Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

chi NSNN cho kinh tế nông thôn ta có thể nói đến những lĩnh vực sau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.95 KB, 75 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
LỜI MỞ ĐẦU
J.M Keynes trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân đã chứng minh:
“Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng, từ đó tăng số lượng việc
làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất
tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thiết phải
được đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có thu nhập thấp,
tài nguyên hạn chế, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu như
nước ta. Chính vì vậy, trong những năm cuối của thập kỷ 90, đầu tư cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế mà nhất là đầu tư cho phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Những thành tựu đó đã chứng minh con
đường lùa chọn của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Để đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới lĩnh vực này cần được đầu tư nhiều
hơn nữa. Hiện nay nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có các
nguồn như : chi NSNN, vốn tự có của dân, vốn tín dụng, vốn từ ngoài
nước(ODA, FDI). Trong đó vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò rất quan trọng.
Vậy làm sao để nguồn vốn này được phân bổ một cách có hiệu quả đảm bảo
thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao đời sống của
nông dân trong thời kỳ kế hoạch 5 năm tới và cũng là để tạo nên cơ sở vững
chắc cho sự nghiệp phát triển lâu dài của đất nước. Đề tài này nghiên cứu trên
cơ sở thực trạng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ NSNN trong 5 năm từ
1996 đến năm 2000 và những “định hướng phát triển nông nghiệp nông
thôn trong 5 năm tới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải
pháp phân bổ vốn NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn
2001- 2005.”
Luận văn gồm có ba phần lớn:
Phần I: Vai trò của vốn đầu tư từ Ngân sách đối với sự nghiệp phát triển
nông nghiệp nông thôn.


1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Phần II: Đánh giá thực trạng đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước cho
phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000.
Phần III: Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước cho phát
triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2005.
Luận văn của tôi được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
TS. Ngô Thắng Lợi Trường ĐH KTQD và TS. Nguyễn Ngọc Tuyến cùng các
anh, chị ở Phòng Chính sách Tài chính Vĩ mô- Vụ Chính sách Tài chính
Bé Tài Chính.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
PHẦN I: VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VIỆT NAM .
Trong những năm qua, lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã
liên tục phát triển toàn diện với tốc độ khá cao, ghóp phần ổn định tình hình
kinh tế-xã hội. Nhờ có chính sách đầu tư đúng đắn cho nông nghiệp nông
thôn của Đảng và Nhà nước ta mà sản xuất lương thực không ngừng tăng lên
đã giải quyết vấn đề lương thực quốc gia, đưa nước ta lên vị trí thứ hai trên
thế giới về xuất khẩu gạo (3,5 triệu tấn gạo năm 2000). Bộ mặt nông nghiệp
nông thôn đã và đang có những thay đổi đáng mừng. Cơ cấu nghành nghề
nông nghiệp đã bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình
thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, thúc đẩy

chăn nuôi gia sóc, gia cầm. Việc trồng rừng bảo vệ rừng, khai thác và nuôi
trồng thủy sản được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều tỉnh, thành
phố được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chưong trình
xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, sức mua, khả năng thanh
toán của khu vực dân cư nông thôn đã và đang được Chính phủ tích cực triển
khai giải pháp kích cầu hiện nay.
Tuy nhiên, trên tổng thể lực lượng sản xuất nông nghiệp và nông thôn
nước ta còn bất cập so với yêu cầu sản xuất hàng hoá tập trung trên qui mô
lớn. Sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán manh mún và
chủ yếu vẫn là kinh tế hộ sản xuất nhỏ trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản… những ngành nghề phụ thuộc rất lớn vào
điều kiện thiên nhiên, đất đai, thổ nhưỡng… cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng còn thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch
chậm, lao động nông nghiệp vẫn dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập của người
nông dân thấp. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và nghèo, giữa
nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình trạng này một
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển nông nghiệp,
nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, một phần do việc
đầu tư của Nhà nước chưa thoả đáng. Vốn và tích luỹ của khu vực này rất
thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn từ
NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết nhằm
khắc phục những tồn tại nêu trên điều đó những thúc đẩy phát triển kinh tế-
xã hội ở nông thôn mà nó còn tạo điều kiện quan trọng để tiến hành cải cách
sâu rộng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác trong cả nước.
Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu quả ở một số nước trên
thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp họ coi đó

là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ lùa chọn
như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có thành tựu đạt
được từ các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trước đó.
Còn ở các nước Châu Á và các nước Đông Nam Á thì khi đầu tư cho phát
triển kinh tế của đất nước họ lại rất coi trọng vào đầu tư phát triển nông
nghiệp nông thôn như: Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Malaysia,
Indonexia… và vì thế họ đã đạt được những thành công lớn. Hiện nay các
nước này đều có nền nông nghiệp phát triển với tốc độ cao các sản phẩm nông
nghiệp có giá trị xuất khẩu rất lớn.
Trung Quốc là một nước khá thành công trong đầu tư phát triển nông
nghiệp nông thôn. Hình thức đầu tư chủ yếu là đầu tư xây dựng hàng ngàn xí
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, thu hót hàng trăm triệu lao độmg dư thừa.
Bằng chính sách này vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động nông
thôn vừa thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp và dịch vụ một cách nhanh chóng.
Đối với các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonexia trong
thời kì đầu nông nghiệp chiếm từ 70% tới 80% GDP nhưng hiện naycông
nghiệp và dịch vụ lại chiếm 80% GDP, trong đó riêng công nghiệp chiếm tới
65% chủ yếu là chế biến nông lâm thuỷ sản. Ở Thái Lan đầu tư phát triển
nông nghiệp, nông thôn là tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là
thuỷ lợi và giao thông nông thôn. Độ dài đường giao thông nông thôn ở Thái
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Lan đã tăng từ 10.400km năm 1960 lên 28.200km năm 1980. Chất lượng các
công trình giao thông nông thôn ở Thái Lan được đánh giá là tốt nhất trong
khu vực. Thái Lan cũng đã tập trung vào cơ giới hoá nông nghiệp, cụ thể là tỉ
lệ đất nông nghiệp được cơ giới hoá tăng từ 14,4% năm 1976 lên 19,6% năm
1986. Các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp được trang bị thay thế sức
kéo của trâu, bò. Những thành công của Thái Lan trong nông nghiệp đã chứng

tỏ họ lùa chọn con đường là đúng đắn. Hiện nay Thái Lan là nước xuất khẩu
gạo lớn nhất trên thế giới với chất lượng gạo rất tốt, ngoàI ra các mặt hàng
chế biến từ nông, lâm, hải sản của Thái Lan cũng đều có mặt trên thị trường
quốc tế.
Hay như Đài Loan là đất nước nhỏ bé nhưng được coi là nước có tốc độ
phát triển kinh tế rất cao. Đài Loan được đánh giá là đất nước thành công nhất
về nông ngiệp. Họ đã huy động tiềm năng từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nước đầu tư vào nông nghiệp, thông qua việc sử dụng các công nghệ
hiện đại để tạo ra các hoạt động sản xuất va dịch vụ thu hót được lao động dư
thừa trong nông nghiệp. Mặt khác Đài Loan đã chuyển các xí nghiệp công
nghiệp về nông thôn, tích cực đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
nông thôn, tạo ra điều kiện cho lao động nông thôn đễ dàng chuyển từ sản
xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp mà vẫn không dời khỏi nông
thôn.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế trong nước và kinh nghiệm của các nước
trong khu vực có đặc điểm tự nhiên gần giống ta, Đảng chủ trương lấy nông
nghiệp nông thôn làm nền tảng để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền nông
nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào
đầu tư các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ cuối cùng
chúng ta đã không thành công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của
các ngành kinh tế khác. Ở giai đoạn sau khi chóng ta nhìn nhận lại kết quả đạt
được thì thấy rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho
các ngành là không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi
thế để tận dụng được những lợi thế này ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
thế rất lớn về đất đai, điêù kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không
được quan tâm đầu tư đúng mức. Nhìn ra các nước trong khu vực đặc biệt là

các nước Đông Nam Á đã thực hiện thành công trong việc xác định nông
nghiệp nông thôn làm mòi nhọn để đầu tư phát triển đất nước thì chúng ta tin
tưởng rằng sự lùa chọn của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn.
Thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn chủ yếu đầu tư phát
triển khoa học công nghệ như công nghệ hoá học, sinh học, cơ điện năng ứng
dụng vào công tác trồng trọt, chăn nuôi gia sóc, gia cầm. Đồng thời nâng cao
thời gian cũng như hiệu quả sử dụng đất tạo điều kiện tăng sản lượng nông
lâm ngư nghiệp. Bên cạnh đó đầu tư phát triển các ngành khác ghóp phần tác
động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn như: công
nghiệp chế biến, ngành nghề truyền thống, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời
sống dân cư trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ đó giải quyết được vấn
đề lao động việc làm cho thanh niên nông thôn, tránh được hiện tượng di dân
tự do từ nông thôn ra thành thị. Đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân
thúc đẩy cải tạo nông thôn mới.
Ngoài ra khi kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh sẽ cung cấp nguyên liệu
sản xuất trong nước cho ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và xuất
khẩu. Đặc biệt là từ xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ nước ta không những có
điều kiện nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp. Và nó cũng ghóp phần giảm thâm hụt ngoại tệ ổn
định kinh tế vĩ mô.
Để làm rõ vai trò của việc chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp nông
thôn ta xét khía cạnh ngược lại. Giả sử chúng ta không quan tâm đến đầu tư
phát triển nông nghiệp nông thôn thì nước ta sẽ khó đảm bảo được an ninh
lương thực quốc gia vì: Nước ta có đến gần 80% dân số sống ở khu vực nông
thôn tức là phần đông dân số nước ta sống phụ thuộc vào nông nghiệp, hàng
năm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong khu vực nông thôn khá nhanh cho nên
nhu cầu về lương thực là rất lớn và tăng qua mỗi năm, trong khi đó diện tích
đất nông nghiệp không tăng đáng kể.Vậy nếu không tiến hành đầu tư phát
6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-

KH39
triển nông nghiệp để tăng năng suất cây trồng và vật nuôi thì sẽ không đáp
ứng được nhu cầu ngày càng tăng đó.
Mặt khác mặc dù nước ta là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới
nhưng chất lượng gạo chế biến xuất khẩu chưa tốt. Gạo xuất khẩu của ta chưa
đủ độ bóng, hạt gạo chưa thơm, chưa có độ dẻo như gạo của Thái Lan, Mĩ.
Nên thường bị Ðp giá do chóng ta chưa có công nghệ chế biến hoàn hảo,
giống lúa tốt để nâng cao chất lượng gạo, tăng tính cạnh tranh. Như vậy cần
phải đầu tư một công nghệ chế biến, đầu tư cho công tác nghiên cứu giống lúa
mới. Các loại nông sản xuất khẩu khác cũng như vậy.
Tóm lại: Qua phân tích những nội dung trên đây ta thấy rõ được vai trò và
sự cần thiết của đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước và càng khẳng định sự lùa chọn của Đảng ta
trong đưòng lối phát triển đất nước là hoàn toàn đúng đắn, vấn đề là chúng ta
phải tiếp tục đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng cho đầu tư nông
nghiệp nông thôn.
I. các nguồn vốn cơ bản cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
II.1. Nguồn vốn trong nước .
II.1.1. Nguồn vốn từ NSNN.
Huy động vốn có hiệu quả thông qua hoạt động của NSNN là điều kiện
quan trọng để giải quyết yêu cầu vốn cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư vốn theo
các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn. Huy động
vốn cho phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn, một mặt phải dùa
vào khả năng và tiềm lực tài chính của NSNN trung ương và địa phương trên
cơ sở thu đúng, thu đủ và mở rộng diện thu thuế, phí, lệ phí; khai thác tiềm
năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia, từ vay nợ, trong đó thu thuế và
phí là nguồn thu đặc biệt quan trọng. Mặt khác nguồn vốn đầu tư cho khu vực
nông nghiệp nông thôn chỉ được cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi từ
nguồn của NSNN trong các trường hợp:
- Các dự án đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng mục tiêu quốc kế dân

sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới nông thôn. Các dự án này Bộ
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ uỷ nhiệm thông báo danh mục hàng
năm . Thông thường các dự án này bao gồm: dự án thuỷ lợi, cải tạo đất,
đưa điện, nước sạch về nông thôn và tỉ lệ Nhà nước cấp phát vốn từ 30%-
40% tổng vốn dự án.
- Hàng năm các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn ưu
đãi. Nguồn vốn này được Bộ Tài chính và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
chuyển vốn sang các NHTM quốc doanh để cho vay với lãi suất ưu đãi
trong các lĩnh vực trọng điểm hoặc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến
khích.
- Các dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định, nhưng hệ thống NHTM
đầu tư vốn toàn bộ. Trường hợp này các đối tượng thực hiện dự án được
hưởng lãi suất ưu đãi, chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất cho vay
trung và dài hạn của Ngân hàng được NSNN cấp bù.
Có thể nói nguồn vốn từ NSNN cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi trong
các trường hợp trên đã ghóp phần tích cực trong việc thúc đẩy kinh tế nông
nghiệp phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, song nguồn vốn
này có nhược điểm là cấp phát, giải ngân chậm, chưa đáp ứng yêu cầu vốn
theo tiến độ thực hiện các dự án, nên ở mỗi mức độ nhất định, đã hạn chế việc
phát huy tác dụng của vốn NSNN. Trong thời gian tới, để tăng cường sử dụng
một các có hiệu quả và khai thác nguồn vốn từ NSNN, các dự án khả thi theo
các chương trình kinh tế phải được xây dựng và công bố ngay từ đầu năm để
làm cơ sở cho việc phân bổ, cấp phát chuyển vốn cho các NHTM thực hiện
cho vay ưu đã trong năm kế hoạch.

II.1.2. Nguồn vốn tín dụng.
Trong các nguồn vốn đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở nông

thôn, có thể nói nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đổi mới nông thôn trên
các mặt: phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
khai thác tiềm năng về lao động đất đai, tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản
xuất hàng hoá, thị trường, thúc đẩy phát triển các quan hệ tiền tệ và hình
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
thành thị trường tài chính ở nông thôn; phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới bộ
mặt nông thôn thu dần cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Nguồn vốn cần thiết để đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là rất lớn.
Trong đó vốn tín dụng Ngân hàng chiếm tỉ trọng đáng kể, đặc biệt là vốn
trung và dài hạn cho các dự án kinh tế-xã hội phát huy hiệu quả trong tương
lai. Chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP ngày 2/3/1993 về chính sách cho
hộ sản xuất vay để phát triển nông-lâm-ngư-diêm nghiệp và kinh tế nông thôn
với nội dung cơ bản sau:
- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được giao
nhiệm vụ chủ yếu cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp.
- Các hộ sản xuất nông-lâm-ngư-diêm nghiệp được vay vốn trực tiếp tại
ngân hàng. Hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp trong giai đoạn
nàybao gồm cả hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh trong các lĩnh vực trên và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
- Các tổ chức tín dụng cho vay bổ sung vốn chủ yếu là ngắn hạn, đồng
thời, căn cứ vào tính chất và khả năng nguồn vốn, dành một tỉ lệ thích
hợp để cho vay vốn cố định, thời hạn dài hơn.
- áp dụng lãi suất không bao cấp, theo cung cầu thị trường.
Tuy nhiên để mở rộng vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp
nông thôn, khắc phục những vướng mắc của Nghị định trên Ngân hàng Nhà
nước đã xây dựng dự án trình Chính phủ ban hành quyết định số
67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ với nội dung sau:

Về huy động nguồn vốn : Ngân hàng tự huy động vốn; NSNN hỗ trợ; vay
của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài.
Về đối tượng : Chi phí sản xuất cho trồng trọt, chăn nuôi như : vật tư,
phân bón cây giống, con giống, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh… chi phí nuôi
trồng thửy sản, chi phí sản xuất muối, làm thuỷ lợi nội đồng, tiêu thụ chế biến
và xuất khẩu nông, lâm, thuỷ hải sản; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn; mua sắm công cụ máy móc,
thiết bị phục vụ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn như: máy cày, máy
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
tuốt lúa, máy xay sát; phát triển các cơ sở hạ tầng nông thôn như : điện,
đường giao thông, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường…
Về bảo đảm tiền vay: Cho phép áp dụng mức cho vay đến 10 triệu đồng để
đầu tư vào các đối tượng nêu trên đối với các hộ gia đình mà không phải thế
chấp tài sản, chỉ nép kèm đơn xin vay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Mới đây, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ , mức cho phép vay
không có bảo đảm bằng tài sản được nâng lên đến 20 triệu đồng đối với hộ
gia đình, chủ trang trại ; nâng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
đến 50 triệu đồng đối với các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân vay vốn để sản
xuất giống thuỷ sản.
Ngoài ra Chính phủ còn đưa ra một số chính sách tín dụng khác như chính
sách về lãi suất tiền vay nhằm khuyến khích các hộ nông dân vay vốn đầu tư
cho sản xuất nông nghiệp bởi đây là cách tốt nhất giúp đỡ cho các hộ nông
dân tự làm giàu thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển.
II.1.3. Nguồn vốn tích luỹ từ bản thân nội bộ nông nghiệp và nguồn từ
các đơn vị kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta đến nay về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản
xuất nhỏ, nhưng lại được coi là nguồn tích luỹ vốn ban đầu quan trọng cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nghĩa là không phải chỉ cho sự phát

triển của bản thân nông nghiệp, mà còn cho sự phát triển công nghiệp và một
số ngành kinh tế quốc dân khác. Phải chăng đây là gánh nặng quá sức đối với
nền nông nghiệp Việt Nam ? Thật ra, không nên chỉ nhìn vào đại lượng tuyệt
đối về sự đóng ghóp của kinh tế nông thôn vào NSNN để đánh giá khả năng
tích luỹ cho đầu tư và phát triển. Việc đánh giá vai trò của nông nghiệp và
nông thôn trong tích luỹ vốn không phải chỉ ở chỗ bản thân chúng tạo được
lượng tích luỹ là bao nhiêu, mà còn ở chỗ chúng tạo điều kiện cho các ngành
kinh tế khác, tạo ra tích luỹ như thế nào và sự phát triển của chúng đem lại sự
ổn định về kinh tế-xã hội của đất nước ra sao.
Về nguyên tắc, để có tích luỹ và không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư
phát triển cần tạo ra mức năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Song,
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
năng suất lao động trong ngành kinh tế nông thôn lại phụ thuộc vào nhiều
nhân tố: cơ cấu kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, tổ chức sản
xuất và lao động, trình độ thành thạo của lao động, điều kiện tự nhiên. Do đó
để tăng năng suất lao động trong các ngành kinh tế nông thôn, phải giải quyết
đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau mang tính tổng hợp và tuỳ thuộc vào điều
kiện cụ thể của từng vùng.
Tuy nhiên thực tế mà nói, nguồn vốn tích luỹ từ trong nông nghiệp nông
thôn chiếm vai trò rất quan trọng bởi từ trước khi có chính sách đầu tư thích
đáng của Nhà nước bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn tín dụng thì nguồn
này là nguồn vốn chính trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
Đối với nguồn vốn đầu tư từ các đơn vị kinh tế nông nghiệp, đây là nguồn
vốn đầu tư chủ yếu là của các đơn vị kinh doanh chế biến nông sản. Các đơn
vị này đầu tư dưới hình thức là bỏ vốn ra mua giống mới có năng suất cao, có
chất lượng tốt về bán cho người nông dân sau đó mua lại sản phẩm đầu ra.
Hay hình thức đầu tư khác là mở líp dạy kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi
mới cho nông dân để họ tự sản xuất để tạo ra sản phẩm… Như vậy đây cũng

là nguồn vốn quan trọng cho phát triển nông nghiệp nông thôn bởi nó góp
phần thúc đẩy sản xuất nâng cao đời sống người dân nông thôn.
II.2. Nguồn vốn ngoài nước.
II.2.1. Nguồn vốn ODA
Nguồn vốn này do các Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và phi
Chính phủ cung cấp, hàng năm tăng lên đáng kể và nó ghóp phần không nhỏ
vào các thành tựu kinh tế-xã hội chung của cả nước trong đó có nông nghiệp
nông thôn. Nằm trong vốn tài trợ phát triển nguồn quan trọng nhất là vốn
ODA, trong đó vốn vay ưu đãi chiếm 3/4, được tập chung chủ yếu cho các dự
án phát triển nguồn nhân lực, phục hồi và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã
hội, cải tạo môi trường, tăng cường thể chế. Trong những năm qua, ODA
được sử dụng để cải tạo nâng cấp nhiều công trình quan trọng, đặc biệt là các
công trình ở vùng nông thôn, đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế.
11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Ngoài vốn ODA còn các khoản tài trợ phát triển khác thể hiện bằng các
khoản vay ưu đãi của Chính phủ từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như:
Quĩ tiền tệ thế giới(IMF), Ngân hàng thế giới(WB), Ngân hàng phát triển
Châu á(ADB), trong đó nhà nước chỉ định Ngân hàng đầu tư và phát triển và
một số Ngân hàng thương mại quốc doanh làm ngân hàng đại lý và ngân hàng
phục vụ có trách nhiệm đưa vốn vay đến người sử dụng, đến người đầu tư
cũng như theo dõi trả nợ, thu hồi nợ cho nhà nước. Nguồn vốn này trong
những năm qua chóng ta thu hót được và một phần đưa vào phát triển nông
nghiệp, nâng cấp hạ tầng nghề cá, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp, cải
thiện hệ thống tài chính nông thôn… Song trong quá trình sử dụng nguồn tàI
trợ phát triển, việc giải ngân diễn ra chậm chạp xuất phát từ nhiều lý do khach
quan và chủ quan, do đó không huy động được toàn bộ số vốn mà các nhà tài
trợ cho nước ta.


II.2.2. Nguồn vốn FDI.
Nguồn vốn này còn gọi là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, và là
nguồn vốn luôn có xu hướng tăng lên trong điều kiện kinh tế mở và phát triển
giao lưu quan hệ với các Chính phủ, các tổ chức kinh tế và các nhà kinh
doanh nước ngoài và được coi là quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy
động từ bên ngoài. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn
còn yếu và chưa phát triển, việc hình thành các khu công nghiệp tập trung,
khu chế xuất phục vụ cho phát triển nông nghiệp và đẩy mạnh ngành công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở khu vực là
biện pháp thúc đẩy tăng trưởng tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là biện
pháp thu hót vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bằng nhiều hình thức.
Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển năng lực chế biến nông sản, các dự
án tận dụng đất đai, đIều kiện tự nhiên để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả
và chế biến sản phẩm, các dự án nuôi trồng, khai thác kết hợp chế biến thuỷ
sản( đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long).
Ngoài hai nguồn vốn ODA và FDI còn có nguồn vốn vay từ các ngân hàng
nước ngoài. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh và hỗ trợ nguồn vốn huy
12
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
động trong nước, các Ngân hàng thưong mại ở nước ta thực hiện vay vốn của
các ngân hàng nước ngoài(có chú ý đến nguồn vốn trung và dài hạn) rồi sau
đó cho các tổ chức, các nhà đầu tư ở trong nước vay lại. Trước mắt các Ngân
hàng thương mại, trong đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn phải đi tiên phong trong việc thực hiện vay
vốn của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và tập trung rót
vốn cho nông nghiệp nông thôn.
I. Vai trò của nguồn vốn NSNN đối với phát triển nông nghiệp nông
thôn

III.1. Một số khái niệm về NSNN.
III.1.1. Khái niệm NSNN.
Mỗi một Nhà nước muốn duy trì được sự tồn tại và phát triển đều phải
có một nguồn vật chất nhất định để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước
và thực hiện cung ứng các dịch vụ công cộng như: các dịch vụ về an ninh
quốc phòng, về giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế, và các dịch vụ về quản lý
hành chính. Để có được nguồn vật chất này Nhà nước phải tạo nguồn thu từ
các đối tượng trong xã hội thụ hưởng các dịch vụ công cộng của nhà nước và
được đảm bảo bằng pháp luật của Nhà nước. Các nguồn mà Nhà nước qui
định được tập chung vào một quĩ tiền tệ duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước, và
chỉ những khoản chi nào thuộc nhiệm vô chung của Nhà nước mới được chi
ra. Quĩ tiền tệ này được gọi là quĩ Ngân sách Nhà nước(NSNN).
Vậy NSNN là một hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính của xã hội nhằm hình thành quĩ tiền tệ tập
chung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Mét khái niệm khác thì NSNN là một bản tường trình về kế hoạch chi tiêu
và trợ cấp tương ứng với khả năng thu của Nhà nước trong một khoảng thời
gian nhất định.
III.1.2. Cơ cấu chi tiêu của NSNN.
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Chi tiêu Ngân sách Nhà nước cho phát triển kinh tế-xã hội được chia thành
bốn phần chính, đó là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ và
chi dự trữ tài chính. Trong đó chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng chi của NSNN.
 Chi thường xuyên: bao gồm
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá,
thông tin, thế dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường

và các sự nghiệp khác.
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
- Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
- Chi cho các hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
- Chi cho các hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Chi cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
- Các chương trình quốc gia.
- Hỗ trợ quĩ bảo hiểm xã hội theo qui định của Chính phủ.
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
- Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp theo qui định của
pháp luật.
- Trả lãi tiền do Nhà nước vay.
- Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài.
- Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật.
 Chi đầu tư phát triển: bao gồm
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không
có khả năng thu hồi vốn.
- Chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp cổ phần liên
doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia
của Nhà nước theo qui định của pháp luật.
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
- Chi cho Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quĩ hỗ trợ phát triển đối với
các chương trình, dự án phát triển kinh tế.
- Chi dự trữ Quốc gia.
- Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.

 Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.
 Chi bổ xung quĩ dự trữ tài chính.
III.2. Nội dung chi NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn.
Trong những năm tài chính tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh
tế đất nước, Nhà nước ta sẽ phân chia các khoản chi theo tỷ lệ hợp lý. Từ sau
Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986 con đường lùa chọn là tập chung phát triển
nông nghiệp nông thôn tạo cơ sở vật chất cho công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Cho nên trong những năm gần đây phần NSNN dành cho nông
nghiệp và kinh tế nông thôn đã được chú trọng hơn so với thời gian trước. Và
càng đến những năm sau này mức chi cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn
càng tăng. Đi vào cụ thể ta thấy trong nội dung chi NSNN cho nông nghiệp và
kinh tế nông thôn có những nội dung sau.
III.2.1. Chi NSNN cho nông nghiệp.
Các khoản chi trực tiếp để phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nước
bao gồm các khoản chi như: chi cho công tác nghiên cứu khoa học về nông
nghiệp: Nghiên cứu phát minh ra các loại máy móc phục vụ sản xuất, tìm ra
các phương pháp sản xuất mới, nghiên cứu và ứng dụng các giống cây trồng,
vật nuôi mới vào sản xuất; chi cho công tác khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư; chi cho sự nghiệp trồng cây, gây rừng, phủ xanh đất trống đồi
núi trọc và công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng; chi cho công
tác duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa đê điều, đầu tư xây dựng đê điều và hệ thống
thuỷ lợi. Cụ thể như sau:
- Chi NSNN cho việc nghiên cứu, phát minh ra máy móc phục vụ sản xuất
nông nghiệp, nghiên cứu tìm ra và đưa vào sản xuất các loại giống cây
trồng, vật nuôi mới bao gồm các khoản chi như: Chi cho đội ngò cán bộ
làm công tác nghiên cứu: lương, thưởng, phụ cấp; chi cho các dự án
nghiên cứu; chi để mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39

nghiên cứu; chi cho việc sản xuất thí nghiệm các loại giống mới… Đây là
một trong những khoản chi rất quan trọng đối với sự phát triển nông
nghiệp vì thực chất khoản chi này ghóp phần phát triển sản xuất theo cả
chiều rộng và chiều sâu, vừa đảm bảo chất lượng của nông sản mà vẫn
tăng sản lượng nông sản sản xuất ra.
- Chi NSNN cho sự nghiệp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư bao
gồm: chi lương, thưởng, phụ cấp cho các cán bộ làm công tác khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chi để bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho
cán bộ như: chi kinh phí cho các líp học ngắn ngày, chi cho các hội thảo,
hội nghị chuyên đề. Khoản chi này nhằm nâng cao nghiệp vụ cho các cán
bộ làm công tác khuyến nông, lâm, ngư, giúp họ tiếp thu nhanh chóng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để áp dụng vào thực tế. Chi cho
công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân về các
giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, các phương pháp
sản xuất hiệu quả và các loại máy móc phục vụ sản xuất chế biến sản
phẩm nông nghiệp. Chi cho công tác tuyên truyền trên đài, báo, truyền
hình; chi in Ên các tài liệu, Ên phẩm; chi cho các điểm trình diễn kỹ
thuật, chi thao tác trình diễn, chi hỗ trợ về giống, phân bón, thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ thực vật, chi cho việc đưa giống mới vào sản xuất.
- Nội dung chi thứ ba được quan tâm là chi cho công tác trồng, chăm sóc,
bảo vệ rừng. Các khoản chi này nhằm tăng độ che phủ của rừng, bảo vệ
môi trường sinh thái, giảm tác hại của lũ lụt, hạn hán do nạn chặt phá
rừng bừa bãi gây ra. Hàng năm Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình
trồng rừng phòng hộ, rừng chắn cát, rừng ngăn lũ, rừng đặc dụng;
chương trình phủ xanh đất chống, đồi núi trọc; chương trình sử dụng bãi
hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển. Bên cạnh đó thông qua nguồn
kinh phí thường xuyên Nhà nước đã chi cho công tác bảo vệ, phòng cháy,
chữa cháy rừng. Đây là một nhiệm vụ chi quan trọng vì trồng mà không
bảo vệ thì vừa không giữ được rừng mà lại tốn rất nhiều tiền của của Nhà
nước. Chi cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng gồm các khoản chi

như: chi đảm bảo cho đội ngò kiểm lâm,; chi mua sắm thiết bị phương
16
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
tiện dùng cho công tác phong cháy, chữa cháy; chi xây dựng các đường
rãnh, kênh mương cản lửa, chòi canh hồ chứa nước, các trạm dự báo
cháy rừng; chi khắc phục hậu quả cháy rừng nếu có; chi để khen thưởng
cho các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ rừng,
phòng cháy, chữa cháy rừng.
- Nội dung thứ tư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với phát triển nông
nghiệp nông thôn đó là chi xây dựng hệ thống đê điều (bao gồm cả hệ
thống đê biển và đê sông), xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp các
công trình thuỷ lợi như: xây dựng các hồ đập chứa nước lớn, vừa và nhỏ,
các cống tưới tiêu nước, các trạm bơm nước. Các công trình thuỷ lợi này
nhằm đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất ( đặc biệt trong những tháng
hạn), và tiêu thoát nước kịp thời trong mùa mưa bão.
Nhóm nội dung chi khác cũng tác động không nhỏ đối với hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Ví dụ như: chi công tác kiểm dịch động thực vật, chi cho
công tác thó y, chi cho hoạt động điều tra, xây dựng quy hoạch nông
nghiệp…
III.2.2. Chi NSNN cho phát triển kinh tế nông thôn.
Cùng với chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thì Đảng và Nhà
nước ta cũng rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế nông thôn. Do vậy ngoài
việc bảo đảm kinh phí đối với những nội dung chi có tác động tích cực đến sự
thay đổi diện mạo nông thôn như trên Nhà nước còn bố trí kinh phí thực hiện
hàng loạt các giải pháp khác với những nội dung chủ yếu như: chi xây dựng
cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, chi chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần
nông sang đa ngành, chi cho các chương trình định canh, định cư xây dựng
vùng kinh tế mới. Đề cập đến chi NSNN cho kinh tế nông thôn ta có thể nói
đến những lĩnh vực sau:

- Chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: giao thông nông thôn, nước sạch nông
thôn, vệ sinh môi trường, điện nông thôn, trường học, y tế, phát thanh, truyền
17
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
hình, bưu chính viễn thông và các công trình khác như: chợ, cửa hàng, sân thể
thao, nhà văn hoá…
Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông nông thôn gồm: xây dựng mới và
nâng cấp, duy tu, sửa chữa đường liên thôn, liên xã, liên huyện, các trục
đường lớn đến trung tâm xã, xây và nâng cấp các cầu, cống, nạo vét sông,
kênh rạch ở nông thôn.
Đầu tư xây dựng hệ thống dây dẫn cột điện nối liền các thôn, xã và truyền
tải điện từ trạm điện ở huyện, xã về vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đối với
nhiều vùng do đặc điểm địa hình phức tạp không thể hoặc chưa có điều kiện
xây dựng, trang bị hệ thống điện theo chuẩn qui định chung, Nhà nước đã
trang bị cho người dân các vùng đó các thiết bị pin năng lượng mặt trời, tạo
điện phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con.
- Chi NSNN cho phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội ở nông thôn như:
vệ sinh môi trường, nước sạch, trạm y tế, phát thanh truyền hình và bưu chính
viễn thông; Nhà nước đã quan tâm bố trí vốn xây dựng nhiều líp học, trạm y
tế; cải tạo ổn định hệ thống trường líp, bảo đảm không còn những líp học
được tạo dựng tạm thời bằng tre, nứa, lá…; xây dựng mới nhiều trạm thu phát
sóng các chương trình phát thanh, truyền hình quốc gia, trang bị, trang bị, hỗ
trợ các máy radio, máy thu hình màu đối với đồng bào khó khăn vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo… qua đó ghóp phần nâng cao dân trí và mức
hưởng thụ văn hoá của người dân nông thôn.
- Chi NSNN ghóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Trong cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta bộ phận nông dân sản xuất thuần
nông chiếm tới 80% số hộ nông dân đang sản xuất. Công nghiệp ở nông thôn

chủ yếu là công nghiệp chế biến các mặt hàng nông sản và sản xuất các công
cụ sản xuất nhỏ. Các dịch vụ chủ yếu là các dịch vụ sửa chữa. Đại bộ phận
các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn trình độ kỹ thuật còn
lạc hậu, qui mô vốn Ýt, số lượng lao động hạn hẹp. Để có thể phát triển ngành
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn Nhà nước cần phải đầu tư nhưng không
phải là đầu tư trực tiếp mà thông qua kênh tín dụng Nhà nước. Đối với sự
phát triển kinh tế nông thôn tín dụng Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng,
18
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
bằng các chương trình cho hộ nông dân vay vốn để sản xuất, Nhà nước đã
từng bước tạo ra được sự chuyển dịch đúng hướng của kinh tế nông thôn.
Ngoài sản xuất thuần nông các hộ gia đình đã chuyển sang mô hình sản xuất
kinh tế vườn, chăn nuôi qui mô lớn, khôi phục các nghề truyền thống… Từ đó
kinh tế của từng hộ gia đình nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung từng
bước đi lên.
- Chi trợ giá, trợ cước cho các mặt hàng nông sản chế biến trong nước. Tạo
điều kiện để các mặt hàng đó có thể xuất khẩu hoặc bán rộng rãi trong nước.
Chính sách này rất có ý nghĩa đối với công nghiệp chế biến ở nông thôn vì
trên thực tế người nông dân rất quan tâm đến đầu ra của sản phẩm và nếu chỉ
tiêu thụ sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô thì giá bán rất rẻ thậm chí không
đáng kể.
- Chi NSNN cho các chưong trình định canh, định cư, xây dựng vùng kinh
tế mới. Các khoản chi đó bao gồm: hỗ trợ về giống, kỹ thuật sản xuất để bà
con dân téc ổn định sản xuất không rời khỏi làng bản như trước đây. Hỗ trợ
cho các hộ đi xây dựng vùng kinh tế mới về cơ sở vật chất ban đầu khi họ đến
khai hoang và canh tác. Đây là chương trình kinh tế mang tính chất lâu dài
của Đảng và Nhà nước ta.
Việc Nhà nước thực hiện hàng loạt các chính sách, các chương trình nêu
trên nhằm tăng thêm tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn,

xây dựng thêm nhiều cơ sở chuyên sản xuất nhiều máy móc phục vụ sản xuất
nông nghiệp và những cơ sở chuyên cung cấp dịch vụ như: phân bón, các loại
giống cây trồng, vật nuôi… Như vậy sẽ ghóp phần tăng tỷ trọng chăn nuôi
trong sản xuất nông nghiệp và tăng tỷ trọng về giá trị cây công nghiệp, cây ăn
quả trong tổng giá trị trồng trọt.
Tóm lại: Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một lĩnh vực rất rộng bao
gồm nhiều hoạt động kinh tế-xã hội. Vì thế phạm vi chi của NSNN cho lĩnh
vực này rất lớn nhưng nó thực sự cần thiết vì nhà nước có quan tâm đầu tư thì
mới có thể phát triển mạnh được nông nghiệp nông thôn.
III.3. Vai trò của chi NSNN đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh
19
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
tế nông thôn.
Với chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước thông qua các
chính sách kinh tế để tác động đến các hiện tượng kinh tế-xã hội theo một
chiều hướng nhất định. Cũng với ý nghĩa như vậy chi NSNN đóng vai trò rất
quan trọng cho nông nghiệp nông thôn. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất: Chi NSNN có tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội nói
chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Thông thường chi NSNN cho các chương trình khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư Nhà nước đã tạo điều kiện để nông dân có thể ứng dụng những
tiến bộ kỹ thuật mới về giống cây, giống con, phân bón, thuốc trừ sâu… giúp
nông dân biết được những phương pháp gieo trồng chăm bón mới đem lại
hiệu quả cao hơn và chi phí thấp hơn. Từ đó năng suất và chất lượng nông sản
được cải thiện đáng kể. Nhà nước đã đầu tư rất lớn vào các công trình khoa
học mang tính ứng dụng thực tiễn của ngành nông nghiệp như: chương trình
nghiên cứu về giống lúa lai F1 với sản lượng 1388 tấn, sản xuất ngô lai F1 với
sản lượng 1791 tấn, chương trình nạc hoá đàn lợn, chương trình bông lai tiết
kiệm ngoại tệ nhập giống… Các chương trình này đem lại hiệu quả rất lớn về

thu nhập của bà con nông dân và cũng là hiệu quả về trình độ khuyến nông
của cán bộ khuyến nông và bà con nông dân.
-Thứ hai: Chi NSNN còn ghóp phần thiết lập một cơ cấu kinh tế cân đối
giữa các ngành và các vùng trong nền kinh tế.
Thông qua việc đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như: đường xá,
cầu cống, bưu chính viễn thông… Đặc biệt NSNN chi cho việc xây dựng cơ
sở hạ tầng ở nông thôn sẽ tạo sức hót cho các nhà doanh nghiệp đến đặt trụ sở
và hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì lúc này chi phí của họ được giảm thiểu
từ chi phí chuyên chở nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí về nhà ở
tiền nhà ở cho người lao động … Cũng nhờ đó mà Nhà nước giải quyết được
vấn đề việc làm, thu nhập cho người nông dân, và ghóp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn. Ngoài ra hàng năm NSNN còn chi rất nhiều tỉ đồng
cho việc di dân định canh định cư, xây dựng các vùng kinh tế mới. Chương
20
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
trình này nhằm phát triển kinh tế đến các vùng sâu, vùng xa và khai thác
những tiềm năng còn dồi dào của đất nước.
Thông qua chi NSNN cho việc tạo lập các quĩ bình ổn giá lương thực, trợ
giá , trợ cước cho một số mặt hàng nông sản. Nhà nước đã khuyến khích được
sức sản xuất trong nhân dân, tạo được sự gắn bó của người dân với đông
ruộng.
Còng nhờ có sự đầu tư của Nhà nước các thành tựu công nghệ sinh học
được áp dụng vào sản xuất ở nông thôn, thực hiện cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá
với những nội dung và mức độ thích hợp sẽ ghóp phần tăng năng suất lao
động nông nghiệp, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao.
- Thứ ba: Chi NSNN cải thiện môi trường văn hoá xã hội, tạo điều kiện
cho người nông dân tham gia các hoạt động văn hoá lành mạnh, khuyến khích
họ xây dựng gia đình văn hoá, làng xã văn hoá mới. Nâng tầm hiểu biết của
người nông dân góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước.

Tóm lại: Trong nền kinh tế bất cứ ngành bất cứ ngành kinh tế nào,khu
vực nào cũng đều cần phải có vốn để phát triển và ngành nông nghiệp nông
thôn cũng vậy. Với các nguồn như: nguồn vốn từ NSNN, nguồn vốn này từ
các hộ gia đình, nguồn viện trợ và hợp tác từ nước ngoài… Trong thời gian
này, khi nền kinh tế nước ta còn đang phát triển thì nguồn vốn đầu tư từ
NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Nhưng về lâu dài thì ta phải coi nguồn lực
từ trong dân là nguồn lực cơ bản. Để có thể huy động được một tiềm năng to
lớn về vốn trong nhân dân, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khai thác tiềm
lực từ trong dân để phát triển kinh tế. Các khoản chi của Nhà nước chỉ mang
tính chất thu hót và hướng dẫn cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vào
nông nghiệp nông thôn mà thôi. Sự thu hót hướng dẫn ở đây chính là việc tạo
ra cơ sở vật chất tốt, một hệ thống chính sách đồng bộ, tạo ra một hành lang
thuận tiện cho các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển kinh tế nông thôn.
21
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
PHẦN II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TỪ NGUỒN VỐN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 1996-2000.
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÀ NHU CẦU ĐẦU TƯ
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN THỜI
KỲ 1996-2000.
Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra. Trong đó mục tiêu phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất.
Mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ này là phát
triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia
trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm rau quả , cải thiện chất
lưỡng bữa ăn, gảim suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh
tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực,

chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng
nhanh đàn gia sóc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai
thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản
lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị
22
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
trường nông thôn tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh xây dựng, nâng cấp
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có
năng suất và có hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai, chuyển
sang các vụ có năng suất cao hoặc các cây khác có hiệu quả hơn. Nhân nhanh
những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng
sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Qui hoạch và phát triển một số
vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá trị cao. Dự kiến năm 2000, sản
lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người 360-370 kg.
Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu có hiệu quả
kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp
chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp vói chương trình phủ xanh
đất chống đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện
pháp thâm canh tăng năng suất. Còn đối với các ngành chăn nuôi,thuỷ sản,
lâm nghiệp cũng cần phải được tập chung phát triển cao. Đến năm 2000 nông
nghiệp (cả lâm nghiệp và thuỷ sản )chiếm khoảng 19-20% GDP.
Để thực hiện và đạt được các mục tiêu đề ra Nhà nước phải có chính sách
đầu tư hợp lý cho các ngành kinh tế nói chung và cho nông nghiệp nói riêng.
Dự tính trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã
hội phải đạt được 41-42 tỷ USD (tính theo mặt bằng giá 1995) trong đó đầu
tư từ NSNN (cả tích luỹ thu từ NSNN và một phần vốn ODA) chiếm 21%,
vốn tín dụng Nhà nước 7%, vốn doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư 24%; vốn
tự có của dân đầu tư khoảng 17%; còn lại 31%là vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài. Đầu tư cho nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 20% tổng đầu tư
xã hội. Riêng phần vốn Ngân sách Nhà nước thì phần vốn giành cho nông,
lâm,ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 22%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tổng
nhu cầu vốn cho phát triển Nông-Lâm-Ngư nghiệp như sau:
Biểu1: Tổng nhu cầu vốn cho Nông-Lâm-Ngư nghiệp
Đơn vị tính: tỷ đồng
1996 1997 1998 1999 2000
Tổng nhu cầu 12221 15420 1443,1 25815 29976,4
23
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Từ NSNN 3191,6 4133,5 5373,4 9563,2 13750
Từ nước ngoài 4888,5 6168 7777,2 8250,4 8553,3
NH&nội bé nt 4141,1 5118,5 6292,5 8001,4 8673,1
Nguồn: Bộ Kế hoach & Đầu tư

24
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Tạ Quang Long-
KH39
Biểu 2: Kế hoạch của Chính phủ về đầu tư vào nông nghiệp 1996-2000
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Đầu tư công
cộng
Đầu tư
của
DNNN
Đầu tư
của hộ GĐ
FDI TS %
Nông nghiệp 2,9 34,9 14,2 6,5 58,5 61,3%

Thuỷ lợi 14,5 0,0 0,0 0,0 14,5 15,2%
Lâm nghiệp 4,0 4,0 5,0 0,0 13,0 13,6%
Kho tàng xay
xát
0,5 4,0 5,0 0,0 9,5 9,9%
Toàn ngành 21,9 42,9 24,2 6,5 95,5 100%
Toàn
ngành(%)
23% 45% 25% 7% 100%
Toàn bé KH
đầu tư công
cộng
96,8 142,2 76,5 144,3 460,0
Toàn bé KH
đầu tư công
cộng(%)
21% 31% 17% 31% 100%
Nguồn: Ngân hàng thế giới, Thúc đẩy phát triển nông thôn Việt Nam, 1998
Ta thấy phần lớn các khoản đầu tư công cộng được rót vào các DNNN
mặc dù khu vực này kém hiệu quả hơn khu vực tư nhân. Kế hoạch đầu tư ủa
Chính phủ vào các Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước với khoảng 1,5 triệu
lao động đòi hỏi hơn 3 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, tức là gấp đôi số
tiền Việt Nam dự định giành cho 10 triệu hộ nông dân. ĐIều này góp phần
làm hạn chế các hoạt động công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN
1996-2000.
II.1. Phân tích tổng chi tiêu NSNN cho nông nghiệp nông thôn.
Đánh giá thực trạng đầu tư của NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn
là cơ sở để so sánh với mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông

thôn mà Đại hội Đảng VIII đặt ra đối với thực tế mà NSNN đã đầu tư. Từ đó
25

×