Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

thực trạng kinh doanh đa cấp ở việt nam hiện nay vấn đề quản lý bán hàng đa cấp của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.75 KB, 48 trang )

Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN
Nhóm 2. Lớp Quản lý công 54/ Khu vực công & Quản lý công
1. Nguyễn Cẩm Nhung
2. Lê Thị Hoàng Yến
3. Phạm Minh Tuấn
4. Nguyễn Đại Thành
5. Ninh Thị Phương
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG KINH DOANH ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VẤN ĐỀ: QUẢN LÝ BHĐC CỦA NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHĐC
1. Nguồn gốc của hình thức kinh doanh đa cấp
Nguồn gốc của phương thức BHĐC hay còn gọi là kinh doanh theo mạng (Multi Level
Marketing – MLM) gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học người Mỹ có tên là Karl
Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đưa tư tưởng kinh doanh theo mạng vào
cuộc sống, tạo ra một phương thức kinh doanh mới được đánh giá là có nhiều triển vọng
trong thế kỷ 21. Năm 1927, Renborg bắt đầu công việc kinh doanh của mình bằng việc
chế biến những sản phẩm bổ sung dinh dưỡng. Trong giai đoạn khởi đầu kinh doanh, để
giải quyết khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, Renborg đưa ra một ý tưởng mà có thể
nói là nguyên lý cơ bản cho ngành kinh doanh theo mạng sau này. Renborg đề nghị bạn
bè của mình truyền bá thông tin về chất bổ sung dinh dưỡng cho người quen của họ và
nếu người quen của họ mua sản phẩm thì ông sẽ trả một khoản hoa hồng cho người giới
thiệu. Không chỉ dừng ở đó, ông còn quyết định là sẽ trả hoa hồng cho những người quen
của bạn mình nếu những người này tiếp tục truyền bá về sản phẩm trong các mối quan hệ
của họ. Nhờ có phương pháp này thông tin về chất bổ sung dinh dưỡng được truyền bá
rộng rãi, doanh thu bán hàng của công ty tăng vượt sức tưởng tượng. Đây chính là thời
điểm đánh dấu sự ra đời của phương thức BHĐC. Năm 1934, Karl Renborg thành lập
công ty “Vitamins California”. Trong phương thức bán hàng kiểu mới này, người tiêu
dùng cũng đồng thời là người truyền bá sản phẩm (hay gọi là nhà phân phối độc lập –


Distributor).
Theo các chuyên gia về kinh doanh theo mạng trên thế giới thì lịch sử phát triển của
phương thức này có thể được phân chia thành những thời kỳ lớn như sau:
1
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
 Thời kỳ thứ nhất (1940 - 1979): là thời kỳ bắt đầu hình thành ngành kinh doanh
theo mạng với khoảng 30 công ty ra đời tại Mỹ.
 Thời kỳ thứ hai (1979 - 1990): là thời kỳ bùng nổ của kinh doanh theo mạng.
Trong giai đoạn này có hàng trăm công ty đăng ký thành lập sau mỗi ngày với đủ
loại mặt hàng và sơ đồ kinh doanh. Đây cũng là thời kỳ phát triển và chọn lọc tự
nhiên.
 Thời kỳ thứ ba (từ năm 1990 trở đi): nhờ có sự phát triển của khoa học công nghệ
trong lĩnh vực truyền thông nên kinh doanh theo mạng đã mang một màu sắc mới.
Các nhà phân phối độc lập có thể đơn giản hóa công việc của mình nhờ vào hội
thảo vô tuyến, internet và những phương tiện truyền thông tiên tiến khác. Khác
với thời kỳ thứ hai, những nhà phân phối độc lập phải là những nhà hùng biện và
họ phải đi lại như con thoi giữa các mạng lưới, trong thời kỳ thứ ba bất cứ ai cũng
có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để tham gia vào phương thức kinh
doanh này.
2. Khái niệm của kinh doanh đa cấp.
a) Khái niệm
Bán hàng đa cấp (tên gọi thông dụng tại Việt Nam) hay kinh doanh đa cấp (Tiếng anh:
multi-level marketing) hoặc kinh doanh theo mạng (network marketing) là thuật ngữ
chung dùng để chỉ một phương thứctiếp thị sản phẩm. Đây là hoạt động kinh doanh/ bán
hàng trực tiếp đến tayngười tiêu dùng, người tiêu dùng có thể trực tiếp đến mua hàng tại
công ty mà không phải qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Tuy nhiên, hình thức kinh
doanh này thường bị hiểu nhầm với hình thức kinh doanh tháp ảo do sự phức tạp của
nguồn gốc và cách thức chi trả hoa hồng.
b) Đặc trưng
BHĐC là một hình thức phát triển của bán hàng trực tiếp. Bán hàng trực tiếp là phương

thức phân phối hàng hoá không qua bất kỳ một cấp trung gian nào. Mọi hoạt động sản
xuất, phân phối hàng hoá đến tay người tiêu dùng đều do nhà sản xuất/nhà phân phối
đảm nhiệm thông qua mạng lưới những người bán hàng trực tiếp.
Trong BHĐC, khi một nhà phân phối độc lập tạo dựng được mạng lưới của riêng mình
thì thu nhập của họ có thể tăng trưởng thêm tùy vào mức độ mà họ xây dựng cho hệ
thống. BHĐC sử dụng kết hợp cả nguyên lý chia sẻ và nguyên lý phát triển theo cấp số
nhân để làm cơ sở phát triển cho hệ thống phân phối của mình.
Nguyên lý chia sẻ hay quảng cáo truyền miệng là hình thức quảng cáo, truyền bá sản
phẩm dựa vào tâm lý của con người. Đó là khi chúng ta biết đến, sử dụng một sản phẩm
hay dịch vụ nào đó tốt mà chúng ta cảm thấy hài lòng chúng ta thường có thói quen chia
sẻ nó với những người thân, bạn bè, đồng nghiệp.
Để thấy được sức mạnh của câp số nhân ta có thể lấy một ví dụ như sau :
2
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Đặc trưng của BHĐC là sao chép. Trong mạng lưới, nhà phân phối độc lập đến trước
phải sao chép lại chính mình cho những người đến sau, và nhà phân phối đó sẽ trở thành
người đỡ đầu hay người bảo trợ. Có nghĩa là nhà phân phối độc lập phải truyền lại cho
những người thuộc mạng lưới của mình một niềm đam mê vào công viêc, những kiến
thức và kinh nghiệm về sản phẩm cũng như công việc, và họ luôn mong muốn người đi
sau giỏi hơn mình.
BHĐC không phải là một công việc đơn giản. Qua nhiều năm kinh nghiệm của hàng
chục triệu người trên thế giới đã chứng minh rằng kiếm tiền trong mạng lưới BHĐC đòi
hỏi một sự đầu tư thời gian lớn cũng như những kỹ năng cá nhân và sự kiên trì. Ngoài sự
chăm chỉ và tài năng ra, công việc này chiếm phần lớn thời gian của mỗi người. Trong
mạng lưới BHĐC, ai cũng có triển vọng và bất cứ thời điểm nào cũng là thời điểm tiềm
năng cho marketing. Không có giới hạn về không gian, con người, thời gian hay việc bán
hàng. Do vậy không có thời gian rảnh rỗi hay nghỉ ngơi nào một khi tham gia vào mạng
lưới BHĐC. BHĐC không phải là trò may rủi, nó đòi hỏi sự cần cù lao động, người tham
gia bán hàng không thể thành công với BHĐC nếu họ không có lòng đam mê và không
có lòng kiên trì cao độ.

3. So sánh phương thức BHĐC và phương thức kinh doanh truyền thống.
 Trong nền kinh tế thương mại nói chung hiện nay đang tồn tại những mô hình
phân phối hàng hoá và dịch vụ như sau:
3
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Kênh 1là mô hình phân phối trực tiếp, sản phẩm đi trực tiếp từnhà sản xuất tới người tiêu
dùng không qua một cấp trung gian nào cả.
Kênh 2:hàng hoá được lưu thông qua một cấp trung gian là nhà bán lẻ
Kênh 3:có thêm một cấp trung gian là đại lý bán buôn.
Kênh 4:gồm ba cấp trung gian là nhà bán buôn, trung gian, và nhà bán lẻ.
Trên thực tế còn nhiều cấp trung gian hơn nữa, và càng nhiều cấp trung gian thì việc
kiểm soát càng trở nên khó khăn. Ở kênh 1 mặc dù hàng hoá được bán trực tiếp đến
người tiêu dùng, nhưng công ty phải quản lý một đội ngũ nhân viên bán hàng rất lớn,
điều này là rất khó khăn.
 Trong BHĐC, đội ngũ nhân viên đó được thế bằng đội ngũ các nhà phân phối độc
lập và công ty không phải quản lý họ. BHĐC sử dụng hai kênh phân phối sau:
Như vậy, ta có thể dễ dàng so sánh hai hình thức phân phối này dựa vào mô hình phân
phối của chúng.
Ở phương thức bán hàng truyền thống, Chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại và chi phí
cho các khâu trung gian chiếm 50% - 80% giá bán sản phẩm. Trong hình thức phân phối
truyền thống, thông thường các sản phẩm sau khi được sản xuất ra tại nhà máy sẽ được
4
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
phân phối đến các đại lý khu vực, đại lý bán sỉ, đại lý bán lẻ, rồi sau đó mới đến tay
người tiêu dùng. Trong trường hợp nếu sản phẩm đó là nhập khẩu thì sẽ thêm một khâu
trung gian nữa đó chính là nhà nhập khẩu sản phẩm. Để kiếm được lợi nhuận thì các nhà
kinh doanh thường phải tăng giá ở các khâu trung gian. Phần tăng thêm này chính là hoa
hồng trả cho các khâu trung gian. Thông thường các khâu này chiếm từ 30% - 40% giá
bán ra của một sản phẩm. Bên cạnh đó người tiêu dùng còn phải chịu một khoản chi phí
khác nữa, đó là chi phí dành cho quảng cáo, tiếp thị, tuyên truyền và khuyến mãi. Khoản

chi phí này thường chiếm khoảng 40% giá bán ra của một sản phẩm.
Còn ở hình thức BHĐC, sản phẩm sau khi được sản xuất ra tại nhà máy sẽ được phân
phối bởi một công ty tiêu thụ hay nhập khẩu. Từ đây sản phẩm được đưa trực tiếp đến
người tiêu dùng. Khi đó giá bán của sản phẩm sẽ rẻ hơn nhiều, vì vậy đương nhiên người
tiêu dùng sẽ được hưởng lợi. Và do tiết kiệm được những chi phí trung gian mà mức
phần trăm thưởng cho các nhà phân phối sẽ khá cao, ngoài ra công ty còn có lợi nhuận
cao hơn để đầu tư nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Do vậy, các công ty BHĐC chân
chính đều có những sản phẩm độc đáo, chất lượng tốt và luôn được nâng cao, đồng thời
sản phẩm được bảo vệ độc quyền.
Sản phẩm chỉ đến được tay người tiêu dùng khi đi qua một nhà phân phối, nghĩa là bạn
không thể mua hàng trong công ty nếu không có một mã số (ID) của một nhà phân phối
nào đó. Bất cứ một nhà nhân phối nào cũng phải lấy hàng trực tiếp từ công ty thì mới
được công ty trả hoa hồng. Nhà phân phối cấp một sẽ được nhận thêm phần trăm hoa
hồng nếu nhà phân phối cấp hai (người được mình giới thiệu, đỡ đầu) bán được sản phẩm
tới tay khách hàng. Cứ như vậy, càng nhiều các nhà phân phân phối phía dưới làm việc
hiệu quả thì nhà phân phối cấp một sẽ được hưởng một lượng hoa hồng tích lũy lớn.
4. Ưu điểm và nhược điểm của Kinh doanh đa cấp
 Ưu điểm:
- Đối với doanh nghiệp
Tiết kiệm chi phí (không cần bỏ ra 1 khoản tiền lớn cho quảng cáo và chi phí cho nhiều
khâu trung gian là các đại lý và cửa hàng bán lẻ, chi phí vận chuyển như trong mô hình
kinh doanh truyền thống.
Tập trung nghiên cứu, phát triển sản phẩm.
Tạo ra một đội ngũ tiếp thị tư vấn bán hàng khổng lồ khắp mọi nơi trên thế giới một cách
nhanh chóng và ổn định bền lâu.
- Đối với người tham gia
Không yêu cầu cố định thời gian, tham gia bán thời gian và có thể mang lại thu nhập lớn.
Được tăng cường kĩ năng khi tham gia, mở rộng mối quan hệ, không yêu cầu kinh
nghiệm.
- Đối với xã hội

5
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Tiết kiệm chí phí, tăng ngân sách nhà nước và phúc lợi xã hội.
Tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy nền kinh tế Quốc dân
Kích thích tiêu dùng, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc
sống.
 Nhược điểm
- Đối với doanh nghiệp
Do có số nhà phân phối lớn, nên rất khó kiểm soát hành vi của những nhà phân phối. Vì
thế uy tín của công ty có thể bị ảnh hưởng.
- Đối với người tham gia
Không có thu nhập ổn định, không được đảm bảo là sẽ có thu nhập
Cạnh tranh khá mạnh
Dễ bị mang tiếng là lừa đảo
- Đối với xã hội
Mô hình dễ bị lợi dụng, biến tướng thành mô hình kim tự tháp, gây bức xúc dư luận
6
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Chương II: THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP BHĐC TẠI
VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BHĐC TẠI VIỆT NAM
1.Thực trạng phát triển ngành Công nghiệp BHĐC tại Việt Nam
1.1. Số lượng doanh nghiệp đăng ký tổ chức BHĐC
Theo tổng hợp báo cáo của các Sở Công Thương, tính đến hết ngày 31/12/2011, trên toàn
quốc đã có 88 doanh nghiệp được cấp Giấy đăng ký tổ chức BHĐC, có 07 Sở Công
Thương địa phương đã cấp giấy đăng ký tổ chức BHĐC cho các doanh nghiệp bao gồm
Hà Nội: 42 doanh nghiệp, TP. Hồ Chí Minh: 40 doanh nghiệp, Bình Dương: 01 doanh
nghiệp, Đồng Nai: 02 doanh nghiệp, Hải Dương: 01 doanh nghiệp, Quảng Ninh: 01
doanh nghiệp và Hải Phòng: 01 doanh nghiệp.
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp hoạt động BHĐC

Nguồn: Tổng hợp báo cáo từ các Sở Công Thương
Trong số 88 doanh nghiệp đã được cấp giấy đăng ký, có 25 doanh nghiệp đã tạm ngừng,
chấm dứt tổ chức BHĐC và có 2 doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép BHĐC.
Nếu như năm 2006, số doanh nghiệp BHĐC hoạt động tại Việt Nam mới chỉ có 13 doanh
nghiệp thì đến hết tháng 5 năm 2013, Sở Công Thương các tỉnh đã cấp phép cho 88
doanh nghiệp BHĐC. Số lượng doanh nghiệp tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, số lượng
doanh nghiệp tập trung chủ yếu tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp BHĐC đều có hoạt động tại các tỉnh nơi
doanh nghiệp không đặt trụ sở chính, hơn nữa, các văn bản pháp luật về BHĐC hiện nay
7
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
chưa điều chỉnh hết các hoạt động của doanh nghiệp BHĐC. Điều này dẫn đến chồng
chéo trong công tác giám sát và quản lý hoạt động BHĐC giữ các cơ quan quản lý nhà
nước và giữ cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp.
Năm 2013, có thêm hai Sở Công Thương cấp Giấy đăng ký tổ chức BHĐC cho doanh
nghiệp hoạt động trên địa bàn (Sở Công Thương tỉnh Quảng Ninh và Sở Công Thương
thành phố Hải Phòng). Điều này cho thấy xu hướng các doanh nghiệp không còn tập
trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nữa mà tập trung khai
các thị trường tiềm năng khác.
Tuy nhiên, hiện nay, quá trình cấp Giấy đăng ký tổ chức BHĐC tại các tỉnh thiếu sự đồng
nhất. Cũng với một bộ hồ sơ xin cấp Giấy đăng ký tổ chức BHĐC, nếu nộp tại Sở Công
Thương thành phố Hồ Chí Minh thì doanh nghiệp không được cấp phép, nhưng nếu nộp
tại Sở Công Thương Hà Nội thì doanh nghiệp lại đượ cấp phép. Điều này chứng tỏ cần
phải có một cơ quan quản lý ngành chịu trách nhiệm việc cấp Giấy đăng ký tổ chức
BHĐC tránh tình trạng mỗi nơi làm một cách và không thống nhất dẫn đến gây phiền hà
cho doanh nghiệp.
Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp BHĐC từ năm 2006 đến nay
Đơn vị: Số Doanh nghiệp
Nguồn: Tổng hợp báo cáo từ các Sở Công Thương
1.2. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp

 Tốc độ tăng trưởng về số lượng người tham gia BHĐC
Sau 8 năm hoạt động số lượng người tham gia BHĐC đã tăng khoảng 4,6 lần từ 235
nghìn người năm 2006 lên khoảng 1 triệu người năm 2011 và vẫn duy trì khoảng 1 triệu
người năm 2012.
8
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Những năm gần đây, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp phá sản rất
lớn, tỉ lệ người mất việc làm cũng tăng đáng kể gây nhiều gánh nặng cho xã hội. Tuy
nhiên, ngành BHĐC vẫn duy trì được sử ổn định. Với chỉ khoảng 60 doanh nghiệp hoạt
động nhưng đã tạo công ăn việc làm cho khoảng 1 triệu người lao động. Tuy còn nhiều
vấn đề cần giải quyết nhưng về khía cạnh tạo công ăn việc làm cho người lao động, đây
là một đóng góp to lớn cho toàn xã hội của ngành công nghiệp BHĐC tại Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng về số lượng người tham gia BHĐC thể hiện rõ hơn tại biểu đồ dưới
đây.
Biểu đồ 2: Số lượng người tham gia BHĐC tại Việt Nam
Đơn vị: Số người
Nguồn: Tổng hợp báo cáo từ các doanh nghiệp
Theo đó, 5 doanh nghiệp có số lượng người tham gia BHĐC nhiều nhất là Công ty Lô
Hội, Amway Việt Nam, Mỹ phẩm Thường Xuân, AVO Việt Nam và Herbalife Việt
Nam. Trong số này, đáng chú ý là công ty TNHH Amway Việt Nam có tới hơn 269 nghìn
người tham gia BHĐC, chiếm hơn ¼ lượng người BHĐC tại Việt Nam.
 Tốc độ tăng trưởng doanh số bán hàng
Thị trường BHĐC tại Việt Nam tăng trưởng không ngừng từ năm 2006 đến nay và ngày
càng trở thành thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp BHĐC trong nước và quốc tế.
Nếu như năm 2005 doanh số bán hàng của ngành BHĐC chỉ đạt khoảng 600 tỷ đồng thì
đến năm 2012, doanh số bán hàng đã tăng lên gấp 5,5 lần, đạt con số 4.060 tỷ đồng.
9
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Biểu đồ 3: Tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp BHĐC
Đơn vị: VNĐ

 Đóng góp vào ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp BHĐC
Tổng số thuế các doanh nghiệp đã nộp vào ngân sách nhà nước trong giai đoạn từ năm
2005 đến hết năm 2012 đạt khoảng 2.300 tỷ đồng
Biểu đồ 4: Số thuế doanh nghiệp BHĐC nộp NSNN giai đoạn 2005-2012
10
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Đơn vị: VNĐ
Nguồn: Tổng hợp báo cáo từ các doanh nghiệp
Ngoài ra, tổng số tiền các doanh nghiệp BHĐC tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động
từ thiện trong giao đoạn 2005-2012 đạt khoảng 25 tỷ đồng.
1.3. Về sản phẩm của các doanh nghiệp tổ chức BHĐC
 Các sản phẩm phổ biến
Biểu đồ 5: Số lượng sản phẩm đăng ký BHĐC từ năm 2005 đến nay
11
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Đơn vị: Sản phẩm
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các Sở Công Thương
Do tính chất đa công dụng của sản phẩm, thực phẩm chức năng là mặt hàng có số lượng
doanh nghiệp tham gia kinh doanh nhiều nhất, với trên 90% số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực này có kinh doanh sản phẩm thực phẩm chức năng. Ngoài ra, các doanh
nghiệp BHĐC còn kinh doanh các mặt hàng mỹ phẩm, dụng cụ trang điểm, quần áo,
hàng thời trang, đồ gia dụng
 Nguồn gốc sản phẩm
 Sản xuất trong nước
Công ty TNHH Amway Việt Nam, Công ty Avon Việt Nam, Công ty TNHH Thiên Sư
Việt Nam là những công ty nước ngoài đầu tiên đầu tư xây dựng nhà máy tại Việt Nam
để sản xuất hàng hóa phân phối trong mạng lưới BHĐC.
Công ty Cổ phẩn Quốc tế Việt Am, BHĐC sản phẩm “Máy Cân bằng Ion” do nhà máy Z
755 Bộ Quốc Phòng sản xuất.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Liên kết Việt Nam BHĐC các sản phẩm Thực phẩm chức

năng do Công ty TNHH Tư vấn Y tế dược Quốc tế (IMC), Hà Nội, sản xuất.
 Nhập khẩu từ nước ngoài
Đa số các công ty tổ chức BHĐC nhập khẩu các sản phẩm được sản xuất ở nước ngoài về
phân phối tại Việt Nam.
 Vừa nhập khẩu từ nước ngoài, vừa sản xuất trong nước
12
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Từ năm 2008 đã có rất nhiều công ty có xu hướng vừa nhập khẩu một số sản phẩm đang
kinh doanh truyền thống của công ty từ nước ngoài, đồng thời tìm kiếm những sản phẩm
được sản xuất, đóng gói ngay tại Việt Nam để tổ chức BHĐC thông qua mạng lưới phân
phối của mình tại Việt Nam.
2. Sự xuất hiện hình thức KDĐC bất hợp pháp/ Kim tự tháp
KDĐC đã rất phát triển tại Mỹ và Châu Âu, do những đặc thù riêng nên khi xâm nhập
vào các nước Châu Á như Trung Quốc hay Việt Nam, phương thức bán hàng này đã biến
tướng dưới nhiều hình thức khác nhau. Để có thể phân biệt rõ hơn về KDĐC hợp pháp và
KDĐC bất hợp pháp/ kim tự tháp, chúng ta sẽ phân biệt sự khác nhau giữa 2 hình thức
này:
KDĐC là hợp pháp nếu:
 Các công ty tuân theo các hình thức Pháp luật áp dụng cho các hình thức kinh
doanh này
 Hàng hóa và dịch vụ được vận chuyển từ Nhà sản xuất đến Người tiêu dùng,
người tiêu dùng có thể mua hàng hóa mà không nhất thiết tham gia và chương
trình
 Thu nhập của người tham gia sau có thể cao hơn người tham gia trước, tùy thuộc
vào khả năng bán hàng của họ
Một số đặc điểm để nhận biết một công ty là KDĐC bất chính:
• Hình thức
- Hoạt động bất hợp pháp: Điều này thể hiện ở việc công ty được thành lập nhưng
không có tư cách pháp nhân, hoặc đăng ký kinh doanh một đằng thực hiện tổ chức
kinh doanh một nẻo

- Có tính chất lôi kéo, ép buộc tham gia: Đưa ra những thông tin hấp dẫn về mức
thu nhập để lôi kéo người khác tham gia và những thông tin này là những thông
tin sai thực tế. Nếu vào mạng lưới mà không tham gia nữa thì bị gây sức ép, bắt
buộc hoặc dọa nạt
- Bắt buộc đóng góp một khoản tiền lớn để được tham gia hoặc bắt người tham gia
mua một lượng sản phẩm nhất định.
• Sản phẩm
- Chất lượng, giá trị sản phẩm không tương xứng với giá tiền bỏ ra
13
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
- Sản phẩm chỉ được tiêu thụ bên trong hình tháp: Không có sản phẩm thực, không
tổ chức bán hàng thực, chỉ mời người vào mạng lưới và sử dụng tiền phí nộp tham
gia của người này chuyển sang hoa hồng của người khác nhằm tạo ra thu nhập ảo
để lôi kéo người tham gia.
- Sản phẩm mua tại công ty không thể bán ra thị trường hoặc bán ra với giá thấp
hơn giá mua sỉ
- Không cam kết nhận lại sản phẩm và trả lại tiền
• Chính sách
• Người vào sau luôn bằng hoặc nhỏ hơn cấp bậc người đi trước.
• Số tiền hoa hồng người vào sau được hưởng không bao giờ có thể nhiều hơn
người vào trước: Chỉ những người tham gia từ lúc ban đầu mới có nhiều lợi ích,
càng vào sau cơ hội có lợi ích càng thấp. Hoa hồng được nhận khi có thêm người
vào mạng lưới. Phụ thuộc chủ yếu vào vị trí trong mạng lưới là cao hay thấp, trên
đỉnh hay nằm ở đáy.
Ngoài ra, một doanh nghiệp BHĐC bất chính sẽ không minh bạch về địa điểm đặt trụ sở
chính, không có con dấu và không đăng ký hoạt động kinh doanh với các cơ quan có
trách nhiệmhoặc có đăng ký cho trụ sở chính nhưng không đăng ký kinh doanh cho các
chi nhánh mới mở.
Ở Việt Nam nhiều công ty BHĐC chuyển địa bàn hoạt động sang các tỉnh vùng sâu, vùng
xa, nơi người dân , chủ yếu là nông dân, ít có dịp tiếp cận với các thông tin mới và dễ bị

lôi kéo tham gia vào mạng lưới bán hàng.
Các công ty BHĐC cũng thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, quảng bá sản
phẩm thu hút một lượng đông người đến xem dễ gây mất ỏn định trật tự xã hội. Chuyên
phát tờ rơi, tờ quảng cáo của các công ty này cũng không đóng dấu cty.
Việc chi trả tiền hoa hồng cho các thành viên cũng không kèm theo hóa đơn, chứng từ
hợp lệ.
3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng KDĐC bất hợp pháp
 Doanh nghiệp
Môi trường cạnh tranh nội bộ ngành không trong sạch. Thể hiện sự mất cân bằng giữa
các doanh nghiệp Việt và doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp nước ngoài
chiếm đa số và lượng lớn thị phần. Mặt khác là sự cạnh tranh không lành mạnh, không ít
doanh nghiệp để kéo người doanh nghiệp khác đã nói xấu lẫn nhau gây ra sự hoài nghi
cho người trong và ngoài BHĐC.
Hệ thống chính sách của doanh nghiệp như: chi trả hoa hồng, sản phẩm, đào tạo, cơ hội
phát triển là những nhân tố quan trọng trong thu hút người tham gia vào BHĐC. Tuy
nhiên, các hệ thống này của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh, tập trung
14
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
nhiều vào thu hút người tham gia chứ không phải là sản phẩm và lâu dài khiến cho thực
tế là số người tham gia vào hoạt động BHĐC tăng lên nhưng cũng gia tăng số người từ
bỏ.
Chính sách quản lí nhất là quản lí nhân sự của các doanh nghiệp BHĐC ở Việt Nam hầu
như không đầy đủ, thống nhất khiến việc quản lí khó khăn không thể nắm giữ tốt nhất
khách hàng và nhà phân phối.
Năng lực lực quản lí là yếu tố quan trọng cho công ti có thể hoạt động không chệch quỹ
đạo sang tháp “ảo” và sự bền vững của một mạng lưới trong BHĐC. Tuy nhiên, ở các
doanh nghiệp nhìn chung là còn kém từ quản lí của các công ti đa cấp tới những người
dẫn đầu kiêm lãnh đạo mạng lưới của mình.
Bản thân xuất phát điểm của nước ta là thấp. Thấp về mặt kinh nghiệm, vốn và công nghê
sản xuất, đây là nguyên nhân gây ra sự yếu kém trong cạnh tranh của các doanh nghiệp

và sản phẩm Việt Nam, vì bản thân hình thức BHĐC yêu cầu doanh nghiệp và sản phẩm
không như các hình thức kinh doanh khác, nó đòi hỏi có kình nghiệm cao để quản lí tốt,
trình độ và công nghệ sản xuất chế tạo ra các sản phẩm khác biệt, chất lượng yêu cầu cao
hơn, cải biến nhiều hơn để tiến hành kinh doanh.
Sản phẩm thường được nhập khẩu từ các công ti nước ngoài, các sản phẩm của doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu, chưa có nhiều và thiếu sức cạnh tranh. Các sản phẩm phân
phối bởi BHĐC tuy độc đáo nhưng giá thành thường cao hơn các sản phẩm cùng loại,
điều này gây ra sự khó khăn trong tiếp cận của một số người thật sự có nhu cầu.
Mặt khác, hàng hóa trong BHĐC vẫn còn tồn tại các sản phẩm kém chất lượng, không đủ
tiêu chuẩn, không tuân theo quy định của nhà nước. Thêm vào đó là việc thông tin mập
mờ không đầy đủ về lợi ích,tính năng của sản phẩm là chuyện khá phổ biến.
 Nhà nước
Hệ thống pháp luật của nước ta còn thiếu và yếu nên đã gây khó khăn trong thực thi luật
như: hướng dẫn đăng kí kinh doanh, mặt hàng, hình thức và mô hình kinh doanh với các
công ti đa cấp. Sự thiếu đồng bộ còn dẫn tới khó khăn trong quản lý thực tiễn với hoạt
động các doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đó. Ngoài ra, nó còn là kẽ hở để
kẻ gian có thể tiến hành các hành vi trái pháp luật, thực hiện lừa đảo. Cụ thể, các quy
đinh của Luật Cạnh tranh, Nghị định 110 chỉ áp dụng đối với các hoạt động bán hàng hóa
theo phương thứ đa cấp mà không điều chỉnh đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ
theo phương thức đa cấp. Vì vậy, các doanh nghiệp khi tổ chức kinh doanh cung ứng dịch
vụ đa cấp như bán gói du lịch, bán gian hàng điện tử, sim thẻ điện thoại hay huy động tài
chính theo phương thức đa cấp, đã không phải thực hiện việc xin cấp Giấy phép đăng kí
tổ chức BHĐC từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật không điều chỉnh hoạt
động cung ứng dịch vụ đa cấp. Cùng với đó là một loạt các quy định liên quan đến hoạt
đông cúng ứng BHĐC đều chưa có chế tài cụ thể như quy điịnh về hành vi bị cấm trong
hoạt động cung ứng dịch vụ đa cấp hay việc xử lí đói với các hành vi vi phạm của doanh
nghiệp thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ đa cấp…
15
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Sự lúng túng trong yếu kém chung trong hệ thống quản lí nhà nước. Một phần là hệ

thống pháp luật chưa đầy đủ nhưng phần nhiều hơn là do sự yếu kém trong quản lí. Thậm
chí chính bản thân các nhà quản lí cũng chưa chắc nắm rõ về hình thức kinh doanh này.
Sự lúng túng này thấy rõ ngay trong công tác giám định mô hình kinh doanh nào của
BHĐC là đúng và nên áp dụng, trong khi sở công thương TP.HCM tiến hành cấm mô
hình đa cấp nhị phân vì cho rằng nó là không hợp lệ nhưng các sở công thương khác hoặc
không đồng ý hoặc không ý kiến. Hay các vụ công ti BHĐC trá hình vẫn còn tồn tại, việc
quản lí BHĐC còn lỏng lẻo, chờ sự việc xảy ra rồi mới giải quyết.
Hệ thống thông tin chính thức về BHĐC của chính phủ còn ít, chưa đầy đủ và khó tiếp
cận, trong khi các phương tiện thông tin khác có vô vàn các thông tin khác nhau về
BHĐC khiến người dân không có định hướng cụ thể. Hệ thống tin này có thể tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp BHĐC bất chính có thể thổi phồng về họ, sản phẩm của họ
hay hình thức kinh doanh này mà không có bất kỳ hệ quy chiếu nào đối chứng. Hiện chỉ
có các sở công thương, cục quản lí cạnh tranh chịu trách nhiệm chính về vấn đề này.
 Người dân
Trình độ dân trí nước ta còn thấp, nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân về hình
thức mới mẻ này còn chưa đầy đủ khiến cho họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng và khiến cho hình
thức kinh doanh này bị biến tướng mà khó bị phát hiện. Minh chứng rõ nét cho điều này
là trong giai đoạn 2000 – 2004 hàng loạt công ti bất chính bị rút giấy phép nhưng trước
đó nó đã lôi kéo, lừa đảo được hàng chục nghìn người tham gia. Và vẫn tiếp tục cho tới
ngày nay.
Làn sóng dư luận và các thông tin nhiều chiều về BHĐC ở nước ta đã ảnh hưởng trực
tiếp tới tâm lí khách hàng khi sử dụng sản phẩm của BHĐC và do dự trong tham gia
BHĐC của người mới.
Nhận thức của bản thân người tham gia BHĐC. Người tham gia cần hiểu rõ bản chất
chủa hình thức kinh doanh và có nhận thức rõ ràng về năng lực và hiểu rằng muốn thành
công trong kinh doanh theo mạng không dễ như người khác vẫn nói. Tránh khi tham gia
và gặp khó khăn liền bỏ cuộc rồi đưa ra những đánh giá chủ quan. Tuy vậy, ở Việt Nam
bản thân người tham gia BHĐC còn thiếu nhận thức về hình thức này nhưng với tâm lí
chạy theo mời người để kiếm hoa hồng, họ lôi kéo người khác tham gia. Tuy nhiên do
thiếu hiểu biết, ảo tưởng nên sau khi tham gia họ thất bại, chán nản, bỏ cuộc, và đưa ra

các bình luận chủ quan khiến các luồng thông tin về BHĐC ngày càng nhiều chiều, khó
nhận biết đúng – sai. Mặt khác, bản thân những người này nếu thiếu nhận thức nhưng
vẫn cố tình chạy theo lợi nhuận, lôi kéo người khác tham gia khiến BHĐC trở thành hình
tháp ảo.
 Người tham gia bán hàng đa cấp
Một hoạt động gây ra sự khác biệt giữa kinh doanh đa cấp ở nước ta và các nước khác là
hoạt động đầu cơ trục lợi, người tham gia đầu cơ tích trữ hàng hóa nhằm lên vị trí cao
16
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
hơn, nhận được nhiều lợi ích hơn. Hoạt động đầu cơ này đã làm biến dạng BHĐC, dễ
dàng cho kẻ xấu kiếm lợi lớn từ hoạt động đầu cơ này, kích thích người tham gia đầu cơ
tích trữ sau đó doanh nghiệp bỏ chạy.
Người tham gia BHĐC cố tình làm, kể sai sự thật về hình thức BHĐC miễn sao có thể lôi
kéo người khác tham gia.
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BHĐC
1.Khái niệm quản lý Nhà nước về BHĐC
Quản lý nhà nước về BHĐC có thể hiểu là quá trình nhà nước sử dụng các công cụ quản
lý của mình để tác động lên hoạt động KDĐC nhằm đạt được các mục tiêu phát triển
BHĐC đã đặt ra.
Chủ thể quản lý trực tiếp là Bộ công thương, và giúp đỡ cho Bộ là cục quản lý cạnh
tranh thuộc Bộ công thương, ủy ban nhân dân, sở các tỉnh thành phố…
Đối tượng quản lý: QLNN về KDĐC không chỉ là sự quản lý về những hoạt động mua
bán , hoạt động trên nền sản xuất Cung – Cầu, mà đó còn là sự quản lý những chủ thể
tham gia vào nền TMĐT, vào những hoạt động mua bán ấy: là người mua, người bán,
người cung cấp những cá nhân tham gia kể cả đối tượng trung gian.
2.Mục tiêu quản lý Nhà nước về BHĐC
Phát triển KDĐC theo hướng tiên tiến, hiện đại theo kịp các xu hướng phát triển trên thế
giới, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.Chức năng quản lý Nhà nước về BHĐC
Giống như các hoạt động khác, quản lý NN về KDĐC

Theo quy trình có 3 chức năng cơ bản
• Chức năng hoạch định: xây dựng hệ thống pháp luật, ban hành các chính sách, các
kế hoạch sao cho phù hợp với nền kinh tế trong nước,định hướng sự phát triển lâu
dài cho BHĐC.
• Chức năng tổ chức thực hiện: xây dựng bộ máy quản lý và hệ thống doanh nghiệp
bán hàng đa cấp; vận hành bộ máy…
• Chức năng kiểm soát: theo dõi và đánh giá quá trình thực hiện cùng việc chấp
hành các chủ trương, chính sách và pháp luật về KDĐC của các đối tượng tham
gia KDĐC trong nền kinh tế.
Theo lĩnh vực có 4 chức năng cơ bản
• Chức năng định hướng: Xác lập các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn sao cho phù
hợp với nền kinh tế trong nước,định hướng sự phát triển lâu dài cho KDĐC.
17
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
• Chức năng tạo lập môi trường: các yếu tố môi trường nhà nước cần tạo lập là: môi
trường kinh tế - xã hội; môi trường công nghệ; môi trường pháp luật để phục vụ
cho sự phát triển KDĐC 1 cách tốt nhất.
• Chức năng điều tiết: điều chỉnh mối quan hệ giữa các đối tượng tham gia KDĐC
cùng việc điều tiết việc phân bổ nguồn lực tài chính thực hiện các chương trình,
dự án phát triển KDĐC tránh sự thất thoát,tham ô lãng phí…
• Chức năng kiểm soát: theo dõi và đánh giá quá trình thực hiện cùng việc chấp
hành các chủ trương, chính sách và pháp luật về KDĐC của các đối tượng tham
gia KDĐC trong nền kinh tế.
4.Nội dung quản lý Nhà nước về BHĐC
Theo hướng tiếp cận từ quy trình quản lý, QLNN về BHĐC bao gồm các nội dung:Hoạch
định, tổ chức thực hiện, kiểm soát BHĐC.
Cụ thể:
4.1.Hoạch định
Hệ thống luật pháp
Để tiến hành tổ chức và quản lý nền kinh tế nói chung và hoạt động BHĐC nói riêng,

Nhà nước phải xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật kinh tế và văn bản quy phạm
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực QLNN về kinh tế
và KDĐC.
Pháp luật về BHĐC là hệ thống các quy tắc có tính chất bắt buộc chung, thể hiện ý chí
của các cơ quan QLNN về kinh tế nói chung, về BHĐC nói riêng, do Nhà nước đặt ra,
thực thi và bảo vệ nhằm phát triển BHĐC theo những mục tiêu đã định.
Hệ thống pháp luật về BHĐC có vai trò vô cùng quan trọng đối với QLNN về BHĐC, vai
trò này được thể hiện ở các điểm sau:
 Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong KDĐC,
đảm bảo sự phát triển bền vững của BHĐC, tạo cơ sở để thực hiện các mục tiêu
QLNN về BHĐC. Hệ thống pháp luậttạo cơ chế pháp lý hiện hữu để thực hiện sự
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế tham gia BHĐC nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân.
 Hệ thống pháp luật về BHĐC tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát
triển BHĐC với sự phát triển chung của nền kinh tế.
 Tổng quan các quy định Pháp luật điều chỉnh hoạt động BHĐC tại Việt Nam(Văn
bản kèm theo).
Hiện nay, có thể nói Việt Nam đã có một hành lang pháp lý thừa nhận BHĐC là một
kênh tiếp thị trực tuyến để đưa hàng hóa đến Người tiêu dùng. Tuy chưa chặt chẽ
nhưng sẽ là những quy định đưa BHĐC vào nề nếp.
18
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
 Quy định về BHĐC của Luật Cạnh Tranh.
 Quy định về BHĐC của Nghị định 110/2005/NĐ- CP.
 Thông tư 19/2005/TT- BTM ngày 8/11/2005 hướng dẫn một số quy định tại Nghị
định 110/2005/NĐ- CP.
 Chế tài xử lý vi phạm đối với vi phạm về BHĐC bất chính quy định tại Nghị định
120 và Nghị định 06.
 Quy định về BHĐCcủa nghị định số 42/2014/NĐ- CP.
 Thông tư 24/2014/TT- BCT quy định chi tiết thi hành một số điều của nghị định số

42/2014/NĐ- CP.
 Ngoài ra, một số luật liên quan đến BHĐC như:Luật bảo vệ người tiêu dùng; Luật
an toàn thực phẩm; Luật thuế….
BHĐC là một phương thức mua bán hàng hóa trong thương mại, là sản phẩm của nền
kinh tế thị trường. Ở nhiều nước trên thế giới, nó đã phát triển hàng chục năm, thậm chí
có những nước hàng trăm năm. Còn ở nước ta, khi BHĐC được đưa vào, chúng ta chưa
có khung pháp lý, chính vì thế, trong quá trình thực hiện bộc lộ nhiều nhược điểm.
Cụ thể, chúng ta có Luật Cạnh Tranh, trong đó tại Khoản 11 Điều 3 quy định Thế nào là
hành vi BHĐC. Chúng ta có quy định của Chính phủ làNĐ 110 về Quản lý KDĐC; các
thông tư, ví dụ thông tư 19, thông tư 35 của Bộ Thương Mại trước đây và Bộ Công
Thương ngày nay quy định về thủ tục cấp phép và quản lý đối với hoạt động BHĐC.
Trong đó, doanh nghiệp tham gia BHĐC phải công bố quy tắc hoạt động, về chương
trình bán hàng, loại hàng gì, tại những thời điểm nào. DN BHĐC cần phải nộp Giấy đăng
ký tổ chức BHĐC tại Sở Thương Mại tỉnh, thành phố và ký quỹ 5% vốn điều lệ nhưng
không thấp hơn 1 tỷ đồng (trong nghị định 110/2005/ NĐ- CP) 5 tỷ đồng (trong NĐ
42/2014/NĐ- CP) tại Ngân hàng Thương mại hoạt động tại Việt Nam; có trách nhiệm báo
cáo định kỳ 6 tháng/ lần vs Sở Thương mại nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các
hoạt động của mình.
Ngoài ra, để hạn chế người nước ngoài và Việt Kiều đứng ra tổ chức hoạt động BHĐC
bất hợp pháp, NĐ quy định các đối tượng này cần có giấy phép lao động do Bộ Lao
Động Thương Binh Xã Hội cấp.
Đặc biệt, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 42 về quản lý hoạt động BHĐC với
nhiều quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giám sát của cơ quan quản lý Nhà
nước đối với hoạt động của BHĐC đồng thời bảo vệ người tham gia BHĐC trước các
hành vi lừa đảo, chuộc lợi.
Theo đó,
Doanh nghiệp BHĐC
 Không được yêu cầu người muốn tham gia BHĐC phải đặt cọc hoặc đóng một
khoản tiền nhất định dưới bất kỳ hình thức nào;
19

Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
 Không được yêu cầu người muốn tham gia BHĐC phải mua một số lượng hàng
hóa dưới bất kỳ hình thức nào;
 Không được kinh doanh theo mô hình kim tự tháp…
Về phía người tham gia BHĐC
 Không được cung cấp thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa,
hoạt động của doanh nghiệp BHĐC để dụ dỗ người khác tham gia BHĐC
Ngoài ra doanh nghiệp BHĐC
 Phải có vốn pháp định là 10 tỷ đồng.
 DN phải ký quỹ một khoản tiền tương đương 5% vốn điều lệ nhưng không thấp
hơn 5 tỷ đồng tại một ngân hàng thương mại tại nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Chính sách
Nhà nước đã ban hành những chính sách về KDĐC:
 Chính sách bảo vệ người tiêu dùng:
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) là một trong những nhiệm vụ của quản lý nhà
nước và là trách nhiệm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn cho thấy, khi nền
kinh tế thị trường càng phát triển, mức độ tự do hóa thương mại càng gia tăng thì càng
nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến quyền lợi NTD.
Chính phủ đã ban hành luật bảo về người tiêu dùng 59/2010/QH12 để bảo vệ những
quyền lợi co bản của người tiêu dùng, tập trung điều chỉnh các vấn đề về trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm quản
lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; quyền và nghĩa vụ của người
tiêu dùng
Tong BHĐC, lợi ich người tiêu dùng chi phối bởi thông tin và chất lượng sản phẩm, quấy
rối người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hoá, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu
dùng ; bị ép mua sản phẩm…
Do đó, các quy định pháp luạt bảo vệ người tiêu dùng trong BHĐC dựa trên các nguyên
tắc:

DN BHĐC phải tuân thủ quy định pháp luật chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
như ccung cấp thông tin chính xác về sản phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm, không có
các hành vi ép mua sản phẩm, tiếp thị sai….
Các quy định về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; vấn
đề kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung; trách nhiệm của bên thứ ba đối
với người tiêu dùng; trách nhiệm bảo hành và thu hồi hàng hoá có khuyết tật; quyền khởi
kiện của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; các phương thức giải
20
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ,…
 Chính sách thuế trong BHĐC:
Doanh nghiệp tổ chức BHĐC, cũng giống như các doanh nghiệp khác, phải tuân thủ các
quy định của pháp luật liên quan đến chế độ thuế của doanh nghiệp như thuế giá trị gia
tăng, thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế liên
quan khác.
Tuy nhiên, hoạt động BHĐC trong thực tế thời gian vừa qua đã cho thấy có một số bất
cập trong hệ thống pháp luật về thuế của Việt Nam, chưa phù hợp với hoạt động của
doanh nghiệp BHĐC, cụ thể, về việc hoạch toán chi phí hoa hồng là chi phí hợp lý hợp lệ
được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 9 Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008
(thay thế Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007) của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản chi không được trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp bao gồm cả “Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới (không
bao gồm hoa hồng môi giới bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm, hoa hồng đại lý bán hàng đúng giá); chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ
tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo
chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vượt quá 10% tổng số chi
được trừ. Đối với doanh nghiệp mới thành lập từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 là phần chi

vượt quá 15% trong ba năm đầu, kể từ khi được thành lập. Đối với hoạt động thương mại
không bao gồm giá mua hàng hoá bán ra”.
Tại Thông tư của Bộ tài chính số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và
hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp, chi
tiết hoá nội dung này: các khoản chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới
bị khống chế nêu trên không bao gồm hoa hồng môi giới bảo hiểm theo quy định của
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; hoa hồng trả cho các đại lý bán hàng đúng giá; các
khoản chi sau phát sinh trong nước hoặc ngoài nước (nếu có): Chi phí nghiên cứu thị
trường: thăm dò, khảo sát, phỏng vấn, thu thập, phân tích và đánh giá thông tin; chi phí
phát triển và hỗ trợ nghiên cứu thị trường; chi phí thuê tư vấn thực hiện công việc nghiên
cứu, phát triển và hỗ trợ nghiên cứu thị trường; Chi phí trưng bày, giới thiệu sản phẩm và
tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại: chi phí mở phòng hoặc gian hàng trưng bày, giới
thiệu sản phẩm; chi phí thuê không gian để trưng bày, giới thiệu sản phẩm; chi phí vật
liệu, công cụ hỗ trợ trưng bày, giới thiệu sản phẩm; chi phí vận chuyển sản phẩm trưng
bày, giới thiệu. Mức giới hạn 15% trong 3 năm đầu chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp
mới thành lập được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kể từ ngày 01/01/2009,
không áp dụng đối với doanh nghiệp được thành lập mới do hợp nhất, chia, tách, sáp
nhập, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, chuyển đổi sở hữu.
21
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Ví dụ: Công ty A thành lập năm 2008, trong năm 2009 lập báo cáo quyết toán thuế
TNDN có số liệu về chi phí được ghi nhận như sau :
• Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh
tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo
biếu, báo tặng của cơ quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp : 250 triệu đồng
• Tổng các khoản chi phí được trừ vào chi phí (không bao gồm: phần chi quảng cáo,
tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ

trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng của cơ
quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh): 2 tỷ đồng
Vậy phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết,
hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo
tặng của cơ quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh được trừ
tính vào chi phí bị khống chế tối đa là :
2 tỷ đồng nhân (x) 10% bằng (=) 200 triệu đồng
Vậy tổng chi phí được trừ tính vào chi phí trong năm 2009 là :
2 tỷ đồng cộng (+) 200 triệu đồng bằng (=) 2,2 tỷ đồng.
Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC cho thấy, chi phí hoa hồng phải trả cho
người tham gia BHĐC là một loại chi phí đặc thù, loại chi phí này không giống như bất
các kỳ các loại chi phí đã được liệt kê trong các văn bản pháp luật điều chỉnh về thuế và
kế toán, đồng thời cũng chưa được điều chỉnh trong các chuẩn mực về kế toán hiện hành
của Việt Nam. Loại chi phí này có điểm tương tự như chi phí hoa hồng (chi phí môi giới)
bảo hiểm (cùng là chi phí hoa hồng đặc thù), nhưng chi phí hoa hồng bảohiểm đã được
quy đ ịnh trong Nghị định 124/2008/NĐ-CP và Thông tư 130/2008/TT-BTC, và không bị
khống chế theo mức 10% tổng chi phí, trong khi đó, chi phí hoa hồng đối với hoạt động
BHĐC chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Chi phí đặc thù này đã tạo ra sự đặc thù của ngành kinh doanh đặc thù – BHĐC, giống
như quan điểm của một số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, đây có thể coi là
một yếu tố cấu thành trong giá vốn hàng bán, chi phí hoa hồng này là tiền lời ở các khâu
trung gian, cứ qua mỗi khâu trung gian thì tiền lời này lại trở thành giá vốn hàng bán của
khâu trung gian kế tiếp (cấp tiếp theo). Lợi nhuận bán lẻ và hoa hồng nhà phân phối là
các khoản bù đắp cho họ trong việc giới thiệu, hướng dẫn sử dụng sản phẩm và giao hàng
đến tận nơi người tiêu dùng.
Về quan hệ giữa Công ty với người tham gia BHĐC: Công ty bán hàng trực tiếp cho
những nhà phân phối này và sau đó chính nhà phân phối nhân danh chính họ bán hàng
cho người tiêu dùng. Do vậy, trong mối quan hệ với Công ty các nhà phân phối không
đóng vai trò là người trung gian mà thay vào đó tất cả nhà phân phối đều là các bên mua
hàng trực tiếp của Công ty.

Những bất cập trong hoạch định BHĐC:
22
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
• Kẽ hở phát sinh từ quy định về hành vi bị cấm của doanh nghiệpBHĐC
Khoản 3 Điều 7. Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC
quy định cấm doanh nghiệp BHĐC thực hiện hành vi: “Yêu cầu người muốn tham gia
phải trả tiền hoặc trả bất kỳ khoản phí nào dưới hình thức khóa học, khóa đào tạo, hội
thảo, hoạt động xã hội hay các hoạt động tương tự khác để được quyền tham gia mạng
lưới BHĐC,trừ tiền mua tài liệu theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Nghị địnhnày”. Khoản
2 Điều 6 quy định vềcác tài liệu mà doanh nghiệpBHĐCcó trách nhiệmphải cung cấp cho
người có dự định tham gia mạng lưới BHĐC của doanh nghiệp, đó là các tài liệu có chứa
các nội dung:
[ Chương trình bán hàng bao gồm cách thức trả thưởng;
Hợp đồng mẫu mà doanh nghiệp sẽ ký với người tham gia và mọi thỏa thuận khác quy định về
quyền và nghĩa vụ của người tham gia;
Thông tin về tiêu chuẩn chất lượng hoặc chứng chỉ chất lượng (nếu có), giá cả, công dụng và
cách thức sử dụng hàng hóa được bán;
Quy định liên quan đến bảo hành, trả lại, mua hàng hóa được bán;
Chương trình đào tạo người tham gia, bao gồm nội dung đào tạo, thời gian đào tạo, trình tự, thủ
tục cấp chứng chỉ đào tạo, thời gian và nội dung bồi dưỡng định kỳ cho người tham gia;
Trách nhiệm của người tham gia;
Lợi ích kinh tế mà người tham gia có thể có được bằng việc tiếp thị hay trực tiếp bán hàng hóa
và các điều kiện để có được lợi ích kinh tế đó;
Điều kiện chấm dứt hợp đồng của người tham gia và quyền, nghĩa vụ phát sinh từ việc chấm dứt
hợp đồng này ]
Quy định về việc chấp nhận khoản tiền mua tài liệu này phát sinh kẽ hở trên thực tế giúp
các doanh nghiệp BHĐC lách hành vi bị cấm. Thay vì yêu cầu người muốn tham gia phải
đặt cọc, mua một lượng hàng hóa ban đầu, trả tiền hoặc trả bất kỳ khoản phí nào
đểđược tham gia vào mạng lưới BHĐC, doanh nghiệp yêu cầu người muốn tham gia phải
mua tập tài liệu ban đầu với chi phí phát sinh lên tới 2-3 triệu đồng/1 bộ tài liệu; khoản

phí mua tài liệu này là hợp pháp, theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 Nghị định 110.
Đây là một vấn đề bất cập nhất thiết phải sửa đổi trong tương lai để tránh tình trạng lợi
dụng kẽ hở pháp luật nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật bằng cách hợp thức hóa các
hành vi này.
• Bất cập phát sinh do chưa có quy định về hiệu lực của Giấy đăng ký tổ chức
BHĐC
Trong các văn bản pháp luật hiện tại điều chỉnh hoạt động BHĐC chưa có quy định về
thời hạn có hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký tổ chức BHĐC. Chính vì vậy, đã xuất
hiện một số vấn đề trong thực tiễn quản lý hoạt động BHĐC như sau:
23
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Thứ nhất, có nhiều doanh nghiệp xin cấp giấy chứng nhận đăng ký tổ chức BHĐC, sau
đó không hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng để chờ bán lại giấy phép cho các
doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.
Thứ hai, việc tồn tại các doanh nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả
gây không ít khó khăn cho công tác quản lý hoạt động BHĐC. Theo thống kê mới nhất
của Cục Quản lý cạnh tranh, hiện tại ở Việt Nam có 88 doanh nghiệp đã được cấp giấy
chứng nhận đăng ký tổ chức BHĐC. Tuy nhiên, trong công tác báo cáo định kỳ hàng
năm, có tới 70 % doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình (bao gồm
không báo cáo, báo cáo không đầy đủ hoặc báo cáo không đúng thời hạn), gây khó khăn
cho công tác thống kê và quản lý.
Ngoài ra, tình trạng này còn hạn chế cơ hội tham gia thị trường của các doanh nghiệp
mới thực sự có nguyện vọng tham gia vào thị trường bởi khi số lượng doanh nghiệp đăng
ký đạt một mức nhất định, cơ quan quản lý sẽ phải xem xét đánh giá về việc có nên cấp
phép thêm cho các doanh nghiệp mới hay không nhằm đảm bảo tính hiệu quả.
• Bất cập phát sinh do chưa có quy định điều chỉnh hoạt động chuyển giao
mạng lưới giữa các doanh nghiệp BHĐC trên thực tế
Hoạt động tiếp thị của mạng lưới người tham gia đóng vai trò quyết định đối với thành
công của doanh nghiệp BHĐC. Vì vậy, xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp BHĐC thông qua lôi kéo mạng lưới người tham gia của doanh nghiệp

khác, đặc biệt là lôi kéo các nhà phân phối cấp cao để họ kéo toàn bộ hệ thống sang
doanh nghiệp của mình. Hoạt động này gây mất ổn định trong hoạt động kinh doanh của
ngành, không đảm bảo quyền lợi của những người tham gia cấp dưới, đồng thời cũng
không phù hợp với nguyên tắc tổ chức mạng lưới BHĐC theo quy định của pháp luật
(khi tham gia mạng lưới mới, những người tham gia coi như bình đẳng, không còn giữ
cấp bậc). Do đó, cần có cơ chế quy định về hoạt động chuyển giao mạng lưới giữa các
doanh nghiệp BHĐC với sự đồng thuận của cả 3 phía: doanh nghiệp chuyển giao mạng
lưới, doanh nghiệp nhận mạng lưới và những người tham gia.
• Bất cập phát sinh do chưa có quy định quản lý cụ thể đối với mạng lưới
BHĐC nước ngoài tại Việt Nam
Bên cạnh các doanh nghiệp đăng ký và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, các cơ quan
quản lý cũng ghi nhận hiện tượng một sốdoanh nghiệp BHĐC nước ngoài tổ chức mạng
lưới và bán hàng tại Việt Nam. Những doanh nghiệp này tuyển dụng người tham gia và
cho đặt hàng thông qua website, sau đó chuyển hàng về Việt Nam qua đường bưu phẩm,
quà tặng.
Theo Biểu cam kết WTO về dịch vụ, “Việt Nam cho phép cung cấp qua biên giới theo
hình thức bán lẻ đối với sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân và phần mềm máy tính, bao
gồm cả hoạt động của các cá nhân nhà phân phối theo phương thức BHĐC” (Ghi chú số
23 của Biểu cam kết dịch vụ).
24
Nhóm 2 – Quản lý BHĐC của Nhà nước
Tuy nhiên, pháp luật về quản lý BHĐC hiện nay chưa quy định các điều kiện hoạt động,
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các nhà phân phối Việt Nam thuộc mạng lưới BHĐC nước
ngoài, dẫn đến hoạt động của các đối tượng này không được giám sát, quản lý đầy đủ, dễ
phát sinh tiêu cực như trốn thuế, gian lận, lựa dối người tiêu dùng.
• Xử lý hành vi lừa đảo hình tháp (pyramid scheme)
Hiện nay, pháp luật và nhận thức xã hội chưa có sự phân biệt rõ mô hình BHĐC hợp
pháp và hành vi lừa đảo hình tháp, nên nhiều trường hợp tiêu cực liên quan đến lừa đảo
hình tháp bị quy về BHĐC.
Như đã đề cập tại phần trên, BHĐC là phương thức kinh doanh thông qua mạng lưới

những người tham gia được tổ chức thành nhiều cấp, nhiều nhánh. Những người tham gia
này được hưởng hoa hồng, lợi ích kinh tế từ kết quả kinh doanh của mình và những
người tham gia cấp dưới.
Bên cạnh mô hình BHĐC nêu trên, trên thực tế có tồn tại một mô hình huy động tài chính
hình tháp (pyramid scheme) cũng tổ chức người tham gia theo mạng lưới gồm nhiều cấp
giống như BHĐC. Tuy nhiên, bản chất của mô hình này là thu tiền của những người cấp
dưới để trả cho những người cấp cao hơn. Trong mô hình này, người mới tham gia sẽ
được yêu cầu đóng một khoản tiền gia nhập mạng lưới để trả cho các cấp trên, bù lại họ
sẽ được quyền tuyển dụng người mới ở cấp dưới và thu tiền từ những người này. Đây là
một hình thức lừa đảo, không tạo ra bất kỳ giá trị thặng dư cho nền kinh tế và tất yếu sẽ
đổ vỡ khi không còn tìm được những người mới đóng tiền vào hình tháp. Khi đó, số đông
những người ở cấp thấp sẽ gánh chịu thiệt hại do khoản tiền đã đóng cho cấp trên. Yếu tố
lừa đảo còn thể hiện ở việc những người điều hành mô hình thông tin gian dối về khoản
tiền gia nhập mạng lưới dưới danh nghĩa mua hàng, đầu tư… cũng như gian dối về khả
năng lợi nhuận mà mô hình đem lại.
Do sự tương tự về tổ chức mạng lưới nhiều cấp, trong một số trường hợp mô hình BHĐC
được sử dụng làm vỏ bọc cho hành vi tổ chức hình tháp. Khi đó, hoạt động bán sản phẩm
hàng hóa hay dịch vụ chỉ là hình thức che đậy việc thu tiền của những người mới tham
gia vào mạng. Hoạt động vi phạm có những biểu hiện như: sản phẩm được chào bán cho
người tham gia với giá rất cao nhưng ít hoặc không có giá trị sử dụng, không thể lưu
thông một cách bình thường trong thực tế; người tham gia không được trang bị kỹ năng
bán hàng mà được dạy cách lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới và được hứa
hẹn thu lợi khi tuyển dụng được người mới.
Vì vậy, nhu cầu đặt ra đối với công tác quản lý hoạt động BHĐC trong tương lai rất quan
trọng, một mặt phải sửa đổi các quy định của pháp luật nhằm thắt chặt quản lý hơn nữa,
tránh tình trạng biến tướng của một số công ty BHĐC; một mặt phải nâng cao nhận thức
của người dân về hành vi lừa đảo hình tháp. Hiện hệ thống pháp luật Việt Nam cũng chưa
có những quy định rõ ràng về việc xử lý đối với hành vi lừa đảo hình tháp này.
4.2.Tổ chức thực hiện:
25

×