Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.47 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân có vai trò rất
quan trọng đối với việc xây dựng nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đảng và Nhà nước ta đã nhấn
mạnh sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người và của xã hội, do đó chính sách y tế
chăm sóc sức khỏe nhân dân có vị trí hàng đầu trong hệ thống các chính sách kinh
tế - xã hội của đất nước.
Vậy, y tế và chính sách y tế có vai trò không thể thiếu được đối với cuộc
sống của mỗi người. Vì thế, đầu tư cho y tế thực chất là đầu tư cho con người.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay,
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe của nhân
dân ngày càng được tăng lên, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên đó đòi hỏi
phải phát triển nhanh các dịch vụ y tế và nhu cầu xã hội hóa y tế trở thành yêu cầu
cấp bách của nhà nước và toàn dân. Xuất phát từ quan điểm trên, Đảng và nhà
nước đã có những đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở y tế
trong chương trình nghị sự cải cách hành chính công, tăng quyền chủ động cho
đơn vị sử dụng ngân sách, tự chủ tài chính, chủ động bố trí kinh phí để thực hiện
nhiệm vụ, được vay tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự
nghiệp và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật. Ngày 25
tháng 04 năm 2006 Chính phủ đã ban hành NĐ43/2006/NĐ-CP “Quy định quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”.
Song, để quản lý và hoạt động có hiệu quả đòi hỏi đơn vị sự nghiệp y tế cần
có năng lực quản lý tốt để vừa đảm bảo các mục tiêu tài chính và đảm bảo chất
lượng trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Quản lý tài chính bệnh viện trở
thành điều quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại trong việc quản
lý bệnh viện và nó quyết định sự phát triển của Bệnh viện.
Nhận thức được vấn đề trên, qua quá trình học tập chương trình Trung cấp
lý luận chính trị - hành chính tại Trường Chính trị Tôn Đức Thắng, là một Cán bộ


tài chính của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang tôi chọn đề tài “Thực trạng
và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa
khoa Trung tâm An giang hiện nay ” làm Tiểu luận cuối khóa. Tôi hy vọng với
những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập, nghiên cứu vào thực tiễn lĩnh
vực đang công tác, những phương hướng, giải pháp đề ra có thể góp phần nâng cao
hiệu quả công tác quản lý tài chính đảm bảo kinh phí hoạt động cho bệnh viện.


2

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH BỆNH VIỆN

1.1. Những đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính bệnh viện ở nước ta
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế , cơ chế
quản lý của cơ quan, đơn vị sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu đã bộc lộ những
hạn chế lớn cần khắc phục. Chính vì vậy Chính phủ đã có quyết định phê duyệt
chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn 2001-2010 với
bốn nội dung lớn đó là: Cải cách bộ máy, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức và cải cách tài chính công, trong đó cải cách cơ chế quản lý tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu là một bước đột phá.
Thực hiện cải cách tài chính công trong chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 và cùng với việc huy động các nguồn lực tài
chính cho y tế, Chính phủ đã tiến hành triển khai chế độ tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu trong đó có hệ thống bệnh viện công. Một hệ thống các
văn bản quy định chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu được
ban hành đánh dấu một bước đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính đó là Nghị
định 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 1 năm 2002 của Chính phủ, theo Nghị định
này thì các đơn vị y tế công lập được quản lý thống nhất nguồn thu, chủ động

trong thu hút vốn bằng khuyến khích tăng thu, tiết kiệm chi, đảm bảo trang trải
kinh phí hoạt động, thực hiện tinh giản biên chế và tăng thu nhập cho người lao
động trên cơ sở hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với phần ngân sách nhà nước. Trong quá trình thực hiện, Nghị định
10/2002/NĐ-CP đã xuất hiện một số bất cập do các đơn vị chưa được giao quyền
tự chủ về biên chế, lao động và tổ chức bộ máy. Do đó ngày 25 tháng 4 năm 2006,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP “quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập” để mở rộng phạm vi giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với
tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập và Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghị định 43/2006/NĐ-CP. Cơ chế quản
lý tài chính mới cho phép đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ về tài chính, lao động và
tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của đơn vị.
* Một số thay đổi trong cơ chế tài chính mới, cụ thể là:
- Các đơn vị sự nghiệp có thu ngoài nguồn kinh phí Nhà nước cấp còn được
phép vay tín dụng ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng và nâng cao
chất lượng hoạt động, cung ứng dich vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy
định của pháp luật.
3

- Các đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động sử dụng số tiền gửi tại ngân
hàng hoặc kho bạc để phản ánh các khoản thu chi của hoạt động sản xuất, cung
ứng dịch vụ. Các khoản kinh phí Ngân sách Nhà nước vẫn được phản ánh qua tài
khoản tại kho bạc.
- Các đơn vị sự nghiệp có thu quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước theo quy
định đối với đơn vị hành chính sự nghiệp. Với tài sản cố định dùng cho hoạt động
sản xuất, cung ứng dịch vụ được phép trích khấu hao thu hồi vốn theo chế độ áp
dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, số tiền trích khấu hao tài sản cố
định và số tiền thu do thanh lý tài sản thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước thay cho

việc phải nộp Nhà nước như hiện nay đơn vị được phép sử dụng tại đơn vị để đầu
tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị cho đơn vị.
- Các đơn vị còn được chủ động trong việc sử dụng số biên chế được cấp có
thẩm quyền giao; sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng nhiệm vụ
của đơn vị. Đơn vị được phép thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo quy định
của Bộ Luật lao động phù hợp với khối lượng công việc và khả năng tài chính của
mình. Đồng thời, đơn vị hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ có trách nhiệm thực
hiện các nghĩa vụ đối với Ngân sách theo luật định.
1.2. Mục tiêu, nội dung công tác quản lý tài chính bệnh viện
1.2.1. Mục tiêu
Quản lý tài chính bệnh viện là chìa khóa quyết định sự thành công hay thất
bại, sự tụt hậu hay phát triển của bệnh viện. Vì vậy, hiệu quả thực hiện công tác
quản lý tài chính bệnh viện là tiêu chuẩn cho sự thành công của hoạt động quản lý
bệnh viện. Mục tiêu của công tác quản lý tài chính trong Bệnh Viện là:
+ Sử dụng, quản lý các nguồn kinh phí Ngân sách Nhà nước cấp và các
nguồn được coi là Ngân sách Nhà nước cấp như viện phí, bảo hiểm y tế, viện trợ…
theo đúng quy định của Nhà nước.
+ Tăng nguồn thu hợp pháp, cân đối thu chi, sử dụng các khoản chi có hiệu
quả, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm.
+ Thực hiện chính sách ưu đãi và đảm bảo công bằng về khám, chữa bệnh
cho các đối tượng ưu đãi xã hội và người nghèo.
+ Từng bước tiến tới hạch toán chi phí và giá thành khám chữa bệnh.
1.2.2.Nội dung
a) Lập dự toán thu chi:
Lập dự toán thu chi các nguồn kinh phí của bệnh viện là thông qua các
nghiệp vụ tài chính để cụ thể hoá định hướng phát triển, kế hoạch hoạt động ngắn
hạn của bệnh viện, trên cơ sở tăng nguồn thu hợp pháp và vững chắc, đảm bảo
được hoạt động thường xuyên của bệnh viện, đồng thời từng bước củng cố và nâng
cấp cơ sở vật chất của bệnh viện, tập trung đầu tư đúng mục tiêu ưu tiên nhằm đạt
4


hiệu quả cao, hạn chế tối đa lãng phí và tiêu cực, từng bước tính công bằng trong
sử dụng các nguồn đầu tư cho bệnh viện.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm vụ
của năm kế hoạch, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành; căn cứ kết quả hoạt động sự
nghiệp, tình hình thu, chi tài chính của năm trước liền kề; đơn vị lập dự toán thu,
chi năm kế hoạch; số kinh phí đề nghị ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động
thường xuyên; lập dự toán kinh phí chi không thường xuyên theo quy định hiện
hành. Dự toán kinh phí hoạt động của đơn vị sự nghiệp, gửi cơ quan quản lý cấp
trên theo quy định hiện hành.
b) Thực hiện dự toán:
Thực hiện dự toán là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tài chính bệnh
viện. Đây là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp kinh tế tài chính và hành
chính nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong kế hoạch thành hiện thực. Thực
hiện dự toán đúng đắn là tiền đề quan trọng để thực hiện các chỉ tiêu phát triển
bệnh viện. Tổ chức thực hiện dự toán là nhiệm vụ của tất cả các phòng, ban, các bộ
phận trong đơn vị. Do đó đây là một nội dung đặc biệt quan trọng trong công tác
quản lý tài chính của bệnh viện. Việc thực hiện dự toán diễn ra trong một niên độ
ngân sách là một năm từ ngày 01/01 đến 31/12 hàng năm.
* Căn cứ thực hiện dự toán:
+ Dự toán thu chi của bệnh viện đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đây
là căn cứ mang tính chất quyết định nhất trong chấp hành dự toán của bệnh viện.
Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tăng cường quản lý Nhà nước
bằng pháp luật, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động quản lý tài chính ngày càng được hoàn thiện. Việc chấp hành dự toán thu chi
ngày càng được luật hoá, tạo điều kiện cho đơn vị chủ động thực hiện theo đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình.
+ Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động của bệnh
viện. Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
* Yêu cầu của công tác thực hiện dự toán:

+ Đảm bảo phân phối, cấp phát, sử dụng nguồn kinh phí một cách hợp lý,
tiết kiệm và hiệu quả.
+ Đảm bảo giải quyết linh hoạt về kinh phí. Do sự hạn hẹp của nguồn kinh
phí và những hạn chế về khả năng dự toán nên giữa thực tế diễn ra trong quá trình
chấp hành và dự toán có thể có những khoảng cách nhất định đòi hỏi phải có sự
linh hoạt trong quản lý. Nguyên tắc chung là chi theo dự toán nhưng nếu không có
dự toán mà cần chi thì có quyết định kịp thời, đồng thời có thứ tự ưu tiên việc gì
trước, việc gì sau.
+ Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán và nhận được thông
báo cấp vốn hạn mức, đơn vị chủ động sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
5

+ Tổ chức thực hiện thu nhận các nguồn tài chính theo kế hoạch và theo
quyền hạn.
+ Tổ chức thực hiện các khoản chi theo chế độ, tiêu chuẩn và định mức theo
do Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả, chất lượng công việc.
c) Quyết toán:
Công tác quyết toán là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí. Đây
là quá trình phản ánh đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách theo
đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu, thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên
cơ sở các số liệu báo cáo quyết toán có thể đánh giá hiệu quả phục vụ của chính
bệnh viện, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đồng thời rút ra ưu, khuyết điểm
của từng bộ phận trong quá trình quản lý để làm cơ sở cho việc quản lý ở chu kỳ
tiếp theo đặc biệt là làm cơ sở cho việc lập kế hoạch của năm sau.
* Các nguồn tài chính bệnh viện:
- Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, gồm:
+ Kinh phí đảm bảo hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm
vụ đối với đơn vị bảo đảm một phần chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối với
nguồn thu sự nghiệp).
+ Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà Nước, cấp

Bộ, ngành, chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được
cấp có thẩm quyền giao.
+ Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức.
+ Kinh phí cấp để thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do Nhà Nước
quy định với số lao động trong biên chế thuộc diện tinh giảm.
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ họat
động sự nghiệp theo dự án và kế họach hàng năm, vốn đối ứng cho các dự án được
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị:
+ Phần được để lại từ số phí, lệ phí thuộc Ngân Sách Nhà Nước do đơn vị
thu theo quy định. Mức thu phí, lệ phí và tỷ lệ nguồn thu để lại đơn vị sử dụng theo
quy định của Nhà Nước.
Đối với Bệnh viện, nguồn này bao gồm:
 Viện phí sự nghiệp: là nguồn thu rất cơ bản và lâu dài. Hiện tại Bệnh
Viện đang thực hiện việc thu một phần viện phí theo Nghị Định 95/CP ngày
27/08/1994 của Chính Phủ và thông tư liên bộ số 14/TTLB của Bộ Y tế - Tài
Chính - LĐTBXH và Ban Vật Giá Chính Phủ. Một phần viện phí là phần chi phí
cho việc khám bệnh, chữa bệnh được tính theo dịch vụ đối với người bệnh ngoại
trú và theo ngày điều trị đối với người bệnh nội trú. Một phần viện phí mới chỉ tính
6

đối với tiền thuốc, dịch truyền, máu, hóa chất, xét nghiệm, phim XQ, vật tư, thiết
bị, dụng cụ y tế phục vụ người bệnh.
 Viện phí bảo hiểm y tế: là nguồn thu Bệnh Viện được cơ quan Bảo
hiểm y tế thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân Bảo hiểm y tế bắt
buộc và tự nguyện theo hợp đồng giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và Bệnh viện,
nguồn thu này được sử dụng như viện phí sự nghiệp.
Theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006, tổng số viện phí thu
được sẽ hoà chung vào kinh phí hoạt động của đơn vị.
+ Thu từ hoạt động dịch vụ như: dịch vụ giường bệnh, phẩu thuật dịch vụ,

hợp đồng kinh doanh dịch vụ căn tin, bãi giữ xe, các quầy bách hóa
- Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
Đối với bệnh viện nguồn này chủ yếu là do các cá nhân, tổ chức nước ngoài tài
tặng bằng hiện vật như máy móc thiết bị y tế.
- Nguồn khác: Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của
cán bộ, viên chức trong đơn vị; Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Hiện tại bệnh viện chưa có
các nguồn này.
* Nội dung chi của đơn vị:
- Chi thường xuyên gồm: chi cho con người lao động, chi quản lý hành
chính, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm và sửa chữa TSCĐ, chi cho hoạt
động sản xuất và cung ứng dịch vụ.
- Chi không thường xuyên gồm: Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, viên chức; Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia; Chi thực
hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định; Chi đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định; Các khoản chi khác theo
quy định.
* Những điểm mới trong quy định về khai thác và sử dụng các nguồn tài chính là:
- Về định mức chi quản lý hành chính: (công tác phí, hội nghị phí, điện
thoại…) và chi nghiệp vụ thường xuyên, định mức chi này do chính thủ trưởng
đơn vị quyết định căn cứ vào nội dung và hiệu quả công việc. Định mức này có thể
cao hơn nhưng cũng có thể thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định.
- Trong việc chi trả lương cho người lao động. Nhà nước khuyến khích đơn
vị tăng thu, tiết kiệm chi, thực hiện tinh giản biên chế tạo điều kiện tăng thu nhập
cho người lao động trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với NSNN. Căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính của đơn vị mà thủ
trưởng đơn vị xác định quỹ lương, tiền công của hoạt động đơn vị. Trong phạm vi
quỹ lương này, sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn và công khai trong đơn
vị, thủ trưởng đơn vị quyết định việc chi trả lương theo chất lượng và hiệu quả
công việc trên nguyên tắc người nào, bộ phận nào có thành tích, có đóng góp làm

7

tăng thu, tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao thì được hưởng cao hơn. Tiền
lương cho mỗi cá nhân ngoài tiền lương cấp bậc, chức vụ như hiện nay còn được
hưởng khoản thu nhập tăng thêm nhưng không quá 3 lần tiền lương cấp bậc, chức
vụ.
Về trích lập quỹ: hàng năm ngoài việc trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi như hiện nay đơn vị phải trích lập thêm quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp. Sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn, thủ
trưởng đơn vị quyết định việc trích lập các quỹ theo trình tự sau:
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập : để đảm bảo thu nhập cho người lao động
trong trường hợp nguồn thu bị giảm sút.
- Quỹ khen thưởng: dùng để khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể,
cá nhân theo kết quả công tác và có thành tích đóng góp.
- Quỹ phúc lợi: dùng cho các nội dung phúc lợi.
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: dùng để đầu tư, phát triển nâng cao
hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy
móc thiết bị,…


















8

Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG TỪ NĂM 2010
ĐẾN NĂM 2012

2.1. Đặc điểm tình hình, chức năng nhiệm vụ của Bệnh viện đa khoa
trung tâm An Giang
Bệnh Viện Đa Khoa Trung Tâm An Giang là Bệnh Viện trung tâm của Tỉnh,
trực thuộc sở Y tế An Giang quản lý, chức năng và nhiệm vụ của bệnh viện là tiếp
nhận, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc, điều trị và phục hồi chức năng
cho nhân dân đang nằm điều trị nội trú cũng như điều trị ngọai trú, Tổ chức khám
sức khỏe, chứng nhận sức khỏe, giám định sức khỏe cho nhân dân theo qui định
của Nhà Nước, Nghiên cứu khoa học về Y học, Chỉ đạo tuyến dưới về chuyên môn
kỷ thuật nhằm nâng cao tay nghề và chăm sóc sức khỏe ban đầu, Dự phòng bệnh ,
hợp tác quốc tế và quản lý kinh tế trong y tế theo định hướng hạch toán, có kế
hoạch sử dụng hiệu quả cao các nguồn kinh phí: Ngân sách Nhà Nước cấp, Bảo
hiểm y tế, viện phí, viện trợ Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà Nước
về thu, chi tài chính, từng bước thực hiện hạch toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh,
tạo thêm nguồn kinh phí từ các dịch vụ y tế.
Bệnh viện có 06 phòng chức năng, 06 khoa cận lâm sàng, 20 khoa lâm sàng.
Tổng số cán bộ công chức, viên chức năm 2011 là 1.262 biên chế / 1.400 biên chế
được giao; năm 2012 là 1.266 biên chế / 1.400 biên chế cho 1.000 giường bệnh
Với đội ngũ cán bộ chuyên khoa có trình độ chuyên môn sâu và có trang

thiết bị thích hợp, bệnh viện đủ khả năng hỗ trợ các bệnh viện tuyến huyện thị hoặc
các bệnh viện hạng III. Ngoài thực hiện nhiệm vụ được UBND Tỉnh giao, bệnh
viện còn tổ chức dịch vụ khám chữa bệnh với 317 giường của 11 khoa, Năm 2011
bệnh viện đã thực hiện khám chữa bệnh cho 433.227 lượt người; năm 2012 là
526.403 lượt người, phục vụ khá tốt yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong
tỉnh
Bệnh viện thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/04/2006 của Chính phủ về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập và thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài Chính hướng dẫn
thực hiện nghị định 43/2006/NĐ-CP và Quyết định số 2468/QĐ-UBND ngày
30/12/2010 của UBND Tỉnh về việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính giai đoạn 3 năm từ 2010 đến năm 2012, là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một
phần chi phí hoạt động.
Theo Nghị định này, Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
Bệnh viện trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và
9

nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của
đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm
từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động ở Bệnh viện.
Bệnh viện thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho
xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự
nghiệp bệnh viện, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Mặc dù cho phép Bệnh viện thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động Bệnh viện ngày càng phát triển bảo
đảm cho các đối tượng chính sách – xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng
tốt hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước vẫn phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với
đơn vị sự nghiệp và cơ chế quản lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trước hết Bệnh viện phải hoàn
thành nhiệm vụ được giao, các hoạt động dịch vụ phải phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, phù hợp với khả năng chuyên môn và tài chính của đơn vị.
Song song với việc thực hiện quyền tự chủ, Bệnh viện phải tự chịu trách
nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết
định của mình đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Bệnh viện phải thực hiện công khai, dân chủ bảo đảm lợi ích của nhà
nước, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
2.2. Thực trạng quản lý tài chính tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang
từ năm 2010 năm 2012
2.2.1 Những kết quả đạt được và nguyên nhân
a. Những kết quả đạt được:
Bệnh viện Đa Khoa Trung Tâm An Giang là một Bệnh viện công tuyến
Tỉnh. Theo phân cấp chuyên môn thì đây là Bệnh Viện cấp II, tuyến trên là các
Bệnh viện công ở Thành phố Hồ Chí Minh , tuyến dưới là các Bệnh viện công cấp
Huyện, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh An Giang .
Bệnh viện chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Y Tế An Giang, vì vậy bộ phận
tài chính của Bệnh viện là đơn vị dự toán cấp II của Ngân sách tỉnh. Hàng năm
được Sở Y tế ký quyết định giao dự toán thu, chi ngân sách cho Bệnh viện vào thời
điểm đầu tháng 01 năm ngân sách. Dự toán thu, chi ngân sách được giao dựa trên
số lượng giường bệnh đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Nguồn kinh phí hoạt động của bệnh viện là chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà
nước cấp, nguồn thu viện phí và các nguồn khác
Nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp năm 2010 là 46 tỷ đồng/900
giường, năm 2011 là 60 tỷ đồng/1.000 giường, năm 2012 là 60 tỷ đồng/1.000
giường; tuy số giường kế hoạch có tăng, nhưng thực tế số lượng người bệnh
thường xuyên quá tải, lúc vào nhập viện người bệnh phải nằm thêm ghế bố,và
10

nằm ngoài hành lang do cơ sở vật chất chật hẹp không đủ đáp ứng cho người bệnh.

Đây là một vấn đề mà Bệnh viện luôn trăn trở và đáng quan tâm nhất.
Mặc dù kinh phí ngân sách cấp cho Bệnh viện mỗi năm tuy có tăng nhưng
nếu tính theo số cần phải chi sử dụng cho tổng số giường bệnh thực tế thì ngân
sách cấp hàng năm chỉ được 30% số thực chi, 70% còn lại Bệnh viện phải bổ sung
từ nguồn Viện phí.
Là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, Bệnh viện còn
được giao nhiệm vụ thu viện phí bổ sung nguồn thu ngân sách để hoạt động. Năm
2010 thu 68 tỷ đồng; năm 2011 thu 78 tỷ đồng; năm 2012 thu 100 tỷ đồng
Nguồn Viện phí là nguồn Bệnh viện thu viện phí trực tiếp từ người bệnh và
từ nguồn chi của cơ quan BHYT trả viện phí cho người bệnh có thẻ BHYT gọi là
nguồn viện phí BHYT.
Giá thu viện phí Bệnh viện phải tuân thủ theo Nghị định 95 /CP ngày 27
tháng 8 năm 1994, Nghị định 33 /CP ngày 23 tháng 5 năm 1995 của Thủ Tướng
CP về việc thu một phần viện phí, Quyết định 147/QĐ-UB ngày 30 tháng 01 năm
2001 của UBND Tỉnh An Giang về việc ban hành mức thu viện phí và Quyết định
35/2006/QĐ-UBND ngày 11 tháng 8 năm 2006 của UBND Tỉnh An Giang về việc
ban hành mức thu viện phí. Bệnh viện không được tuỳ tiện đặt ra mức thu viện phí,
khi có yêu cầu Bệnh viện phải lập tờ trình và được Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh ký
quyết định phê duyệt giá thu thì mới được xem là hợp pháp.
Trong những năm qua nguồn thu Viện phí bảo hiểm y tế có tăng là do cơ
quan Bảo hiểm y tế triển khai chính sách Bảo hiểm y tế toàn dân nên số lượng
bệnh nhân có bảo hiểm y tế tăng lên. Bên cạnh đó, mức thanh toán chi phí khám
chữa bệnh của cơ quan Bảo hiểm y tế bị khống chế theo các văn bản của cơ quan
Bảo hiểm y tế cho phép thanh toán đối với người bệnh có thẻ bảo hiểm, vì vậy nếu
trường hợp Bệnh viện đã cung cấp cho người bệnh thuốc, các dịch vụ y tế cơ bản
trong quá trình điều trị nhưng ngoài danh mục được phép thanh toán thì cũng bị
BHYT xuất toán. Do vậy Bệnh viện cũng thường xuyên phải gánh vác chi phí nầy
trung bình mỗi năm gần cả tỉ đồng làm ảnh hưởng lớn đến nguồn tài chính của
Bệnh viện.
Theo qui định của Chính phủ, khoản thu viện phí là nguồn thu của ngân sách

nhà nước, được sử dụng cho cơ sở khám chữa bệnh thu khoản viện phí đó để bổ
sung kinh phí mua thuốc, máu, dịch truyền, hóa chất, phim X quang, vật tư, trang
thiết bị, dụng cụ y tế phục vụ người bệnh kịp thời. Đồng thời trích lập các quỹ theo
quy định.
Ngoài các nguồn thu trên Bệnh viện tận dụng cho thuê các cơ sở kinh doanh
phục vụ người bệnh như bãi giữ xe, quầy bách hoá, căn tin, và triển khai thêm
các phòng bệnh có trang bị máy điều hoà làm giường bệnh dịch vụ, khám và điều
trị theo yêu cầu, đăng ký khám qua đường dây điện thoại Nguồn thu này không
lớn nhưng góp phần bổ sung vào kinh phí hoạt động của Bệnh viện.
11

Các nguồn kinh phí trên được đưa chung vào nguồn thu của Bệnh viện. Trên
cơ sở đó, hàng năm căn cứ vào dự toán thu chi được giao và quy chế chi tiêu nội
bộ, Bệnh viện phải lập kế hoạch thực hiện các khoản chi theo chế độ, tiêu chuẩn và
định mức theo do Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả, chất lượng
công việc phục vụ cho hoạt động khám chữa bệnh của Bệnh viện.
Nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp chủ yếu tập trung cho các khoản
chi thường xuyên, trực tiếp gắn với hoạt động khám chữa bệnh như: chi cho con
người, chi quản lý hành chính, chi cho nghiệp vụ chuyên môn, chi sửa chữa, mua
sắm tài sản cố định, Tuy nhiên hàng năm nguồn kinh phí ngân sách cấp Bệnh
viện chỉ đủ để chi thanh toán lương, phụ cấp ưu đãi, độc hại, trách nhiệm, phụ cấp
phẩu thuật, thủ thuật, hội chẩn chuyên môn cho 1.262 cán bộ, viên chức Bệnh viện.
Để chi các khoản như: dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin tuyên
truyền liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi phí thuê mướn, sửa chữa thường xuyên,
chi phí nghiệp vụ chuyên môn, mua sắm máy móc trang thiết bị và sửa chữa lớn
Bệnh viện phải lấy từ nguồn thu viện phí.
Mặc dù nguồn viện phí hàng năm đều tăng nhưng tình trạng cơ sở vật chất
phòng ốc chật hẹp, xuống cấp, các máy móc trang thiết bị y tế cũ kỹ lỗi thời,
thường xuyên hư hỏng do không đủ kinh phí xây dựng cơ sở mới, trang bị máy
móc thiết bị mới nên việc cải tạo, sửa chữa tạm thời để phục vụ công tác làm cho

Bệnh viện phải tốn hao nhiều chi phí cho công tác này. Cụ thể chi cho sửa chữa
năm 2010 là 2 tỷ 145 triệu đồng; năm 2011 là 788 triệu đồng; năm 2012 là 1 tỷ 300
triệu đồng.
Trong khi đó để đầu tư mua sắm trang thiết bị chẩn đoán và điều trị bệnh kỹ
thuật cao rất tốn kém, vì vậy Bệnh viện chỉ trang bị bổ sung thêm một số trang
thiết bị đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh hiện tại thể hiện qua số chi dùng để mua
thêm máy móc thiết bị y tế hàng năm còn hạn chế năm 2010 là 1 tỷ 900 triệu
đồng; năm 2011 là 3 tỷ 200 triệu đồng; năm 2012 là 2 tỷ 900 triệu đồng.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng công
tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Thực hiện Nghị định 43/NĐ-CP, hàng năm Bệnh viện đã thực hiện việc lấy
thu bù chi, sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế, và các khoản nộp khác
theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có) Bệnh viện được sử dụng :
- Trích 70% để trả thu nhập tăng thêm cho nhân viên
- Trích 10% lập quỹ khen thưởng
- Trích 5% lập quỹ phúc lợi
- Trích 5% lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập
- Trích 10% lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp
Hệ số kết dư 70% để làm lương tăng thêm so với tổng quỹ lương Bệnh viện
năm 2010 là 0,45 lần; năm 2011 là 0.69 lần; năm 2012 là 0.25 lần.
12

Thực hiện chỉ đạo của Nhà nước về thực hành tiết kiệm, Bệnh viện đã thực
hiện việc chi khoán văn phòng phẩm, khoán vật liệu sử dụng cho khoa phòng
khoán tiền sử dụng điện thoại cho các phòng ban chức năng, khoán công tác phí
cho chuyển bệnh, đi công tác, hội nghị, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi về mua
sắm, sửa chữa, tiết kiệm chi phí, điện nước, thời gian, tận dụng các nguồn thu, nhờ
đó Bệnh viện có kết dư làm nguồn thu nhập hợp pháp cho nhân viên, đã động viên,
khuyến khích năng suất lao động thông qua quy chế phân phối lương tăng thêm
theo Chính sách, quy định về tiền thưởng với tiêu chí: người nào có đóng góp công

sức nhiều thì hưởng nhiều, người nào đóng góp công sức ít thì hưởng ít.
b. Những nguyên nhân dẫn đến kết quả :
Công tác quản lý tài chính của Bệnh viện An Giang có đạt được những kết
quả trên là do:
- Có sự quan tâm sâu sát của các cấp lãnh đạo tỉnh, Sở Y tế và của các ban
ngành đoàn thể đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp cho Bệnh viện đi đúng hướng
và phát triển một cách toàn diện.
- Bệnh viện đã tổ chức thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo
Nghị định 43/NĐ-CP của Chính phủ nên dù ngân sách nhà nước chỉ cấp 30% kinh
phí hoạt động nhưng Bệnh viện vẫn hoạt động tốt, hoàn thành được nhiệm vụ cấp
trên giao.
- Tiền lương tăng thêm của cán bộ, viên chức Bệnh viện tuy không cao song
đã góp phần cải thiện đời sống cán bộ, viên chức vì vậy cán bộ, viên chức yên tâm
công tác, có tư tưởng chính trị ổn định, bộ máy hoạt động có hiệu quả, chất lượng
tốt.
- Bệnh viện được hỗ trợ đầu tư thêm một số máy móc thiết bị kỹ thuật
chuyên môn như Máy chụp X quang kỹ thuật số, máy CT-scaner; xây dựng được
khu điều trị bệnh nội trú và khu khám bệnh ngoại trú từ Nguồn kinh phí đầu tư xây
dựng cơ bản, nguồn vốn ODA phần nào giảm được gánh nặng về tài chính cho
Bệnh viện đã đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.
- Ứng dụng tin học vào trong quản lý, Bệnh viện đã xây dựng phần mềm vào
quản lý viện phí cả nội và ngoại trú. Tránh tình trạng thu thiếu, thu sai cho bệnh
nhân và đảm bảo nhanh chóng thuận lợi. Đã giảm các hiện tượng bệnh nhân trốn
viện, thiếu tiền khi thanh toán do nhắc nhở bệnh nhân thanh toán đúng đợt điều trị.
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
a. Những hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng bên cạnh đó cũng còn một số
hạn chế nhất định:
-Việc sử dụng điện, nước, văn phòng phẩm, vật liệu khoa trại, phục vụ công
tác vệ sinh môi trường, cảnh quan, giường bệnh còn nhiều lãng phí. Các chi phí

13

này ngày càng lớn cũng do một phần biến động của thị trường, giá cả tăng, và một
phần do người sử dụng chưa có ý thức tiết kiệm vì lợi ích chung.
- Việc lạm dụng kỹ thuật, lạm dụng xét nghiệm, thuốc men không cần thiết
cho người bệnh cũng có xuất hiện gây lãng phí. Không thể phủ nhận tác dụng của
các thiết bị y tế hiện đại trong khám chữa bệnh và tác dụng của nguồn vốn liên
doanh liên kết trong Bệnh viện. Do không có kinh phí đầu tư máy móc, thiết bị y tế
hiện đại, trong nhiều trường hợp, sự có mặt kịp thời của thiết bị liên doanh liên kết
đã đem đến cho người bệnh cơ hội được điều trị kịp thời, giảm thời gian chờ đợi,
hơn hết là được tiếp cận với các thiết bị điều trị hiện đại đồng thời một phần nào
làm tăng nguồn thu của Bệnh viện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã có những hiện
tượng chỉ định chiếu chụp, xét nghiệm tràn lan nhằm nhanh chóng thu hồi vốn và
kiếm lãi từ các thiết bị liên doanh liên kết.
- Chăm sóc sức khoẻ người dân chưa đạt được chất lượng cao, chỉ số về
ngày điều trị còn dài.
- Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ chưa đạt theo yêu cầu.
- Thái độ phục vụ người bệnh của nhân viên y tế chưa được ân cần chu đáo.
- Chi phí khám và điều trị còn nhiều lãng phí.
- Mặc dù đã ứng dụng tin học hóa trong quản lý song vẫn còn thất thu lớn.
Bệnh viện vẫn chưa thu hết nguồn thu từ khám chữa bệnh cũng như tận dụng khai
thác các nguồn thu khác.
b. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế:
- Dân số tăng nhanh, nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân ngày càng lớn,
giá thành chữa bệnh ngày càng đắt nhưng kinh phí của Nhà nước cho y tế lại rất
hạn hẹp. Hơn nữa nguồn ngân sách nhà nước cấp chưa có chiến lược, định hướng,
mục tiêu, phương pháp, biện pháp tổ chức thực hiện và quản lý kế hoạch theo
những mục tiêu phát triển của Bệnh viện trong dài hạn mà việc cân đối ngân sách
cho Bệnh viện phụ thuộc vào khả năng thu và cơ cấu chi của ngân sách nhà nước.
- Tỉnh ta còn rất nhiều người nghèo không có khả năng trả tiền khám chữa

bệnh, hàng ngàn gia đình chính sách có công với cách mạng phải được chăm sóc
sức khoẻ chu đáo. Đảm bảo công bằng xã hội về khám chữa bệnh là nhiệm vụ nặng
nề khó khăn, chỉ riêng ngành y tế không thể nào làm được.
- Tuy đã có chủ trương chung, nhưng các văn bản pháp lý chưa đồng bộ, các
văn bản hướng dẫn chưa kịp thời nên việc thực hiện đôi lúc gặp khó khăn, kém
hiệu quả.
- Hoạt động thường xuyên của Bệnh viện hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào
nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế. Song bảng giá viện phí được Bộ Y tế quy
định từ năm 1994 đến nay đã trải qua nhiều năm vẫn không thay đổi trong khi đó
mức giá chung tăng hàng năm đều tăng. Bệnh viện có hàng loạt những dịch vụ mới
không có trong biểu giá quy định gây khó khăn trong việc định giá thu dịch vụ y tế.
14

- Mức thanh toán của cơ quan bảo hiểm y tế thấp (Bệnh viện phải bù một
phần) vì vậy khó khăn càng tăng thêm.
- Việc phát huy quyền làm chủ tập thể đôi lúc chưa tốt, ý thức bảo vệ cơ sở
vật chất chưa cao, còn hiện tượng lãng phí.
- Công kiểm tra giám sát việc sử dụng vật tư, thuốc và tài sản chưa thật sự
chặt chẽ; một số máy móc trang thiết bị chưa sử dụng hết công suất; một số khoa
phòng chưa có ý thức trong việc tiết kiệm trong việc mua sắm tài sản; chưa xây
dựng được định mức cụ thể trong việc sử dụng hóa chất, vật tư tiêu hao gây ra lãng
phí chi phí khám và điều trị bệnh.
- Chính sách quan tâm của xã hội đối với sức khoẻ, đời sống nhân viên y tế
chưa tương xứng với những cống hiến của họ, tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống
tối thiểu của những người làm nghề y tế rất vất vả, độc hại, xác suất lây nhiễm
bệnh lại cao.





















15

Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM
AN GIANG ĐẾN NĂM 2015

3.1. Phương hướng
Với mô hình Bệnh viện đa khoa chủ chốt của tỉnh, Bệnh viện đã không
ngừng cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, tăng cường
công tác đào tạo, chỉ đạo tuyến và quản lý bệnh viện cũng như công tác quản lý tài
chính. Hoạt động quản lý tài chính của Bệnh viện cần thực hiện các phương hướng
sau:
- Để đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, Bệnh viện cần có

thêm nguồn kinh phí trong điều kiện ngân sách nhà nước cấp cho rất hạn hẹp. Vì
vậy, một mặt có biện pháp tăng thu viện phí và bảo hiểm y tế nhưng đồng thời thực
hiện chế độ miễn giảm cho người nghèo, người có công với cách mạng theo quy
định của Nhà nước. Quán triệt quan điểm thu: Thu viện phí để giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách nhà nước mà vẫn giữ được công bằng y tế.
- Công tác quản lý tài chính bệnh viện đứng trước yêu cầu khắt khe trong
quản lý Bệnh viện nói chung, quản lý tài chính Bệnh viện An Giang nói riêng: phải
vừa đảm bảo công bằng y tế, vừa đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, cân đối thu chi.
Điều này có nghĩa là vừa đảm bảo “khung” tài chính do Nhà nước quy định (mức
giá viện phí, chế độ miễn giảm ) vừa đảm bảo các mục tiêu cho phát triển Bệnh
viện. Nói cách khác quản lý tài chính không thể tách rời khỏi quản lý bệnh viện
nhưng đồng thời phải tuân thủ các quy định tài chính của Nhà nước.
- Thực hành tiết kiệm, kiểm tra, giám sát các chi phí về vật tư tiêu hao, chi
phí hành chính, văn phòng phẩm không để tình trạng các hóa chất hết hạn sử dụng
phải hủy bỏ.
- Kiểm ta thực hiện tốt các chế độ quyết toán BHYT không để xuất toán xảy
ra.
3.2. Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính
tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang đến năm 2015
3.2.1 Nhóm giải pháp chung
a) Tăng ngân sách nhà nuớc dành cho y tế và tăng nguồn thu viện phí
Mặc dù kinh phí thường xuyên là do ngân sách nhà nước cấp hàng năm tăng
chậm và chiếm khoảng 30% trong tổng nguồn kinh phí của Bệnh viện song đây là
nguồn kinh phí tương đối ổn định. Có thể nói nguồn ngân sách nhà nước hiện vẫn
là nguồn kinh phí chủ đạo của Bệnh viện công. Bởi ngoài kinh phí thường xuyên,
ngân sách nhà nước còn đầu tư với khối lượng lớn cho Bệnh viện dưới các Dự án
16

đầu tư XDCB và các chương trình mục tiêu quốc gia. Bệnh viện cần phát huy thế
mạnh đơn vị dự toán cấp II trên cơ sở tiêu chí phát triển của Bệnh viện và chủ

trương đầu tư trọng điểm của Nhà nước. Tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ ngành
hữu quan tạo môi trường thuận lợi cho Bệnh viện khai thác tối đa nguồn ngân sách,
trên cơ sở thực hiện tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ hàng năm.
Hòa chung vào nguồn tài chính của Bệnh viện và có thể coi đây là nguồn
kinh phí hoạt động chính của Bệnh viện là nguồn viện phí (bao gồm viện phí trực
tiếp và viện phí bảo hiểm y tế). Nguồn thu viện phí đã góp phần quan trọng trong
điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, về mặt lý thuyết việc thu viện phí tạo
điều kiện cho các bệnh viện dành ngân sách nhà nước để khám chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo và người không có khả năng chi trả. Việc thu viện phí đã khuyến
khích các bệnh viện đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật trong đó có các kỹ thuật cao
góp phần làm thay đổi hẳn bộ mặt của bệnh viện. Viện phí làm cho người bệnh nếu
có tiền sẽ dễ chọn nơi cung cấp dịch vụ hơn. Tuy nhiên khi đề cập đến những bất
cập xuất hiện do thực hiện chính sách viện phí ta thấy nổi lên những điểm chính
sau:
+ Việc thu viện phí một phần (chỉ tính thuốc, máu, dịch truyền,một phần
chi phí điện nước thông qua tiền ngày giường điều trị nội trú mà chưa thu tiền chi
cho vật tư y tế tiêu hao, khấu hao và tiền công lao động ) đã mang lại một nghịch
lý là vẫn bao cấp cho người giàu nhiều hơn là người nghèo.
+ Mức thu một số dịch vụ kỹ thuật được tính từ năm 1995 nên không phù
hợp với sự trượt giá và sự tăng giá thành theo thời gian, nhiều dịch vụ mới thu từ
30 – 50% giá thành, một số dịch vụ chưa có giá, việc bổ sung giá các dịch vụ kỹ
thuật mới vào các văn bản hướng dẫn không theo kịp với thực tế. Mức thu phí
chưa bù đắp các chi phí trực tiếp, chưa thể hiện tái đầu tư và chưa thể hiện sự khác
biệt giữa các tuyến và các hạng bệnh viện, chưa kết cấu tiền công lao động. Tất cả
những điều này đã làm cho việc thực hiện rất khó khăn trước hết là khó khăn trong
hạch toán và đảm bảo chất lượng của khám chữa bệnh, thậm chí có giai đoạn dài
xuất hiện những giải pháp chưa phù hợp như sử dụng 35% nguồn thu (sau khi đã
trừ tiền thuốc, máu, dịch truyền) để nâng cao phúc lợi cho cán bộ, nhân viên. Cần
phân định rõ mục đích tính giá thành đúng và đủ để xác định giá phù hợp, làm căn
cứ để yêu cầu đơn vị cung ứng dịch vụ có chất lượng phù hợp với giá thành và tìm

ra phương thức thu phù hợp với từng đối tượng. Khắc phục các khuynh hướng
hiểu không đúng về xác định giá thành cho rằng tính đúng và tính đủ giá thành chỉ
nhằm tăng viện phí và thu đủ với mọi đối tượng. Vẫn phải thực hiện miễn và giảm
phí với nguời nghèo, người rủi ro về sức khoẻ và các đối tượng chính sách xã hội,
nhưng nhà nước và các cơ quan an sinh xã hội (BHYT, các quỹ từ thiện ) sẽ phải
bù khoản đuợc miễn trừ thay cho bệnh nhân. Những đối tượng có thu nhập cao thì
phải chi trả đầy đủ hơn để đảm bảo và nâng cao chất lượng dịch vụ, phù hợp với
kinh tế thị trường. Không xác định rõ cơ chế này thì vừa không có dịch vụ có chất
lượng vừa không có công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Nhưng cũng cần lưu ý
rằng, xây dựng khung giá viện phí phải tính tới sức chịu đựng của người dân, chứ
17

không phải vì quyền lợi của Bệnh viện mà tăng viện phí lên cao quá cũng không
phù hợp.
Nhà nước cần xây dựng mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế theo hướng cân đối thu
chi của quỹ bảo hiểm y tế và nhất là cần chi trả cho bệnh viện phù hợp với các dịch
vụ khám chữa bệnh ngày càng hiện đại, chất lượng ngày càng cao. Nhằm đảm bảo
cho Bệnh viện không phải bù đắp bằng kinh phí của bệnh viện cho bệnh nhân có
thẻ bảo hiểm y tế.
b) Thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, việc giao quyền
tự chủ - tăng quyền và tăng trách nhiệm của các bệnh viện là một chủ trương rất
đúng đắn và cần thiết, góp phần tăng thêm nguồn lực cho hoạt động và phát triển
của bệnh viện.
Xét trên đại thể thì tự chủ tài chính mang lại những điểm lợi sau đây: làm
tăng rõ rệt quyền và trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị; có sự thay đổi về bộ máy và
sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn; nguồn thu tài chính của các đơn vị tăng đáng
kể; chủ động sử dụng và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tài chính (giảm chi phí
hành chính, tăng mua sắm trang thiết bị rõ rệt); tăng huy động vốn để đầu tư nâng
cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị, nhất là kỹ thuật cao; cải thiện quyền lợi của cán

bộ, nhân viên; tăng tính cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ
Nhưng tự chủ tài chính cũng mang lại những khó khăn thách thức lớn như:
việc vận dụng rất khác nhau do hệ thống chính sách chưa đồng bộ, và chưa quan
tâm thích đáng đến các chính sách mang tính đặc thù cho loại hình dịch vụ y tế;
bệnh nhân trở thành đối tượng để tăng thu: lạm dụng xét nghiệm, lạm dụng thuốc,
lạm dụng kỹ thuật đắt tiền phân biệt đối xử với nhóm bệnh nhân không nộp phí
trực tiếp làm hạn chế tiếp cận của người nghèo, người sử dụng BHYT.
Vì vậy chúng ta cần có những tiêu chí kiểm tra, đánh giá, giám sát việc tự
chủ của bệnh viện. Tự chủ của Bệnh viện phải theo hướng nâng cao chất lượng
điều trị ngày càng tốt hơn, hạn chế các khe hở để đẩy giá thành khám chữa bệnh
lên cao. Tự chủ của Bệnh viện phải đảm bảo quyền lợi của người dân và đem lại
lợi ích cho bệnh viện, nhất là giữ được y đức của người thầy thuốc. Quản lý Bệnh
viện phải thế nào để bệnh viện ngày càng phát triển, trở thành thương hiệu thu hút
người dân đến khám và điều trị, là điều không hề đơn giản; đòi hỏi bệnh viện phải
có sự đổi mới về tư duy, năng động trong điều hành để vận dụng sáng tạo chủ
trương, chính sách của nhà nước về vấn đề nầy.
c)Tăng cường khả năng cạnh tranh để phát triển
Cạnh tranh để phát triển là một qui luật tất yếu của các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hóa, nhưng đối với Bệnh viện ít người nghỉ đến khái niệm
cạnh tranh.Vì khi bệnh người ta tất nhiên phải đến Bênh viện điều trị và cũng bởi
quan niệm người bệnh là người đến nhờ vả, bác sĩ là người ra tay cứu giúp nên mối
quan hệ người bệnh - thầy thuốc ít nhiều thiếu ngang bằng, không giống như người
18

mua - người bán dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, cách nhìn này có lẽ đã trở
nên lạc hậu với điều kiện xã hội ngày càng phát triển, dân trí ngày càng cao , nhu
cầu xã hội ngày càng khác trước, đòi hỏi điều kiện phục vụ đời sống phải nâng cao,
kể cả lĩnh vực y tế. Người bệnh là khách hàng, là trọng tâm cho các hoạt động và
chính là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của bệnh viện. Ngày nay, không
chỉ cạnh tranh giữa bệnh viện tư, bệnh viện có vốn nước ngoài, mà ngay cả giữa

các bệnh viện công cũng phải cạnh tranh với nhau. Có cạnh tranh, Bệnh viện mới
thật sự đổi mới về chất lượng, thái độ phục vụ để thu hút “khách hàng”. Ngoài yếu
tố chuyên môn được đảm bảo, việc nâng cao chất lượng phục vụ thực sự tạo ra
những tác dụng rõ rệt: Số lượng người bệnh đến sẽ ngày càng nhiều hơn. Bệnh
viện có bệnh nhân đông thì đồng nghĩa với việc nguồn thu tăng lên, hoạt động của
Bệnh viện dễ dàng hơn. Mặt khác, chính cạnh tranh sẽ dẫn đến giá cả dịch vụ y tế
giảm xuống, đồng thời chất lượng dịch vụ cao hơn, người bệnh được phục vụ tốt
hơn.
Ngược lại nhờ có nguồn thu, Bệnh viện có điều kiện mời thêm bác sĩ, điều
dưỡng, trang bị thêm cơ sở vật chất để vẫn đảm bảo điều kiện phục vụ khi số người
bệnh đông hơn.
d) Xã hội hóa y tế để huy động nguồn lực đầu tư
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới WTO, đồng nghĩa với vấn đề kinh tế y tế và chính sách
“bảo hộ y tế” của nhà nước cũng dần bị loại bỏ. Thách thức mà Bệnh viện phải
đương đầu là nhu cầu về chất lượng khám chữa bệnh của nhân dân ngày càng cao,
trong khi nguồn lực đầu tư cho y tế còn hạn chế, đội ngũ y bác sĩ còn ít đã dẫn đến
tình trạng quá tải cho Bệnh viện.
Để khắc phục mâu thuẩn nầy cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có việc
đổi mới công tác y tế theo hướng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho Bệnh
viện. Để đảm bảo cân đối thu chi, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Bệnh viện
cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá, huy động vốn đầu tư mở rộng các dịch vụ kỹ
thuật cao.
Bệnh viện cần chủ động huy động các nguồn vốn thông qua xã hội hóa công
tác khám, chữa bệnh dưới nhiều hình thức như: tổ chức liên doanh, liên kết với các
tổ chức, cá nhân trong việc hiện đại hoá bệnh viện, đào tạo cán bộ có trình độ
chuyên môn cao, cải tạo cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị y tế theo quy định
nhằm đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân trong
điều kiện nguồn ngân sách nhà nước cấp cho Bệnh viện còn hạn chế. Hiện nay
Bệnh viện còn thiếu các loại thiết bị hiện đại như: máy MRI, máy XQ cao tầng,

siêu âm kỹ thuật số, mổ tán sỏi qua nội soi, siêu lọc máu, máy gia tốc tuyến tính,
máy CT mô phỏng trong chẩn đoán và điều trị ung thư
Để góp phần giảm thiểu quá tải đồng thời đáp ứng yêu cầu của nhiều người
dân cần phát triển khu điều trị theo yêu cầu; tổ chức các loại hình cung ứng dịch vụ
ngoài y tế như: cung cấp nước uống, cung cấp chế độ ăn dinh dưỡng, xe ô tô phục
19

vụ bệnh nhân đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân trong quá
trình khám và điều trị tại Bệnh viện.
Thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá ngoài việc đáp ứng yêu cầu khám, chữa
bệnh của người dân còn tạo thêm thu nhập cho cán bộ, nhân viên y tế Bệnh viện.
Không những thu nhập tăng thêm 100% mà thậm chí có thể tăng lên gấp 3 hoặc 4
lần. Điều nầy góp phần giữ chân người giỏi, giữ sự ổn định cho biên chế của Bệnh
viện. Bên cạnh đó, thu nhập cũng chính là động lực để cán bộ, nhân viên y tế tập
trung cho công tác chuyên môn, có thái độ phục vụ bệnh nhân chu đáo, làm cho
mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với Bệnh viện ngày càng tăng.
Đẩy mạnh xã hội hoá y tế, coi xã hội hoá là một giải pháp song song với
việc tăng cường đầu tư của nhà nước cho sự phát triển Bệnh viện. Nhưng những
điều nầy cũng sẽ xuất hiện nguy cơ “thương mại hóa” Bệnh viện. Tác động kết hợp
của giá dịch vụ và chi phí y tế, chi phí thuốc men gia tăng sẽ cản trở người nghèo
tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế kỹ thuật cao, chi phí lớn. Như thế tất yếu dẫn đến
việc gia tăng khoảng cách phân hoá xã hội, biến sứ mệnh của Bệnh viện là phục vụ
lớp giàu và lớp trung lưu hơn là người nghèo. Một bộ phận lớn người nghèo, đặc
biệt là nông dân, sẽ không được bảo đảm điều kiện khám chữa bệnh. Để giải quyết
vấn đề nầy nhà nước phải hổ trợ tích cực hơn nữa cho người nghèo.
Chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước là nhằm khơi dậy và huy động
tiềm năng trí tuệ và vật chất của nhân dân trong khả năng và điều kiện có thể, để
cùng Nhà nước chăm lo cho dân, chứ tuyệt nhiên không có nghĩa là giảm bớt trách
nhiệm của Nhà nước, càng không phải từ bỏ trách nhiệm của Nhà nước trong việc
chăm lo đời sống cho dân. Cho nên việc thực thi biện pháp xã hội hoá cần nên thận

trọng, không nên lạm dụng “xã hội hóa” mà làm chệch đường lối của Đảng, Nhà
nước về chiến lược phát triển y tế và mục tiêu xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang hướng tới.
Mặc dù hiện nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách lớn liên quan
trực tiếp đến hệ thống y tế, tạo cơ chế tài chính cho Bệnh viện, góp phần tạo nên sự
thay đổi sâu sắc trong cơ cấu tài chính y tế của Việt Nam. Nguồn thu tài chính
hàng năm của Bệnh viện tuy rằng chưa thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu phát triển
của Bệnh viện, nhưng đó là sự ưu tiên và cố gắng lớn của Đảng và Nhà nước. Vấn
đề là làm sao quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính đó, chứ không phải khi
nhu cầu chi phát sinh, lại đưa ra chủ trương bắt dân đóng góp thêm với danh xưng
là “xã hội hoá”. Xã hội hoá y tế là chủ trương cần thiết để huy động nguồn lực cho
phát triển Bệnh viện, nhưng các bước tiến hành cần phải hết sức thận trọng.
3.2.2 Nhóm giải pháp cụ thể
a) Xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn chế độ chi tiêu nội bộ hợp lý
Định mức chi không những là căn cứ để lập kế hoạch mà còn là cơ sở để
tiến hành công tác kiểm tra kiểm sát công tác tài chính kế toán. Mỗi mục chi của
Bệnh viện cần phải có tiêu chuẩn qui định phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả
20

tránh lãng phí. Khi xây dựng định mức tiêu chuẩn trong nội bộ cần đảm bảo những
nguyên tắc sau:
+ Quy chế chi tiêu nội bộ phải đảm bảo cho Bệnh viện hoàn thành nhiệm
vụ chính trị, thực hiện hoạt động thường xuyên phù hợp với tính đặc thù trong lĩnh
vực y tế nhưng vẫn đảm bảo sử dụng kinh phí có hiệu quả và tăng cường công tác
quản lý tài chính.
+ Quy chế chi tiêu nội bộ được công khai thảo luận trong Bệnh viện, có ý
kiến của tổ chức công đoàn. Nguyên tắc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ là ưu
tiên chi nghiệp vụ để đảm bảo chất lượng chuyên môn. Tăng thu, tiết kiệm chi
hành chính và tổ chức, phân công lao động cho hợp lý và có hiệu quả.
b) Quản lý trang thiết bị y tế có hiệu quả

Kinh phí về trang thiết bị y tế của Bệnh viện còn hạn chế, vì vậy người cán
bộ quản lý phải thu thập đầy đủ thông tin để cân nhắc trước khi ra quyết định mua
sắm thiết bị mới sao cho phù hợp.
Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, đặc biệt là các
máy móc chuyên môn cần theo chiến lược sử dụng. Công nghệ thích hợp: công
nghệ mới, hiện đại nhưng giá cả phải chăng, dễ sử dụng, dễ bảo trì, nguồn phụ
tùng linh kiện thay thế cho hoạt động của máy móc phải đa dạng, có phụ tùng linh
kiện thay thế. Đảm bảo các thiết bị tối cần thiết cho hoạt động hành chính như:
phương tiện đi lại, máy vi tính theo hướng tiết kiệm, hiệu quả. Cán bộ quản lý
tham mưu giúp lãnh đạo quản lý tốt hệ thống trang thiết bị y tế - đây là tài sản rất
lớn của Bệnh viện, bảo đảm và cung ứng kỹ thuật y tế cho tất cả các khoa thực thi
nhiệm vụ khám chữa bệnh có chất lượng và hiệu quả.
c) Quản lý kinh tế y tế tốt
Quản lý tài chính bệnh viện là khâu quan trọng trong phát triển kinh tế y tế.
Để công tác quản lý tài chính đạt hiệu quả, Có thể nói, một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến công tác quản lý nói chung và công tác quản lý tài chính
Bệnh viện nói riêng là đội ngũ cán bộ công tác Tài chính kế toán. Việc xây dựng
đội ngũ cán bộ Tài chính chuyên trách, có tinh thần trách nhiệm, có nghiệp vụ Tài
chính kế toán cần được xem như một khâu then chốt trong việc hoàn thiện quản lý
Tài chính. Để thực hiện giải pháp này cần từng bước thực hiện các bước sau:
- Rà soát đánh giá lại toàn bộ bộ máy quản lý Tài chính kinh tế về năng lực,
trình độ, phẩm chất đạo đức. Trên cơ sở đó tiến hành sắp xếp lại tổ chức, kiện toàn
lại toàn bộ bộ máy quản lý Tài chính theo hướng tinh gọn, chuyên trách, hoạt động
có hiệu quả.
- Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức :
tham gia các lớp đào tạo trung, cao cấp, tham dự các lớp tập huấn để nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn cũng như cập nhật các văn bản chế độ, kiến thức mới trong
quản lý.
21


- Cán bộ làm công tác tài chính kế toán phải là những cán bộ trung thực,
phải có nghiệp vụ chuyên môn giỏi. Do đó, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ phải
toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức trình độ chuyên môn và năng
lực thực tiễn.
Tổ chức, vận hành bộ máy kế toán tài chính của Bệnh viện nhằm phục vụ
cho công tác quản lý nguồn thu, tránh thất thoát; công tác quản lý chi tiêu sao cho
có hiệu quả với nguồn kinh phí thấp nhất, mục tiêu phục vụ cho người bệnh được
an tâm điều trị với chất lượng tốt nhất.
Mặt khác để đảm bảo được nguồn tài chính ổn định cho hoạt động bệnh viện
cần phải chú trọng đến các giải pháp nhằm cân đối nguồn tài chính của bệnh viện
như:
- Để tăng thu, Bệnh viện cần duy trì, mở rộng và nâng cao chất lượng các
loại hình dịch vụ hiện có như: giường bệnh dịch vụ, khám và điều trị bệnh theo yêu
cầu, tiêm ngừa, phẩu thuật ngoài giờ ; tận dụng hết công suất các máy móc, thiết
bị hiện có, nhất là đối với các thiết bị kỹ thuật cao. Tiếp tục thực hiện đề án phẩu
thuật ngoài giờ, điều dưỡng chăm sóc tại nhà, tổ chức cung ứng các gói đồ vô
trùng, dịch vụ giặt là, dịch vụ chuyển bệnh, đưa rước bệnh nhân, sản xuất nước
tinh khiết đóng chai
- Để giảm chi, cần phải thực hành tiết kiệm trong mọi mặt công tác bệnh
viện kể cả trong lĩnh vực điều trị. Tiếp tục thực hiện cơ chế khoán theo định mức
về sử dụng vật tư hành chính, vật tư tiêu hao, hoá chất, thuốc, văn phòng phẩm,
điện, nước, vật tư tiêu hao, hóa chất xét nghiệm , tiến tới khoán cả về công việc,
nhân sự; miễn giảm chi phí điều trị đúng đối tượng.
- Để chống thất thoát, Bệnh viện nhanh chóng hoàn chỉnh phần mềm quản lý
bệnh viện đảm bảo hệ thống kiểm soát chặt chẽ từ khâu tiếp nhận bệnh, kê toa, cấp
thuốc, quản lý thu viện phí, cấp giấy ra viện nhằm đảm bảo việc thu đúng, thu đủ,
quản lý tốt lượng hàng tồn kho giảm thiệt hại về tài chính.
Trên cơ sở tăng thu, giảm chi và chống thất thoát, hoạt động tài chính có
hiệu quả, kết quả thu chi sẽ có kết dư đảm bảo thu nhập tăng thêm, góp phần giải
quyết nhu cầu đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ, viên chức Bệnh viện được

nâng cao, phù hợp với mức thù lao tương xứng sẽ tạo điều kiện cho họ an tâm công
tác và gắn bó với Bệnh viện hơn.






22

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong suốt quá trình phát triền của xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến sự phát triển của sự nghiệp y tế bởi chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là
một trong những vấn đề lớn, trọng tâm của sự phát triển kinh tế- xã hội, thể hiện
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với quan điểm Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những năm qua, Bệnh viện Đa khoa Trung Tâm An Giang đã có
nhiều thành tựu đáng khích lệ trong công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân mà
Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã giao phó . Điều đó khẳng định được uy tín và hiệu quả
của Bệnh viện Đa khoa Trung Tâm An Giang . Thực hiện cơ chế tài chính theo
Nghị định 43/2006/NĐ-CP, từ nguồn thu viện phí, Bệnh viện đã đầu tư nhiều máy
móc, thiết bị chẩn đoán hiện đại phục vụ cho việc khám chữa bệnh không chỉ giúp
người bệnh mau khỏi bệnh mà còn rút ngắn thời gian điều trị giảm được chi phí
cho bệnh nhân. Bệnh viện cũng được sữa chữa nâng cấp, người bệnh tin tưởng đến
khám và chữa bệnh, từ đó trình độ chuyên môn của đội ngũ thầy thuốc được nâng
cao - đó chính là cái được lớn nhất của Bệnh viện An Giang khi chuyển sang mô
hình hoạt động tự chủ tự chịu trách nhiệm.
Trong bối cảnh đất nước ta còn khó khăn, ngân sách còn thấp, với việc phân
bố dàn trải ngân sách, Nhà nước chưa thể đạt được mục tiêu chăm sóc sức khoẻ

theo như mong muốn. Xã hội hoá sẽ góp phần giúp thay đổi được cơ cấu đầu tư
cho ngân sách đang còn hạn hẹp. Mặt khác, Nhà nước cần ban hành chính sách cải
thiện mức thu viện phí và mức thanh toán của cơ quan BHYT để hiệu quả khám,
chữa bệnh sẽ tăng, cải thiện thái độ phục vụ và Bệnh viện sẽ phát triển mọi mặt.
2. Những kiến nghị
- Trong thời gian tới, Nhà nước vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong đầu
tư cho các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, khám và điều trị bệnh cho nhân
dân.
- Nhà nước cần điều chỉnh mức ngân sách cấp cho Bệnh viện hàng năm; có
chính sách miễn giảm thuế trong việc huy động đầu tư cho Bệnh Viện.
- Nhà nước cần có chính sách ưu tiên kinh phí nhằm đảm bảo việc khám
chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, và các đối tượng chính sách.
- Nhà nước có chế độ ưu đãi đặc biệt với cán bộ y tế của Bệnh viện, nhằm
hạn chế dòng chảy nhân lực trong Bệnh viện đang có hiện nay: từ công ra tư, từ hệ
dự phòng sang hệ điều trị.
- Nhà nước cần điều chỉnh, sửa đổi mức thu viện phí cho phù hợp với mặt
bằng giá hiện nay, tính đúng, tính đủ các yếu tố biến phí, định phí, khấu hao tài
sản.
23

- Cơ quan BHYT cần thanh toán đầy đủ các khoản Bệnh viện đã chi cho
bệnh nhân, đảm bảo ngân sách của Bệnh viện không phải bù cho bệnh nhân các chi
phí nầy.
- Ngân hàng cần có cơ chế thông thoáng hơn trong thủ tục cho Bệnh viện
vay tín dụng đầu tư mua sắm thêm máy móc trang thiết bị.
- Nghị định 43/2006/NĐ-CP, mức trích tối thiểu 25% từ chênh lệch thu chi
để đầu tư phát triển (sau đó mới được trích thu nhập tăng thêm). Mức nầy là cao và
không phù hợp, vì vậy Nhà nước cần điều chỉnh cho phù hợp.
Với kiến thức vừa thu thập được qua khoá học Trung cấp Chính trị; đối
chiếu với thực trạng quản lý, sử dụng Ngân sách Nhà nước ở Bệnh viện; nhận xét

các thành tựu, các hạn chế và nguyên nhân của nó, tôi viết nên tiểu luận nầy, trong
đó có phần đề xuất các giải pháp.
Tôi hiểu rằng trình độ nhận thức và khả năng trình bày của mình rất hạn chế,
nên chắc chắn tiểu luận nầy còn nhiều thiếu sót, tôi mong được sự góp ý, bổ sung
của Thầy Cô, tôi xin ghi nhận và chân thành cảm ơn./.



















24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bệnh viện Đa khoa trung tân An Giang - Báo cáo tổng kết bệnh viện từ năm
2006 đến 2010

2. Bệnh viện Đa khoa trung tân An Giang - Báo cáo quyết toán tài chính từ năm
2006 đến 2010
3. Bộ chính trị - Nghị quyết số 46-NQ/TW: Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới
4. Bộ tài chính - Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 hướng dẫn thực hiện
nghị định 43/2006/NĐ-CP
5. Chính phủ - Nghị định 43/2006/NĐ-CP “quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập”
6. Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X
7. Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh An Giang
lần thứ IX, X
8. Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ Bệnh viện Đa
khoa trung tâm An Giang lần thứ VIII, IX
9. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Giáo trình trung cấp lí luận chính trị
-hành chính - Khoa học hành chính, tập 1
10. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Giáo trình trung cấp lí luận chính trị
-hành chính – Một số quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về kinh tế, văn hóa, đối ngoại

×