MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU CỦA LUẬN VĂN
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. CN: Công nghiệp
2. DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
3. NHCT: Ngân hàng công thương
4. NHCT TN: Ngân hàng công thương Thái nguyên
5. NHNN: Ngân hàng nhà nước
6. NHTM: Ngân hàng thương mại
7. NQH: Nợ quá hạn
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Danh mục sơ đồ
Danh mục các biểu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn được
ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng hoạt động lành
mạnh, hiệu quả là điều kiện giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và phát
triển bền vững, ngược lại nếu hệ thống ngân hàng hoạt động không có hiệu quả
hoặc gặp rủi ro bị phá sản thì sẽ để lại hậu quả to lớn, không chỉ bao gồm rủi ro
nội tại ngành mà còn liên quan quan đến tất cả các ngành khác và sự náo loạn
trong toàn bộ xã hội. Vì vậy kinh doanh ngân hàng luôn được coi là hoạt động
kinh doanh đặc biệt. Do đặc điểm đặc biệt của đối tượng kinh doanh nên hoạt
động kinh doanh ngân hàng luôn chứa đựng những rủi ro cao hơn gấp nhiều lần
so với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác.
Đối với hầu hết các ngân hàng, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản, dư nợ tín dụng thường chiếm tỷ trọng tới ½ tổng tài sản có, thu nhập từ
tín dụng chiếm khoảng ½ đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng thường có xu hướng tập trung vào danh mục
tín dụng. Vì vậy quản lý rủi ro tín dụng là một yêu cầu cần thiết đối với bất kỳ
một ngân hàng thương mại nào. Trong những năm gần đây hoạt động của các
ngân hàng trên thế giới nói chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng nói
riêng chứa đựng những yếu tố phức tạp, đặc biệt sự phá sản của một số ngân
hàng lớn trên thế giới đã cho thấy công tác quản lý rủi ro cần phải được xem
xét cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế , hoạt động của chi nhánh
ngân hàng Công thương Thái nguyên đã không ngừng được hoàn thiện về mọi
mặt để khẳng định vị thế vai trò của mình trong môi trường cạnh tranh. Một
trong những hoạt động chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của chi
1
nhánh là hoạt động tín dụng. Những thay đổi trong hoạt động tín dụng sẽ ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh chung của cả chi nhánh và đây cũng là
nghiệp vụ có nguy cơ rủi ro cao nhất. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi chọn đề tài
“Quản lý rủi ro tín dụng tại chi Nhánh Ngân hàng Công thương Thái nguyên”
để phân tích và nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng của
NHTM.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của
Chi nhánh NH Công Thương Tỉnh Thái nguyên giai đoạn 2005-2008.
- Đề ra một số giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
NH Công Thương Tỉnh Thái nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NH Công
Thương Tỉnh Thái nguyên.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
ngân hàng Công Thương Tỉnh Thái nguyên từ năm 2005 – 2008
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM và các hoạt động chủ yếu của NHTM
Đối với tất cả mọi người hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên gần gũi
và quan trọng. Với sự hiện hữu của hoạt động ngân hàng mỗi chúng ta có thể
được nhận những khoản vay để trang trải các hoạt động kinh doanh hay tiêu
dùng hoặc nếu có tiền chúng ta có thể gửi vào ngân hàng vừa thu được lãi lại
an toàn. Để hiểu được thế nào là ngân hàng và hoạt động ngân hàng chúng ta
cùng đi xem xét các quan niệm về ngân hàng.
Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về ngân hàng. Theo pháp luật
nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp khoản tiền gửi cho phép khách
hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho
vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Nếu xét theo những loại hình
dịch vụ mà một ngân hàng cung cấp có thể hiểu ngân hàng là một loại hình tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam:
"Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan" và "Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nghiệp vụ
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán"
Như vậy chúng ta có thể hiểu ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp
đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng mà nhiệm vụ chủ yếu là
3
nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán và làm nghiệp vụ khác.
Một ngân hàng thương mại được coi là thành công nếu nó xác định đúng
các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách
có hiệu quả và bán chúng với một mức giá cạnh tranh. Những hoạt động chủ
yếu mà bất cứ một ngân hàng nào cũng cung cấp cho xã hội bao gồm: Hoạt
động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động khác.
Để có được vốn hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải tạo lập nguồn
vốn. Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo
lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng bao
gồm vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay, nguồn vốn trong thanh toán
và nguồn vốn khác.
Số vốn huy động được sẽ được ngân hàng sử dụng một cách triệt để
nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn của ngân hàng chính là quá trình tạo
nên các tài sản khác nhau của ngân hàng. Các tài sản chủ yếu của ngân hàng
bao gồm:
- Ngân quỹ: Ngân quỹ của một ngân hàng thường bao gồm tiền mặt
trong két, tiền gửi tại các ngân hàng khác.
- Chứng khoán gồm có chứng khoán của Chính phủ, chứng khoán của
các ngân hàng khác, chứng khoán của các công ty khác.
- Tín dụng : Là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở ngân hàng thương
mại, đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng thương mại đồng thời là hoạt
động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
- Các tài sản khác: tài sản uỷ thác, phần hùn vốn liên doanh liên kết, tác
tài sản khác như nhà cửa, trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của
ngân hàng.
4
- Các tài sản ngoại bảng: là các cam kết của ngân hàng đối với khách
hàng như hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng uỷ thác quản lý, hợp đồng tài chính…
Những tài sản này không được sử dụng để tính toán nhiều chỉ tiêu tài chính
quan trọng liên quan đến tổng tài sản nhưng cũng phản ánh dung lượng công
tác của ngân hàng, tạo nên thu nhập và rủi ro cho ngân hàng.
- Các hoạt động khác: kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán, thanh toán…
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Các hình thức tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau
giữa các chủ thể trong xã hội dựa trên nguyên tắc hoàn trả, có thời hạn và có
lợi tức. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ
thể kinh tế khác trong xã hội. Trong đó ngân hàng giữ vai trò là người đi vay
vừa là người cho vay. Theo luật các tổ chức tín dụng: Cấp tín dụng là việc tổ
chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên
tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, loại tài sản này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
* Căn cứ vào thời hạn
Nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng có thể chia tín dụng thành tín dụng
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến
dưới 60 tháng.
- Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng.
Việc phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với
ngân hàng nó phản ánh tính an toàn và sinh lợi của ngân hàng. Nếu một ngân
5
hàng tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn tín dụng trung và dài hạn thì
ngân hàng có xu thế tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng hơn tài sản cố
định và ngược lại.
*Căn cứ vào tiêu thức tài trợ tín dụng
Nếu căn cứ vào tiêu thức tài trợ tín dụng có thể chia thành cho vay, bảo
lãnh, cho thuê.
- Hoạt động cho vay:
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay là sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang
người sử dụng (người vay- khách hàng) sau một thời gian nhất định lại quay
về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
- Bảo lãnh ngân hàng: là cam kết bằng văn bản của tổ chưc tín dụng với
bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận
nợ và hoàn trả cho các tổ chức tín dụng số tiền được trả thay.
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng
thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài
sản đó theo những điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời
hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
* Căn cứ vào tính chất đảm bảo
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo người ta có thể chia thành tín dụng có
tài sản đảm bảo và tín dụng không có tài sản đảm bảo.
- Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba.
- Tín dụng có đảm bảo: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có
bảo lãnh của người thứ ba.
6
Việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân
hàng mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi được các hợp đồng về đảm bảo để đề ra
các biện pháp xử lý kịp thời.
* Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng bất động sản: Là các khoản tín dụng được đảm bảo bằng bất
động sản. Bao gồm tín dụng ngắn hạn do xây dựng và mở rộng đất đai, tín
dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ trang trại và bất
động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp: Là các khoản tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hoá nguyên vật liệu, trả
thuế và chi trả lương.
- Tín dụng nông nghiệp: là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp nhằm tài trợ cho các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng
và chăn nuôi gia súc.
- Tín dụng cá nhân: là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm
hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà cửa
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho thuê tài chính : là việc ngân hàng mua các trang thiết bị máy móc
và cho thuê lại chúng.
- Tín dụng khác: gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên.
1.1.2.2. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là nền tảng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tín
dụng của mỗi một ngân hàng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ
của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các
nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng,
tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng
cao khả năng sinh lời.
7
Đối với các ngân hàng, chính sách tín dụng phải được xây dựng theo
hướng mở tạo điều kiện cho việc áp dụng một cách sáng tạo để có thể thích
nghi với môi trường kinh doanh đồng thời đảm bảo tuân thủ luật pháp. Chính
sách tín dụng là chính sách phục vụ nhu cầu tín dụng của khách hàng vì vậy
nhu cầu của khách hàng với các đặc tính khác nhau sẽ quyết định các nội
dung và sự thành công của chính sách tín dụng. Khả năng sinh lời và rủi ro
tiềm năng của khách hàng sẽ quyết định tính an toàn và sinh lợi của hoạt động
tín dụng. Do đó chính sách tín dụng của ngân hàng cần phải được xây dựng
dựa trên dự đoán tương lai cũng như những diễn biến trong quá khứ về rủi ro
tín dụng. Chính sách của Chính phủ và ngân hàng Nhà nước như chính sách
ưu đãi, chính sách tỷ giá, chính sách phát triển hệ thống tài chính… ảnh
hưởng không nhỏ đến chính sách tín dụng. Ngoài ra quy mô, kết cấu, tính ổn
định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng, quy mô vốn
chủ… cũng ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của ngân hàng.
Chính sách tín dụng ở mỗi một ngân hàng thường được xây dựng theo
những nội dung chủ yếu như: chính sách khách hàng, chính sách quy mô và
giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ,
các khoản đảm bảo, điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán, chính sách
đối với các tài sản có vấn đề.
Khách hàng vay vốn của ngân hàng rất đa dạng, vì vậy ngoài việc ngân
hàng quy định việc cấp tín dụng phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp
luật thì các ngân hàng còn phân loại khách hàng thành khách hàng truyền
thống và quan trọng, khách hàng khác. Đối với khách hàng truyền thống và
quan trọng thường được hưởng các chính sách ưu đãi của ngân hàng.
Về qui mô và giới hạn tín dụng, ngân hàng sẽ cam kết tài trợ cho khách
hàng theo số tiền và hạn mức nhất định. Số lượng tài trợ có thể được chia nhỏ
trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khách
8
nhau. Ngân hàng có thể tài trợ tối đa bằng nhu cầu của khách và phù hợp với
các điều luật và dựa trên các tính toán của ngân hàng về rủi ro và sinh lời.
Đối với chính sách lãi suất và phí suất tín dụng các ngân hàng cần có các
mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kì hạn, tuỳ theo loại tiền hoặc theo
khách hàng. Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất tín dụng thường phải tính
đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường.
Trong chính sách tín dụng giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lí
ngân hàng chú ý bởi kỳ hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro của ngân
hàng và chu kỳ kinh doanh của người vay. Ngân hàng cần xác định rõ thời
hạn cung ứng tín dụng dựa trên việc cân đối giữa thời hạn của nguồn vốn và
thời hạn do đặc điểm luân chuyển vốn và qui mô thu nhập của người vay.
Một trong những nội dung quan trọng liên quan đến mức độ an toàn
trong mỗi khoản vay đó chính là các khoản đảm bảo. Đối với các khách hàng
có truyền thống, có uy tín ngân hàng cho vay không cần ký hợp đồng đảm
bảo. Nhưng những trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn
ngân hàng cần phải ký hợp đồng đảm bảo. Trong chính sách tín dụng cần phải
quy định rõ danh mục các tài sản được đảm bảo, mức độ cho vay trên từng
loại tài sản đảm bảo.
Ngoài ra, trong chính sách tín dụng cũng cần phải quy định các điều kiện
giải ngân, điều kiện thanh toán nhằm đảm bảo cho khoản vay sử dụng vốn
vay đúng mục đích, phù hợp với tiến độ sử dụng vốn vay và nguồn thu nhập
của khách hàng. Ngân hàng cũng cần đưa ra các quy định đối với các tài sản
có vấn đề bao gồm những nội dung như: mức rủi ro có thể chịu được, các yếu
tố cấu thành nợ có vấn đề, mức độ “xấu” của khoản nợ, trách nhiệm giải
quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
9
1.1.2.3. Nội dung hoạt động tín dụng của NHTM
Để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được duy trì và phát triển
vững chắc đòi hỏi hoạt động cho vay của NHTM phải an toàn, hiệu quả.
Muốn vậy việc cấp tín dụng phải được thực hiện theo những nội dung sau:
* Nguyên tắc khi cấp tín dụng
Thứ nhất: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng. Đây là nguyên tắc cơ bản, vì có sử dụng vốn đúng mục đích thì
khách hàng mới có thể thực hiện được dự án, phương án sản xuất kinh doanh
theo lợi ích dự kiến và do vậy mới có thể thu hồi được vốn để hoàn trả nợ cho
ngân hàng. Nguyên tắc này nhằm hạn chế rủi ro đạo đức và hạn chế khả năng
khách hàng dùng vốn vay để thực hiện hành vi mà pháp luật cấm.
Thứ hai: Phải hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Nguyên tắc này đảm bảo
phương châm hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay và hạch toán kinh
doanh lấy thu bù chi và có lãi.
* Điều kiện vay vốn
Là những quy định pháp lý cụ thể của ngân hàng đối với khách hàng có
nhu cầu vay vốn. Ngân hàng chỉ cho vay đối với khách hàng đáp ứng được
yêu cầu do ngân hàng đề ra. Điều kiện vay vốn bao gồm:
- Địa vị pháp lý của khách hàng vay vốn: khách hàng phải có năng lực
pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định
của pháp luật.
- Có khả năng tài chính và đảm bảo trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín
dụng đã ký kết. Khả năng tài chính của khách hàng được thể hiện thông qua
mức độ vốn chủ sở hữu của khách hàng tham gia vào quá trình sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống, tình hình tài chính lành mạnh, kinh doanh có lãi.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: khách hàng không được vay vốn
để sử dụng cho các mục đích mà pháp luật cấm.
10
- Có tài liệu chứng minh khả năng tiếp thu vốn vay phù hợp với quy định
của pháp luật và khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng.
* Quy trình tín dụng
Thông thường khi cấp tín dụng cho khách hàng các ngân hàng thường
xây dựng các quy trình tín dụng theo đó cụ thể hoá các nguyên tắc, các
quy định và sắp xếp các khâu của quy trình cấp tín dụng theo một trật tự
nhất định.
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong cấp tín dụng. Quy trình tín dụng có thể được mô tả theo sơ đồ 1.1:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ quy trình tín dụng
11
Thanh lý hợp đồng
Gia hạn nợ
Xử lý TS, khởi kiện
Khách Hàng
CB tín dụng
HS xin vay
Thẩm đinh hồ sơ
Giải ngân
Ký HĐ tín dụng
TH QĐ cho vay
Quyết đinh cho vay
Tổ chức giám sát
khách hàng cho vay
Thu nợ
Thu đủ
Xử lý rủi ro
Thu không đủ
(1) (2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(8)
(9)
(10)
(11b)
(11a)
(7)
Thu thập thông tin
- Thị trường
- Chính sách
- Pháp lý
- Khách hàng
Việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của hoạt động cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.
Quy trình tín dụng được sử dụng làm cơ sở cho việc tổ chức khoa học
công tác quản trị tín dụng phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt động của
từng ngân hàng, trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng thành viên trong
mỗi tổ chức, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, phối phợp nhịp nhàng giữa các
phòng ban trong quá trình cho vay.
Dựa vào quy trình tín dụng để ngân hàng thiết lập các thủ tục hành chính,
thiết kế thủ tục cho vay cho phù hợp với các quy định của pháp luật, thích ứng
với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay của ngân hàng cũng như kỹ
thuật nghiệp vụ tín dụng vừa đảm bảo cho ngân hàng có đủ các thông tin cần
thiết nhưng không phiền hà cho khách hàng, vừa đảm bảo mục tiêu an toàn
trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Quy trình tín dụng được công bố công khai tạo điều kiện cho từng cán bộ
nhân viên nhận thức đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm, công việc cụ thể của
mình trong qúa trình ngân hàng thực hiện cho vay để thống nhất thực hiện tạo
sự nhịp nhàng trong quá trình xử lý đề nghị vay vốn của khách hàng.
Bên cạnh đó quy trình tín dụng còn là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp
tín dụng và điều chỉnh chính sách cho vay cho phù hợp với thực tiễn. Thông
qua công tác kiểm soát, nhà quản trị ngân hàng nhanh chóng xác định được
những khâu công việc cần điều chỉnh, những quy định không còn phù hợp
trong chính sách tín dụng, những bất hợp lý trong việc thực hiện từ đó có
những thay đổi nhằm tăng cường giám sát việc sử dụng vốn vay của khách
hàng cũng như trong hoạt động tín dụng.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động
kinh doanh của NHTM. Trong hoạt động kinh doanh các ngân hàng luôn phải
12
đối mặt với rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro lãi
suất, rủi ro hối đoái, rủi ro khác…Một trong các loại rủi ro cơ bản đó chính là
rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là xác suất hay khả năng khi một hoặc các bên tham gia
hợp đồng tín dụng không thực hiện đúng các nghĩa vụ theo các điều khoản
đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi ngân hàng cấp tín dụng cho
khách hàng, ngân hàng sẽ nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành
với sự cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Nếu tất cả các
khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn thì
sẽ không xẩy ra rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay bị phá sản không có
khả năng trả nợ gốc và lãi hoặc cố ý không trả nợ cho ngân hàng thì xảy ra rủi
ro tín dụng.
Để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng các nhà quản lý ngân hàng thường
đưa ra các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng. Có rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh
rủi ro tín dụng song các chỉ tiêu được các ngân hàng thương mại thường sử
dụng như:
(1) Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là các khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến
hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được
vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ
quá hạn. Chỉ tiêu này càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại càng lớn.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ phản ánh tỷ trọng nợ quá hạn trên
tổng số vốn mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Tỷ lệ này được xác định
bằng công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn
trên tổng dư nợ
=
Tổng nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao thì nguy cơ rủi ro tín dụng càng lớn. Ngược lại, tỷ lệ
13
này càng thấp phản ánh rủi ro tín dụng càng thấp. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào
chỉ tiêu này chưa đủ để đánh giá rủi ro tín dụng vì những khoản tín dụng chưa
đến hạn không có nghĩa là không có rủi ro.
(2) Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như
quá một kỳ gia hạn nợ hoặc không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo
không bán được, có nợ thua lỗ triền miên, phá sản
Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ phản ánh tỷ trọng nợ khó đòi so với số
vốn mà ngân hàng đã cho vay và nguy cơ không đòi được nợ trong kỳ.
Tỷ lệ nợ khó đòi
= Tổng nợ khó đòi
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng về khả năng không
đòi được nợ và ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Những yếu tố làm bóp méo hai chỉ tiêu trên:
Thứ nhất: do kì hạn nợ không đúng. Do không chú ý đến chu kỳ kinh
doanh của khách hàng nên nhiều cán bộ tín dụng đã cho vay không phù hợp
với chu kỳ kinh doanh của khách hàng, dẫn đến việc khi đến hạn khách hàng
không có tiền trả nợ do vậy gia tăng tổng nợ quá hạn.
Thứ hai: Do đảo nợ hoặc giãn nợ. Để che dấu số nợ quá hạn, khách hàng
và cán bộ ngân hàng có thể thoả thuận vay khoản mới để trả nợ cũ hoặc nhân
viên ngân hàng có thể giãn nợ cho khách hàng. Vì vậy làm cho chỉ tiêu nợ
quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
Thứ ba: Do chính sách cho vay. Ngân hàng có thể cho vay cho những
chính sách xoá đói giảm nghèo, cho vay hộ trợ doanh nghiệp …Phần lớn
những khoản cho vay này được thực hiện theo chỉ thị của Chính phủ. Khi
những khoản nợ này không trả được ngân hàng không thể thu hồi bằng việc
14
phát mại tài sản.
(3) Các chỉ tiêu khác
- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng
lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả của dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng
… ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại
A hoặc điểm cao thì rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C hoặc điểm thấp
thì rủi ro tín dụng cao.
- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi
là nợ quá hạn nhưng nhân viên ngân hàng nhận thấy khoản vay đang có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Ngân hàng sẽ xây
dựng thành các khoản vay có vấn đề.
- Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi
ro. Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân
hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng của một ngành, hoặc một
vùng hẹp thì rủi ro cao hơn so với đa dạng hoá.
1.2.1.2 Những ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Trong hoạt động ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động mang lại
nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng đồng thời đây cũng là hoạt động tiềm ẩn
nhiều rủi ro nhất. Khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ không chỉ ảnh hưởng đến bản
thân ngân hàng đó mà còn có nguy cơ ảnh hưởng lây truyền tới toàn bộ hệ
thống và cả nền kinh tế. Những hậu quả để lại của rủi ro tín dụng là vô cùng
nặng nề về mọi mặt.
Trước hết, rủi ro tín dụng sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối
với hoạt động của ngân hàng. Khi khách hàng không trả được nợ cho ngân
hàng nguy cơ ngân hàng không những không thu được nợ mà còn có khả
năng bị mất vốn, làm cho ngân hàng thua lỗ, nghiêm trọng hơn có thể bị phá
15
sản…gây nên những thiệt hại về mặt tài chính đối với ngân hàng. Hơn nữa
hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động có tính nhạy cảm cao nên khi
xảy ra rủi ro tín dụng rất có thể dẫn đến ngân hàng không có khả năng thanh
toán cho khách hàng. Điều này làm mất lòng tin của công chúng. Khi dân
chúng thiếu tin tưởng vào khả năng kinh doanh của ngân hàng hoặc nghi ngờ
ngân hàng mất khả năng thanh toán họ sẽ đồng loạt rút tiền gửi ra khỏi ngân
hàng, dẫn đến việc đổ bể tài chính hoặc phá sản của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng không chỉ gây nên những tác hại đối với bản thân ngân
hàng mà còn gây tác động xấu đối với nền kinh tế. Các thua lỗ trong kinh
doanh ngân hàng có thể làm cổ đông mất vốn đầu tư, những người gửi tiền
mất đi khoản tiền tiết kiệm mà họ đã giành giụm được. Dân chúng mất lòng
tin vào hệ thống tài chính, hệ thống ngân hàng không hoạt động được, kinh tế
sẽ bị suy thoái.
Qua phân tích ở trên ta thấy tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của
NHTM, đồng thời cũng là nghiệp vụ có nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân
hàng, trong nền kinh tế thị trường rủi ro luôn tiềm ẩn đối với mỗi một ngân
hàng, nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và
kinh doanh mới. Do đó quản lý rủi ro đặc biệt là quản lý rủi ro tín dụng là một
yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM.
1.2.1.3 Một số nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Để quản lý tốt rủi ro tín dụng điều cơ bản phải tìm ra những nguyên nhân
gây nên rủi ro tín dụng. Có nhiều nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, song
có thể chia thành hai nhóm nguyên nhân chính là nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
* Những nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân không phụ thuộc vào ý chí chủ quan ngân
16
hàng. Những nguyên nhân khách quan như thiên tai, chiến tranh hoặc những
thay đổi vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những rủi ro này gây nên hậu quả nặng nề cho người vay nên người vay bị
lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính và không đủ khả năng thanh toán nợ
cho ngân hàng. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khách quan khác như
người vay gặp rủi ro bất ngờ, bị chết hoặc mất tích dẫn đến không thanh toán
nợ được cho ngân hàng.
Ngoài những yếu tố trên phần lớn rủi ro tín dụng là kết quả của những
hoạt cố ý của người vay như:
Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp. Chủ yếu các khoản cho vay của
ngân hàng đối với khách hàng doanh nghiệp là để cung ứng vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh, khách hàng dùng chính thu nhập thu được từ việc sản
xuất kinh doanh để trả nợ cho ngân hàng. Vì vậy, nếu khách hàng kinh doanh
không có hiệu quả thì sẽ không trả được nợ cho ngân hàng. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất kinh doanh không có hiệu quả như:
Thứ nhất, do trình độ quản lý yếu kém dẫn đến không dự đoán được các
vấn đề trong kinh doanh, thiếu thông tin về tài chính, sản phẩm làm ra không
phù hợp với thị hiếu, không có khả năng thích ứng với những thay đổi của thị
trường… dẫn đến hàng hoá không tiêu thụ được, thua lỗ trong kinh doanh,
mất khả năng thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, do sự yếu kém của nhân viên của doanh nghiệp. Đội ngũ nhân
viên trong doanh nghiệp có những bất cập về trình độ chuyên môn, kỷ luật lao
động không cao, đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo… dẫn đến kế hoạch
sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện không thành công, kém hiệu
quả.
Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của khách hàng. Vì không đủ điều kiện
17
vay vốn nên một số doanh nghiệp vẫn cố tình thực hiện các thủ đoạn để lừa
ngân hàng, cố tình cung cấp thông tin sai sự thật, cố tình trì hoãn việc trả tiền
vay cho ngân hàng…
Đối với khách hàng là cá nhân. Các khách hàng cá nhân vay vốn ngân
hàng chủ yếu để phát triển kinh tế hộ gia đình hoặc vay tiêu dùng. Mặc dù
việc cho vay đối với một cá nhân thường không lớn, nhưng các khách hàng là
cá nhân lại nhiều và phân tán nên việc quản lý khoản vay trở nên hết sức khó
khăn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các khách hàng là cá nhân không
trả được nợ cho ngân hàng. Đối với khách hàng cá nhân vay vốn để sản xuất
kinh doanh nguyên nhân dẫn đến không trả nợ được cho ngân hàng là do hoạt
động sản xuất kinh doanh không thuận lợi. Đối với khách hàng vay tiêu
dùng, nguồn đảm bảo của khoản vay là thu nhập của họ nhưng do nguồn thu
nhập bị mất hoặc giảm do mất việc hoặc chuyển sang việc khác lương thấp
hơn hoặc mất khả năng lao động thì người vay sẽ không có khả năng để thanh
toán nợ. Hoặc, cá nhân gặp rủi ro trong cuộc sống nên phải chi trả một khoản
tiền lớn nên ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Hoặc, đạo đức
nghề nghiệp của người vay không tốt cố tình lừa ngân hàng và sử dụng tiền
vay sai mục đích, không đem lại hiệu quả và không thu hồi được.
* Những nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân từ bên ngoài mang lại, các nhà quản lý
cũng cần tìm ra những nguyên nhân từ phía ngân hàng để đưa ra các biện
pháp quản lý kịp thời. Một số các nguyên nhân chủ yếu như:
Thứ nhất, do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho những
khách hàng kinh doanh kém hiệu quả vay vốn, nên việc thu hồi nợ gặp khó
khăn, đến hạn khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Thứ hai, cán bộ ngân hàng bất cập về trình độ hoặc vi phạm đạo đức
18
trong kinh doanh, dẫn đến cho vay khống, cho vay không đúng mục đích,
thẩm định dự án đầu tư hoặc phương án kinh doanh không chính xác.
Thứ ba, do ngân hàng cho vay dựa trên đảm bảo bằng tài sản nhưng giá trị tài
sản đảm bảo tiền vay không đáp ứng được yêu cầu thu nợ của ngân hàng.
Thứ tư, ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt kỳ vọng về lợi tức cao hơn
khoản cho vay lành mạnh nên mở rộng cho vay mà không chú ý đến chất
lượng khoản vay.
P. Volker, cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu
ngân hàng không có những khoản nợ xấu thì đó không phải là hoạt động kinh
doanh”. Điều đó cho thấy rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ xấu là một thực tế
hiển nhiên ở bất cứ ngân hàng nào, kể cả các ngân hàng hàng đầu trên thế giới
bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy, các ngân
hàng cần xây dựng một mô hình quản trị rủi ro hiệu quả, phù hợp với môi trường
hoạt động để hạn chế được những rủi ro tín dụng mang tính chủ quan, xuất phát
từ yếu tố con người và những rủi ro tín dụng khác có thể kiểm soát được.
1.2.2. Quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là toàn bộ quá trình xây dựng chính sách, tổ chức
bộ máy, quy trình kiểm tra giám sát liên tục bắt đầu từ khâu thẩm định khách
hàng đến khâu quyết định cho vay, giải ngân theo dõi và xử lý các khoản nợ
có vấn đề nhằm giảm tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với
hoạt động tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
1.2.2.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng
Trong quá trình thực hiện quản lý rủi ro tín dụng các ngân hàng dựa trên
những nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel.
Uỷ ban Basel một ủy ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động
19
ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các thống đốc Ngân hàng Trung
ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy
Điển, Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại Thành
phố Basel (Thụy Sĩ).
Quan điểm của Ủy ban Basel là: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng
của một quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe dọa đến sự
ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Uỷ ban Basel đã nghiên cứu
và đưa ra các nguyên tắc trong quản lý rủi ro tín dụng và được nhiều ngân
hàng ở các nước áp dụng. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là
trong lĩnh vực ngân hàng việc áp dụng các nguyên tắc của Ủy ban Basel về
quản lý rủi ro tín dụng là một xu thế tất yếu. Uỷ ban Basel đã ban hành 17
nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong
quản trị rủi ro tín dụng để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động
cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung
này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định
kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến
lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp
nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi
các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo
lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng
khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản
lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là các
sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của
Hội đồng quản trị.
- Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): các ngân hàng cần
20
xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối
tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…). Ngân hàng cần
xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm
khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng
có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với
khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy
trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia
của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín
dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời, cần
phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức
nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản
lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch
công bằng giữa các bên, đặc biệt, cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý đối
với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ.
- Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp
(10 nguyên tắc): Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật
đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín
dụng, thu thập thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp
đồng vay… theo quy mô và mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời, hệ
thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân
thủ các giao kèo của khách hàng … để phát hiện kịp thời những khoản vay có
vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng
xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của
ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Trách
nhiệm đối với các khoản tín dụng này có thể được giao cho bộ phận tiếp thị
hay bộ phận xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận này, tùy theo quy mô và
bản chất của mỗi khoản tín dụng. Ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân
21
hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý
rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có
tiềm năng rủi ro của ngân hàng.
Như vậy, trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc
Basel có một số điểm cơ bản:
- Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân
tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của
các bộ phận tham gia.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
- Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy
trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm
định và quản lý rủi ro tín dụng.
Trên cơ sở các nguyên tắc trên các ngân hàng sẽ xây dựng cho mình một
chính sách quản lý rủi ro tín dụng riêng biệt phù hợp để phòng chống rủi ro
tín dụng và đưa ra các giải pháp điều tiết thích hợp khi có rủi ro xảy ra.
1.2.2.3. Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng
(1) Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng
Cơ cấu tổ chức tín dụng là một trong những nội dung quan trọng để quản
lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng cần phải xây
dựng một cơ cấu tổ chức tốt, phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế để
tạo ra một phương thức hạn chế rủi ro tín dụng tốt nhất. Khi xây dựng cơ cấu
tổ chức quản lý rủi ro tín dụng cần phải đảm bảo những nội dung cơ bản như:
Bộ máy quản trị rủi ro tín dụng từ Hội sở chính đến các chi nhánh với sự
phân cấp rõ ràng về mức phán quyết, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận,
đồng thời xây dựng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng, chính sách phân bổ
22
tín dụng, chính sách khách hàng, xây dựng danh mục đầu tư …
Phân định trách nhiệm giữa các bộ phận chuyên môn khác nhau như bộ
phận quan hệ khách hàng tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc
khách hàng, khởi tạo tín dụng, bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện thẩm
định tín dụng độc lập và ra các ý kiến về cấp tín dụng cũng như giám sát quá
trình thực hiện các quyết định tín dụng của bộ phận quan hệ khách hàng, bộ
phận tác nghiệp thực hiện lưu trữ hồ sơ, nhập hệ thống máy tính và quản lý
khoản vay….
(2) Chính sách quản lý rủi ro tín dụng.
Để phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản
nợ đã cho khách hàng vay, các cơ quan quản lý trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng đã ban hành các chính sách nhằm quản lý rủi ro tín dụng góp phần lành
mạnh hoá hoạt động tín dụng.
Một chính sách quản lý rủi ro tín dụng gồm những nội dung chủ yếu như
chính sách giới hạn tín dụng, chính sách hạn mức, chính sách giới hạn nợ xấu.
Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng được quy định theo một tỷ lệ phần
trăm nhất định trên vốn tự có của tổ chức tín dụng nhằm tránh tập trung tín
dụng quá lớn vào một khách hàng. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng
đối với một nhóm khách hàng có liên quan cũng được quy định theo một tỷ lệ
phần trăm nhất định so với vốn tự có và quy định về tỷ lệ cho vay tối đa của
nguồn vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn nhằm đảm bảo cân đối về
thời hạn của từng nguồn vốn.
Trên cơ sở khả năng trả nợ của khách hàng các ngân hàng tiến hành phân
loại nợ thành những nhóm và dựa vào mức độ rủi ro của từng nhóm để trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng.
Về phân loại nợ, tổ chức tín dụng thực hiện phận loại nợ theo 05 nhóm sau:
23