giá trị tài sản, là khả năng giá trị ròng của ngân hàng bị suy
giảm khi lãi suất thị trường biến động.
Có 2 nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất, đó là:
- Sự biến động của lãi suất thị trường;
- Sự không cân bằng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng.
1.1.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không có được đủ vốn khả
dụng (cung thanh toán) với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà ngân hàng
cần để đáp ứng cầu thanh khoản.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản:
Một là, do sự mất cân xứng về thời hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản
nợ. Đấy là do ngân hàng huy động vốn với thời hạn ngắn nhưng lại cho vay
với thời hạn dài hơn, dẫn đến sự khác biệt về thời điểm xuất hiện cũng như
quy mô các luồng tiền ra vào ngân hàng và như vậy sẽ ảnh hưởng tới khả

năng thanh khoản của NH.
Hai là, do sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi lãi suất.
Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm cơ hội đầu tư có
mức lợi nhuận cao hơn còn những người vay tiền sẽ hạn chế vay. Như vậy
5
thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến luồng tiền gửi cũng như tiền vay, và
cuối cùng là ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng.
Bà là, ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh toán một cách hoàn
hảo nhất. Những trục trặc trong thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân
chúng vào NH.
1.1.4. Rủi ro tín dụng:
RRTD là những thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu do người vay vốn
không trả đúng hạn, không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết với bất kỳ lý do gì.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán,
ngân hàng không có tiền để trang trải nợ cho khách hàng, mất uy tín trước
khách hàng. Khách hàng ồ ạt đến rút tiền điều này có thể đưa ngân hàng đến
chỗ phá sản hoặc vỡ nợ. Mặt khác, do tính riêng biệt của hàng hoá ngân hàng,
một ngân hàng phá sản thì theo phản ứng dây chuyền, có thể sẽ kéo theo sự
phá sản của hàng loạt các ngân hàng khác. Các cuộc khủng hoảng ngân hàng
thường kéo theo sự suy thoái kinh tế, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội.
Thực tế từ cuối năm 2008 đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính đang xảy
ra trên toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Các ngân hàng tại Mỹ liên tục tuyên bố phá sản.
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng này là từ tín dụng nhà đất của Mỹ,
"Bong bóng" nhà đất sụp đổ kéo theo các khoản vay đến hạn của người dân
Mỹ không có khả năng trả nợ, giá nhà đất giảm sút khiến việc phát mãi của
ngân hàng gặp khó khăn, gây mất khả năng thanh toán cho hệ thống ngân
hàng. Tính đến hết tháng 6 năm 2009 đã có hơn 45 ngân hàng Mỹ bị phá sản,
sát nhập.
Chính vì các hậu quả nghiêm trọng khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với hoạt

động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và đối với sự phát triển của cả nền
6
kinh tế nói chung mà chúng ta phải nghiên cứu để tìm ra các biện pháp nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến và lâu đời nhất
trong thị trường tài chính - tín dụng. Rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn
nhất, thường xuyên xẩy ra và gây hậu quả nặng nề cho hoạt động NH vì hoạt
động cho vay thường chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tài sản và là hoạt động
chủ yếu tạo thu nhập cho NH. Trong thực tế, rủi ro tín dụng rất phức tạp và
khó quản lý. Nó đòi hỏi NH phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới
có thể hạn chế, giảm thiểu những thiệt hại có thể xẩy ra.
RRTD cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và cũng đem ra
nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng:
RRTD là "lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách
hàng" hay nói cách khác RRTD là "khả năng xẩy ra do khách hàng không thực
hiện trả nợ theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng".
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN
Việt Nam thì: “RRTD trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xẩy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”
Rủi ro trong tín dụng xẩy ra khi bên đi vay không thực hiện được việc
thanh toán tiền vay (có thể là tiền gốc hoặc lãi) theo thời hạn hoặc kỳ hạn và
các điều kiện trong hợp đồng tín dụng làm cho người cho vay phải gánh chịu
tổn thất tài chính.
Tóm lại: RRTD là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh
chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn của NH không trả đúng hạn,
7

không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kỳ
lý do nào.
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng thương mại,
người ta thường xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Các tỷ trọng này
càng cao thì khả năng bảo toàn vốn của ngân hàng càng thấp và ngược lai.
RRTD là rủi ro hết sức phức tạp, quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn,
nó có thể xẩy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Bất cứ một rủi ro nào của người
vay cũng có thể đưa đến rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng không thể loại trừ
khả năng rủi ro, song nếu có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu thì có thể
ngăn ngừa rủi ro, hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xẩy ra.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
• Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (Rủi ro đọng vốn)
Khi phát sinh quan hệ tín dụng, NH và khách hàng phải giao kết về
khoảng thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên có thể đến thời hạn mà NH vẫn
chưa thu hồi được vốn vay, những tổn thất xẩy ra trong trường hợp này người
ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn. Khi đó sẽ dẫn tới đông cứng
các khoản vốn, làm cho nó kém lỏng. Điều này sẽ gây ra hai ảnh hưởng:
- Ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng vốn của NH;
- Gây khó khăn trong việc chi trả cho người gửi tiền;
Ngân hàng là một tổ chức đi vay để cho vay. Chính vì thế khi NH huy
động được một khoản tiền ngay lập tức NH dùng số tiền đó để đầu tư cho vay.
Nếu khi đến hạn người vay không trả nợ cho NH, NH không đủ tiền thanh
toán cho khách hàng gửi tiền, điều này dẫn đến NH giảm khả năng thanh toán
và uy tín của ngân hàng. Điều này ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của
ngân hàng.
8
• Rủi ro do không có khả năng trả nợ (Rủi ro bị mất vốn một phần
hoặc toàn bộ)
Đây là rủi ro xảy ra trong trường hợp khách hàng đi vay đã mất khả năng
chi trả. Do vậy ngân hàng chỉ trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của KH đó

để thu hồi toàn bộ hay một phần nợ gốc, lãi vay. Tuy nhiên vấn đề này hết sức
khó khăn vì:
- Giá trị của tài sản thanh lý có thể bị giảm sút nhiều so với thời điểm
định giá ban đầu (do biến động giá thị trường, do hao mòn, do lạc hậu, );
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán do tâm lý không ai muốn mua
chúng;
- Giá trị cuả tài sản thanh lý thường bị chia sẽ với các chủ nợ ưu tiên
trước như: nộp thuế cho nhà nước, trả lương cho cán bộ, nhân viên. Vì vậy
nhiều khi giá trị còn lại về NH ít hơn hoặc có khi chi phí phát sinh trong quá
trình thanh lý gần bằng thậm chí lớn hơn khoản tiền nhận được.
Rủi ro do không có khả năng trả nợ ảnh hưởng đến chi phí, dòng tiền,
doanh thu và khả năng sinh lời, uy tín của ngân hàng.
+ Làm tăng chi phí của NH: Chi phí tăng cường việc giám sát, các chi
phí pháp lý,
+ Dòng tiền bị giảm sút: Vòng quay vốn tín dụng giảm do cho vay được
ít khách hàng hơn; hạn chế trong việc tìm kiếm khách hàng mới và mở rộng
các sản phẩm dịch vụ,
+ Khả năng sinh lời bị suy giảm.
+ Các ảnh hưởng khác: Nợ quá hạn dây dưa, lây lan sang các KH khác,
làm giảm uy tín của ngân hàng,
Nói chung các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và
là gánh nặng thực sự đối với các Ngân hàng thương mại.
9
1.2.3. Sự cần thiết hạn chế rủi ro tín dụng
Hoạt động ngân hàng là hết sức đặc thù, là huyết mạch của nền kinh tế
của mỗi nước. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng
nói riêng hết sức nhạy cảm, có tình lan truyền nhanh và có thể gây ra đổ vỡ hệ
thống kinh tế - tài chính của nước đó.
Đặc biệt hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính đang nổ ra trên toàn thế
giới đã làm nhiều ngân hàng thương mại và TCTD bị phá sản. Bắt nguồn từ

việc khủng hoảng tài chính nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007, dẫn đến hàng
loạt khách hàng mua nhà trả góp tại các NHTM Mỹ không có khả năng trả nợ
dẫn đến các NHTM gặp khó khăn. Năm 2008 tại Mỹ có 25 ngân hàng phá sản
và con số đến hết tháng 6/2009 là hơn 45 ngân hàng, trong đó có những ngân
hàng lớn với tổng tài sản lên đến hàng trăm tỷ đôla. Có thể kể đến như:
Lehman Brothers, Washington Mutual Inc (WaMu), Ngân hàng Community
Bank of West Georgia,…. Hậu quả của việc phá sản hết này là hết sức nặng
nề cho toàn bộ nền kinh tế toàn cầu, gây ra khủng hoảng tài chính.
Nếu những tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra ở mức kiểm soát được thì
việc xử lý tương đối dễ dàng. Nhưng khi tổn thất lớn, vượt quá khả năng xử lý
của TCTD thì vấn đề trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó lường không
những cho chính TCTD đó, mà còn cho cả toàn bộ nền kinh tế, và nguy cơ
tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính.
Đối với Việt Nam, hoạt động tín dụng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất:
70-80% trong danh mục tài sản, đặc biệt nguồn tín dụng này đang đóng vai
trò kênh dẫn vốn chủ đạo của các doanh nghiệp. Rủi ro trong hoạt động này
cũng chiếm 70% trong tổng rủi ro hoạt động của NH. Do vậy xét trên góc độ
lý thuyết cũng như thực tiễn hạn chế rủi ro là một việc rất quan trọng đối với
các TCTD.
10
Ngoài ra, để tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức tín dụng hoạt động và
tổ chức kiểm tra kiểm soát hoạt động tín dụng của các NHTM, Ngân hàng
TW cũng phải ban hành các chuẩn mực về RRTD. Từ đó NHTW có thể tiến
hành thanh tra, kiểm soát hoạt động của các NH, tránh tổn thất có thể xảy ra.
Tóm lại, có thể nhìn nhận rằng, các ngân hàng buộc phải “sống chung”
với rủi ro tín dụng là một điều không thể tránh khỏi. Để đạt được mục tiêu tối
đa hoá lợi ích của ngân hàng đòi hỏi phải hạn chế rủi ro tín dụng hay nói một
cách khác cần phải quản trị rủi ro tín dụng tốt. Đặc biệt là trong giai đoạn
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay thì công tác quản trị rủi ro tín dụng
là hết sức cấp thiết.

1.3. CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH RỦI RO TÍN DỤNG
Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường
cụ thể hóa thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động
phản ánh rủi ro tín dụng.
Chúng ta có thể xem xét nợ quá hạn trên ba tiêu thức sau:
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH =
Tổng dư nợ
Thước đo rủi ro tín dụng này cho thấy rủi ro ở độ rộng với những tầng
nấc khác nhau. Để thấy rõ khả năng phản ánh RRTD người ta thường dùng tỷ
lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Tỷ lệ này cho biết nợ quá hạn chiếm bao nhiêu
phần trăm so với tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao cho thấy rủi ro danh mục cho vay
của TCTD lớn, điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của TCTD
như: tăng dự phòng tổn thất, tăng chi phí về việc xử lý các khoản nợ quá hạn,
giảm lợi nhuận, …Ngược lại, tỷ lệ này thấp cho thấy chất lượng tín dụng tốt,
an toàn, bộ máy quản trị rủi ro hoạt động hiệu quả, …
11
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên và các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ. So với nợ quá hạn thì nợ xấu có quy mô nhỏ hơn. Tuy
nhiên, để xác định rõ hơn về mức độ rủi ro thì nợ xấu thể hiện rõ hơn. Nếu nợ
xấu càng lớn và đặc biệt rơi vào nhóm càng cao thì tỷ lệ trích lập dự phòng
càng lớn, như chúng ta biết trích lập dự phòng được tính vào chi phí điều này
có nghĩa: lợi nhuận giảm, mức độ rủi ro của khoản mục cho vay cao, ….
Ngược lại, nếu nợ xấu ít thì trích lập rủi ro ít dẫn tới ảnh hưởng ít đến kết quả
kinh doanh. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào loại tài sản thế chấp, cầm

cố và giá trị của nó.
Vì vậy, để đánh giá RRTD của một TCTD này so với toàn ngành, hoặc
so một TCTD khác thì người ta dùng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Thông qua
tỷ lệ này cho biết nợ xấu chiếm bao nhiêu phần trăm so với tổng dư nợ. Thực
tế tỷ lệ này chiếm khoảng 2- 5% , một tỷ lệ chấp nhận được.
Dựa vào chỉ tiêu nợ xấu, chúng ta có thể đánh giá rủi ro tín dụng theo
từng tiêu thức cụ thể: nợ xấu theo thời hạn cho vay, nợ xấu theo mục đích cho
vay, nợ xấu theo thành phần kinh tế…Từ đó, chúng ta có thể xác định được
nguyên nhân và đưa ra giải pháp hữu hiệu để giải quyết.
-Tình hình rủi ro mất vốn
Dự phòng RRTD được trích
Tỷ lệ dự phòng RRTD =
Dư nợ cho kỳ báo cáo
12
Mất vốn đã xoá cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ này cho biết quĩ dự phòng tổn thất có thể xử lý bao nhiêu phần
trăm nợ xấu.
Tuỳ thuộc vào từng mục đích nghiên cứu, có thể chọn một trong các tiêu
thức trên để phản ánh rủi ro tín dụng của một ngân hàng thương mại.
1.4. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DUNG
Hoạt động ngân hàng gắn liền với rất nhiều loại rủi ro như: rủi ro thanh
khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thị trường,…. Tuy nhiên, RRTD là phổ
biết nhất và gây ra nhiều tổn thất nhất cho hệ thống NHTM. Rủi ro tín dụng xuất
phát từ một số nguyên nhân sau:
1.4.1. Nguyên nhân chủ quan
Tín dụng là lĩnh vực đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM cũng là
hoạt động đem lại rủi ro lớn. Các nhà quản lý phải đánh đổi giữa rủi ro và lợi
nhuận. Trong thực tế, có thể khẳng định rằng: nguyên nhân gây ra RRTD đó

xuất phát chủ yếu từ yếu tố chủ quan hay là từ phía NH.
a) Chính sách tín dụng của NHTM
Chính sách này phản ánh định hướng tài trợ của NH, đóng một vai trò
quan trọng quyết định chất lượng tín dụng của NH. Nếu một chính sách hợp
lý, khoa học sẽ khai thác hết lợi thế của NH, thu hút nhiều khách hàng, đảm
bảo khả năng sinh lời trên cơ sở phân tán rủi ro. Ngược lại một NH có một
chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận nên khi cho
vay đã quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản
vay lành mạnh.
Tuy nhiên, chính sách tín dụng của mỗi NH phụ thuộc vào định hướng,
chiến lược của NH đó vào từng thời kỳ, từng đặc thù của NH đó. Có những
13
NH sẵn sàng đối mặt với RRTD để mở rộng mạng lưới, phát triển các sản
phẩm tín dụng mới. Nhưng nhìn chung đây là các giải pháp trong ngắn hạn
mà các NH áp dụng trong từng giai đoạn phát triển của mình.
b) Quy trình tín dụng của NHTM
Trong quá trình thực hiện quy trình tín dụng, nếu người cán bộ không
thực hiện một cách nghiêm túc, hay bỏ sót một công đoạn nào đó thì cũng gây
nên RRTD, hoặc dễ dãi với khách hàng trong việc giám sát trước, trong và
sau khi cho vay.
+Định giá tài sản đảm bảo không chính xác, hoặc không thực hiện đầy
đủ thủ tục pháp lý cần thiết;
+Giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ, kế hoạch trả nợ không rõ
ràng và không được quy định bằng văn bản;
+Đảo nợ để trả khoản nợ lãi;
+Thiếu sự giám sát tín dụng - một phần vì thiếu kiến thức về hoạt động
của người vay;
c) Chất lượng đội ngũ nhân sự
Nhân sự cho hoạt động ngân hàng là yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt
động của NH. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng, yếu tố con người sẽ là một

trong những nguyên nhân của RRTD, thể hiện ở các khía cạnh sau:
+Trình độ nghiệp vụ và năng lực của CBTD: Do tính đặc thù của
ngành, cán bộ NH phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí
nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà
khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả
năng dự đoán các vấn đề liên quan đến người vay; phân tích hoạt động kinh
doanh của khách hàng trong rất nhiều lĩnh vực, …. Điều này đòi hỏi một cán
bộ NH phải được đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Vậy khi CBTD cho
14
vay đối với khách hàng mà trình độ nghiệp vụ và năng lực kém thì RRTD
luôn rình rập họ.
+Đạo đức của CBTD: Đạo đức của CBTD hết sức quan trọng, rủi ro đạo
đức là vấn đề mà tất cả các ngân hàng đều quan tâm. Bởi CBTD sống trong
môi trường “tiền bạc”, nhiều cán bộ đã không tránh khỏi sự cám dỗ của đồng
tiền. họ có thể làm làm khống, làm giả hồ sơ chứng từ,…. để trục lợi. Vì vụ
lợi, họ buông lỏng quản lý nên trong quá trình thẩm tra, xét duyệt cho vay,
quản lý vay vốn không những họ đã không tuân thủ theo các quy định hiện
hành mà còn dễ dãi, tạo kẻ hở cho khách hàng lợi dụng
Chất lượng CBTD bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm
bảo là nguyên nhân của RRTD.
d) Vấn đề về thông tin
Hệ thống thông tin nói chung và hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt
động tín dụng NH nói riêng đang tồn tại nhiều điều bất cập:
+ Các tài liệu lưu trữ dùng để phân tích của NH chưa được lưu trữ theo
một biểu thống nhất, số liệu không đầy đủ, thiếu chính xác, nên chưa có
nguồn số liệu lịch sử vững chắc.
+ Các nguồn thông tin bên ngoài quan hệ tín dụng giữa NH và khách
hàng không được cập nhật thường xuyên và thu thập thông tin không
chính xác.
+ Bên cạnh đó, các nguồn thông tin khác như: Nguồn thông tin từ trung

tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro của NHNN, tập san thương mại, báo chí…
còn nhiều bất cập, chưa đủ tin cậy khi sử dụng
+ Đặc biệt do hệ thống thanh tra, kiểm toán chưa được thực hiện một
cách đồng bộ nên dẫn tới các số liệu cung cấp từ nhiều nguồn độ tin cậy
không cao.
15
Thông tin về khách hàng không đầy đủ, không chính xác dẫn đến thông
tin không cân xứng giữa CBTD đối với khách hàng, dẫn đến việc đưa ra quyết
định cho vay sai, từ đó tạo nên rủi ro đạo đức từ phía khách hàng cố tình sử
dụng vốn sai mục đích đi vay.
1.4.2. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân
chính gây ra RRTD cho ngân hàng. Nhìn chung với các nguyên nhân này NH
có thể xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức
khoẻ của khách hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích
sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Với đối
tượng khác nhau thì nguyên nhân gây rủi ro cho NH có thể khác nhau do tính
đặc thù của từng loại khách hàng.
Đối với cá nhân: Phần lớn các khoản cấp tín dụng cho các cá nhân là
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của họ. Với những khoản vay, nguồn trả nợ
chính là nguồn thu nhập ổn định của người vay. Vì vậy bất cứ một nguyên
nhân nào gây nên mất tính ổn định về thu nhập và cuộc sống sinh hoạt của
người vay đều có thể dẫn tới RRTD cho NH. Một số nguyên nhân chủ yếu
như: Người vay hoạch định phương án trả nợ không chính xác, không dự tính
hết được các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai thu nhập có thể sử dụng để
trả nợ NH; người vay bị thất nghiệp dẫn đến không có thu nhập để trả nợ; …
Đối với doanh nghiệp, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là nguyên nhân
chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Rủi ro kinh doanh
của doanh nghiệp được thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều
hướng xấu của kết quả kinh doanh. Một quy trình tín dụng luôn bao gồm giai

đoạn sử dụng tiền vay của người đi vay, bất cứ rủi ro nào trong quá trình kinh
doanh đều có ảnh hưởng xấu đến việc trả nợ. Những rủi ro trong kinh doanh
16
của doanh nghiệp gặp nếu xẩy ra những trường hợp sau: Việc xây dựng và
triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng sản xuất
không phù hợp; giá cả nguyên vật liệu biến động tăng so với dự kiến làm tăng
giá thành sản phẩm -> thu nhập tạo ra trên một đơn vị sản phẩm giảm, làm
giảm lợi nhuận thu được của dự án, ảnh hưởng xấu đến việc trả nợ NH; do
thiếu nguyên vật liệu phù hợp với dây chuyền công nghệ sẵn có của doanh
nghiệp nên họ phải sử dụng các nguyên vật liệu khác thay thế, không hoàn
toàn phù hợp -> tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến lợi nhuận; có thể do
những sự thay đổi về thị hiếu tiêu dùng hoặc thay đổi thu nhập,… nên khối
lượng sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu tiêu thụ
thực tế trên thị trường -> hàng hoá ứ đọng, thu hồi vốn không đúng kỳ hạn,
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ NH; chất lượng sản phẩm doanh nghiệp sản
xuất không đáp ứng nhu cầu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, rủi ro tài chính cũng là một nguyên nhân hết sức quan
trọng. Rủi ro tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở việc doanh nghiệp không
thể đối phó với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ. Rủi ro tài
chính diễn ra cùng với mức sử dụng nợ, nó gắn liền với cơ cấu tài chính
doanh nghiệp. Đặc biệt khi kết quả kinh doanh không đủ trả lãi tiền vay thì
việc sử dụng quá nhiều vốn vay sẽ rất nguy hiểm đối với doanh nghiệp.
Ngoài ra, rủi ro còn do năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
người quản lý doanh nghiệp. Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi mỗi người chủ
doanh nghiệp phải có trình độ, kiến thức, năng lực và kỹ năng quản lý. Nếu
người chủ doanh nghiệp tỏ ra thiếu kiến thức, năng lức quản lý sẽ dẫn tới rủi
ro trong kinh doanh -> gây nên RRTD cho ngân hàng.
17
1.4.3. Nguyên nhân bất khả kháng

a) Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp, cá nhân. Vì vậy nó sẽ tác động trực tiếp tới khả năng trả nợ của
khách hàng. Ví dụ như khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008, xuất phát
từ khủng hoảng tài chính nhà đất ở Mỹ đã làm cho hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp khó khăn, thất nghiệp gia tăng nhanh chóng. Đến "gã khổng
lồ" General Motor hay Ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ Lemon Brather cũng
phải phá sản làm cho hàng ngàn người thất nghiệp,
Ngoài ra, lạm phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh:
giá cả nguyên vật liệu, năng lượng… tăng làm cho cá nhân và doanh nghiệp
khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng. Nợ không thay đổi tương
ứng với sức mua đồng tiền vì vậy đã trở thành gánh nặng đối với người đi vay.
Thiểu phát cũng ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: chỉ số tăng giá
thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho công việc làm ăn cầm chừng , dẫn
đến nền kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động kinh
doanh thu lợi nhuận, trong đó phải duy trì các chi phí cố định và cuối cùng là
không trả được nợ.
Nói chung, môi trường kinh tế ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của
người đi vay và thiệt hại hay thành công đối với người cho vay. Như trong
giai đoạn hiện nay, khủng hoảng tài chính tác động đến toàn bộ nền kinh tế
các nước trên thế giới, gây khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động và có
thể dẫn đến phá sản. Đây là khó khăn chung của toàn bộ nền kinh tế thế giới,
vì vậy nó sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam. Đó là việc xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, các đơn hàng bị cắt giảm, vốn
đầu tư nước ngoài giảm,…
18
b) Sự thay đổi chính sách của Nhà nước
Trong thực tế, sự thay đổi nào của chính sách vĩ mô đều dẫn đến sự thay
đổi của lãi suất, tỷ giá hối đoái, điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng,…
Đây là những nhân tố gây nên tính bấp bênh trong kinh doanh tiền tệ ảnh

hưởng trực tiếp tới hoạt động của NHTM. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng trực
tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, ảnh hưởng tới nguồn
trả nợ được dự tính của khách hàng trước khi có thay đổi chính sách.
Thực ra sử dụng hệ thống chính sách này là việc kết hợp giữa bàn tay
hữu hình của Chính phủ với bàn tay vô hình của thị trường. Quá trình thực
hiện sự kết hợp này có lúc nhịp nhàng song có lúc đã làm gia tăng tính bấp
bênh và rủi ro vốn có của hình thức hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Trong điều kiện kinh tế mở cửa dưới nhiều hình thức và phương tiện,
những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hưởng tới quan hệ
kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỷ giá hối
đoái…biến động đưa đến sự biến động giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, lãi suất,
mức cầu tiền tệ… Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của
NHTM, gây nên rủi ro, đe doạ đến sự an toàn trong hoạt động tín dụng của các
NHTM.
c) Môi trường pháp lý
Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh
doanh bao gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật
được thực thi và sự chấp hành pháp luật.
Hoạt động kinh doanh luôn chịu tác động của ba yếu tố tạo thành môi
trường pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động đến
hoạt động kinh doanh một các tổng hợp, hay nói một cách khác chúng mang
19
tính đồng bộ cao. Nếu các yếu tố này tách rời nhau, khi đó sự tác động riêng
lẻ của một hay hai yếu tố sẽ tạo nên một nội dung khác, một ảnh hưởng khác,
thậm chí gây nên ách tắc hoặc thua lỗ không đáng có hoặc tạo những kẻ hở
cho kẻ xấu lợi dụng.
Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho
vay của các NHTM. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu
cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín
dụng của các NHTM.

d) Nguyên nhân từ các đảm bảo tín dụng
Rủi ro trong trường hợp này do:
- Sự biến động giá trị tài sản bảo đảm theo chiều hướng bất lợi (phụ
thuộc vào đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản này)
- NH khó có khả năng tiếp cận, nắm giữ tài sản bảo đảm để xử lý chúng
do người vay vi phạm hợp đồng về việc bảo quản duy trì tài sản, do đặc tính
của tài sản hoặc do thiếu các cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản. Có 3 yêu
cầu đối với các đảm bảo tài sản là: (1) dễ định giá; (2) dễ cho NH quyền được
sở hữu hợp pháp; (3) dễ thanh lý, phát mãi.
Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn kinh tế, tuỳ vào chính sách của ngân hàng từng thời kỳ mà các
nhà quản trị rủi ro của ngân hàng hoạch định để có các biện pháp hạn chế rủi
ro tín dụng.
20
Chương 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động
Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số
140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng
Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong
những Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày
06/04/1992, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số
11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn
điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam
Export Import Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank.
Đến 31/12/2008 vốn điều lệ của Eximbank đạt 4.249 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu

đạt 13.627 tỷ đồng.
Eximbank hiện là một trong những Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn
nhất trong khối Ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Ngân hàng TMCP Xuất
Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở
Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 130 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt
tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Quảng Ngãi, Vinh, Hải Phòng,
Quảng Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Bà Rịa- Vũng
Tàu, Đắc Lắc, Lâm Đồng và TP.HCM. Đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn
735 Ngân hàng ở tại 72 quốc gia trên thế giới.
21

×