Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh trường…., huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.45 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức tốt đẹp cho con
người trong xã hội đã được các nhà khoa học xác định là một vấn đề mang
tính toàn cầu của thời đại, đồng thời là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự
sống còn và phát triển của nhân loại.
Trong công cuộc đổi mới xã hội hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn
cầu của nhân loại, khi yếu tố con người được đặc biệt coi trọng thì tiềm
năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần, đạo đức của con người ngày càng
được đề cao. Để làm nên sức mạnh tinh thần đó cần phải có sự kết tinh giữa
những giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Vì vậy, giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh nói riêng cần phải
được coi trọng đặc biệt.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng: Việc giáo dục đạo đức cho
học sinh tiểu học là hết sức cần thiết và phải được tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục, có hệ thống. Việc giáo dục đạo đức càng đặc biệt
quan trọng đối với học sinh tiểu học – lứa tuổi đang có sự tiếp nhận những
giá trị xã hội đầu tiên để chuyển hóa thành kinh nghiệm của mình. Do vậy,
các em dễ hấp thu những cái mới, cái tiến bộ, luôn bắt chước theo mọi
người về kiến thức, về lối sống, về phong cách đạo đức. Nổi bậ trong đó là
thái độ của các em về các phẩm chất cơ bản như tính trung thực, tính hồn
nhiên với mọi người trong học tập, trong cuộc sống… luôn biểu lộ thông
qua các hành vi, các quan hệ hàng ngày giữa các em với gia đình, nhà
trường và mọi người xung quanh. Nhưng đồng thời lứa tuổi này cũng dễ có
nhận thức lệch lạc, nếu không có sự định hướng giáo dục đúng đắn của nhà
trường, gia đình và xã hội.
Thực tiễn việc chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh của
nhà trường còn có nhiều hạn chế số lượng học sinh cá biệt vẫn không giảm
sau mỗi năm học ở các bậc học nói chung và ở bậc học tiểu học nói riêng.
Những bất cập trong công tác chỉ đạo còn nhiều hạn chế cần có biện
pháp tháo gỡ mà chưa có đề tại nghiên cứu nào được vận dụng đạt được kết


quả cao vì vậy chúng ta cần đến sự quan tâm đúng mức của nhà trường, gia
đình và xã hội.
Những năm vừa qua, việc giáo dục đạo đức cho học sinh nói cung và
học sinh tiểu học nói riêng đã được tiến hành trong các nhà trường song
vẫn chưa mạng lại kết quả như mong muốn. Vẫn còn một bộ phận học sinh
tỏ ra kém hiểu biết về các giá trị đạo đức, có hành vi, thái độ không phù
1
hợp với các chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Mơ hồ về truyền thống dân
tộc, chưa tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Chưa tích cực trong
học tập, rèn luyện đạo đức để trở thành con ngoan, trò giỏi. Nghị quyết lần
thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII đã nhận định: “Đặc biệt đáng lo ngại trong
một bộ phận học sinh, sinh viên… mờ nhạt về lý tưởng theo nối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước”. Điều đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó cần phải kể đến nguyên
nhân về những biện pháp quản lý giáo dục chưa phù hợp.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Biện pháp chỉ đạo giáo dục
đạo đức cho học sinh trường…., huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Xác định các biện pháp chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trường…, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác chỉ đạo của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh của hiệu trưởng trường…., huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
4. Giả thuyết khoa học.
Trong những năm qua đã có nhiều hiệu trưởng đề xuất các biện pháp

chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh tuy nhiên vẫn chưa có hiệu quả. Nếu
đề xuất và áp dụng được các biện pháp chỉ đạo mới hơn, phù hợp hơn có lẽ
sẽ đạt được kết quả tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học
sinh của hiệu trưởng trường…, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
5.2. Khảo sát thực trạng việc chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh
của hiệu trưởng trường,…, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất một biện pháp chỉ đạo góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh trường…, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
2
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6.1. Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác quản lý nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường…. có 02
CBQL và … giáo viên và …. Học sinh.
6.2. Địa bàn nghiên cứu: Trường…
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân
tích, tổng hợp các tài liệu về giáo dục đạo đức.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra,
đàm thoại, tổng kết kinh nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kê toán học.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG….
1. Một số khái niệm cơ bản.
Quá trình giáo dục đạo đức là một bộ phận của quá trình giáo dục nói
chung nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho con người.

Khi nghiên cứu về các biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức, chúng ta sẽ lần
lượt giải quyết một số khái niệm cơ bản sau:
1.1. Khái niệm đạo đức:
Theo quan điểm Macsxit, đạo đức là tổng hợp các nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình vì lợi ích xã hội, vì hạnh phúc con người trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân với tập thể và toàn xã hội. Vậy đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Nó là sự phản ánh
những quan hệ xã hội hiện thực được hình thành trên cơ sở kinh tế xã hội.
Đạo đức học nghiên cứu hình thái tư tưởng, tinh thần của đạo đức, nghiên
cứu nội dung khách quan của nó, là những quan hệ đạo đức hiện thực trong
đời sống đạo đức, những giá trị đạo đức sáng tạo ra không phải chỉ tồn tại
trong ý thức mà điều quan trọng là thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống. Trong đạo đức học, quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức và thực
tiễn đạo đức là những thành tố cấu thành nên đạo đức xã hội.
Quan hệ đạo đức: Là một bộ phận hợp thành của những quan hệ xã
hội tạo thành hệ thống những quan hệ xác định giữa con người với con
người, giữa cá nhân với xã hội. Nó xác định nội dung khách quan của
những nhu cầu đạo đức.
Ý thức đạo đức: Là ý thức về hệ thống những quy tắc chuẩn mực,
hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đang tồn tại. Trong đó xác
định những ranh giới của hành vi con người và những giá trị đạo đức của
nó. Trong ý thức đạo đức, ngoài những nội dung chuẩn mực còn bao hàm
những cảm xúc, tình cảm đạo đức của con người.
Thực tiễn đạo đức: Là quá trình và kết quả hiện thực hóa ý thức đạo
đức trong đời sống thực tiễn. Đó là quá trình hoạt động của con người trong
các lĩnh vực xã hội khác nhau, những cộng đồng xã hội khác nhau dưới ảnh
hưởng của những lý tưởng và niềm tin đạo đức.
4
Vậy đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, góp phần quan trọng xây

dựng mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội – chức năng
của đạo đức là giúp con người nhận thức, giáo dục và điều chỉnh cách suy
nghĩ và những hành vi phù hợp với những yêu cầu của xã hội. Nhà vậy mà
con người tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn mực trong xã hội.
Đạo đức còn có vai trò to lớn giúp con người sáng tạo hạnh phúc, giữ
gìn bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của toàn xã hội và những phẩm giá cao đẹp
của con người.
Những giá trị đạo đức cao cả có sức rung cảm sâu sắc làm thức tỉnh
những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con người. Chức năng của đạo đức
là giúp con người nhận thức, giáo dục và điều chỉnh các suy nghĩ, hành đạo
phù hợp với các yêu cầu xã hội, nhờ vậy con người tự giác tuân theo những
quy tắc, chuẩn mực trong xã hội.
1.2. Giáo dục đạo đức.
Từ khái niệm “Giáo dục là sự tác động có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất
và năng lực như yêu cầu đề ra”, có thể hiểu giáo dục đạo đức là quá trình
tác động một cách tích cực, có hệ thống đến nhận thức, thái độ và hành vi
của con người nhằm hình thành và phát triển tính tự giác, ý thức trách
nhiệm ở trẻ.
Bản chất của giáo dục đạo đức có thể hiểu là một quá trình tổ chức,
hướng dẫn, kích thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ
lĩnh hội được nội dung của các giá trị đạo đức, hình thành nên hệ thống thái
độ và hành vi của cá nhân, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và sự mong đợi
của xã hội.
Giáo dục đạo đức chính là làm cho người được giáo dục nhận thức
được kiến thức văn hóa ứng xử, kỹ năng ứng xử, hành vi ứng xử… Nhận
thức được các phẩm chất nhân cách thể hiện tính nhân văn như: lòng biết
ơn, ý thức trách nhiệm, giàu lòng nhân ái, vị tha, biết quan tâm chia sẻ và
giúp đỡ mọi người… là những giá trị đạo đức cao quý trong các mối quan
hệ của con người.

Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được
các giá trị chân chính, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những
gì đi ngược lại hay phản lại các giá trị đọ đức, dám đấu tranh để bảo vệ
những giá trị chân chính, đích thực của xã hội.
Có hành động thực tiễn thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm
lĩnh những tri thức về đạo đức, thể hiện ở sự quan tâm chia sẻ, giúp đỡ lẫn
5
nhau trong cuộc sống, có ý thức, tình cảm, trách nhiệm với bản thân, gia
đình và cộng đồng xã hội, đồng thời lên án thái độ, hành vi đi ngược lại với
những chuẩn mực đạo đức của dân tộc.
Việc giáo dục đạo đức cần được thực hiện theo quy trình đi từ nhận
thức, thái độ, hành vi.
1.3. Khái niệm về quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục
thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho
mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên quản lý
giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Khi đề cập vai trò của quản lý đã trích câu sau đây của Karl Marx
viết: “Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển bản thân, còn dàn nhạc thì cần
nhạc trưởng”. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công hợp tác lao
động. Quản lý, đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn và sửa sang, sắp xếp để
cho cộng đồng theo sự phân công hợp tác lao động được ổn định và phát
triển giáo dục là bộ phận của kinh tế - xã hội, hệ thống giáo dục, mạng lưới
nhà trường là bộ phận kết cấu hạ tầng xã hội, do vậy: quản lý giáo dục là
quản lý một loại quá trình kinh tế xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài hòa
sự phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kỹ thuật phục vụ các yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học,
có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà
trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục;
tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành
hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân đân, của đất nước.
Quản lý giáo dục (và nói riêng là quản lý trường học) là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
(hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo
dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ
trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống
6
giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số
lượng cũng như chất lượng.
1.4. Quản lý trong nhà trường.
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại: tác động của những chủ thể
quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường; tác động của những chủ thể quản
lý bên trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản
lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng
dạy, học tập, giáo dục của nhà trường.
Quản lý nhà trường cũng gồm các chỉ dẫn, quyết định của các thực
thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà trường như
cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng giáo dục nhằm định
hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực
hiện phương hướng phát triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao

gồm các hoạt động quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình
dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, quản lý
tài chính trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý
mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức.
Nói đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu
giáo dục thường nhấn mạnh đến sự đặc sắc trong quan điểm của Người về
vấn đề nhân cách, việc học tập, học hành để rèn luyện phát triển nhân cách
cho học sinh.
Người đã đưa ra hai phạm trù “Thiện – Ác” để từ đó kiến giải vấn đề
nhân cách. Người viết: “Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song
những công việc ấy có thể chia làm hai thứ, việc chính và việc tà”.
Làm việc Chính, là người Thiện
Làm việc Từ, là người Ác
Sự thiện, sự ác ở mỗi con người không phải là bẩm sinh mà là kết
quả của sự giáo dục. Giáo dục tốt đem lại sự thiện, giáo dục không tốt đem
đến sự ác làm cho con người bị tha hóa.
Hiền, dữ phải đâu tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
7
Người xác định: Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng… Lấy gương
người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con
người mới, cuộc sống mới.
Hồ Chí Minh khẳng định con đường học vấn là lý tưởng cao đẹp ở
mỗi con người để phát triển nhân cách, con người đó là rộng lớn, muốn đạt
được học vấn đích thực thì phải có đạo đức trong sáng, có sự chính tâm, sự
thành ý biết đem kết quả học tập của mình phục vụ cho hạnh phúc của nhân

dân.
Hồ Chí Minh đã xác định cho thanh niên học sinh việc rèn luyện
nhân cách theo các mục tiêu:
“- Yêu Tổ quốc: cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên
quyết chống lại.
- Yêu nhân dân: việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của
nhân dân, chúng ta kiên quyết chống lại
- Yêu lao động: ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại
- Yêu đạo đức: chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất
phát, hăng hái, cần kiệm; xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và
hành động.”
Người khuyên: “Khi ở nhà, phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ
về công việc. Ở trường phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập.
Phải đoàn kết giữa thầy và trò, làm cho trường minh luôn luôn tiến bộ. Ở
xã hội các cháu có thể giúp được nhiều việc có ích”.
3. Nội dung về quản lý giáo dục đạo đức trong nhà trường.
- Quản lý về mục tiêu:
Người hiệu trưởng xây dựng mục tiêu về giáo dục đạo đức cơ bản và
lâu dài cho nhà trường về:
+ Giáo dục đạo đức học sinh theo yêu cầu của nhà trường hiện nay
(chỉ đạo của Ngành, nội quy quy định của nhà trường, các hoạt động của
Đoàn – Đội).
+ Giáo dục đạo đức cơ bản cho học sinh trong học tập, lao động,
quan hệ gia đình, trong giao tiếp.
- Các yêu cầu:
8
Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu trong học là vấn đề rất cần thiết,
trước hết vì vị trí của các em là chủ nhân tương lai của đất nước, làm cho
các em trở thành những công dân tốt, đủ phẩm chất đạo đức và năng lực trí
tuệ gánh vác vận mệnh của dân tộc. Đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của

các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng.
Như vậy, việc giáo dục đạo đức cho các em trong nhà trường theo
các yêu cầu đạo đức: Trong học tập, trong lao động, quan hệ gia đình, xã
hội; giao tiếp và một số phẩm chất đạo đức cá nhân.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm:
Xác định được giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lý học
sinh, nắm bắt được tâm tư, hoàn cảnh của từng em trong lớp của mình, do
đó người hiệu trưởng cần quan tâm xây dựng đội ngũ này một cách có hiệu
quả, chọn lựa những giáo viên có trách nhiệm, nhiệt tình để cùng hiệu
trưởng giáo dục các em trong cả lĩnh vực kiến thức, đạo đức cho học sinh.
- Chỉ đạo việc dạy đạo đức thông qua các môn học văn hóa:
Thông qua con đường dạy học các môn: Đạo đức, Tiếng Việt, Âm
nhạc, Mỹ thuật. Mỗi môn học có vai trò khác nhau trong việc thực hiện nội
dung giáo dục đạo đức cho học sinh. Thông qua việc dạy các môn học, giáo
viên lồng ghép cung cấp kiến thức về đạo đức, nội dung giáo dục các em
những điều hay, ý đẹp qua các bài dạy.
Trường tiểu học chuẩn bọ cho các em những cơ sở ban đầu cần thiết
cho sự hình thành phát triển nhân cách người công dân. Vì vậy, một trong
những vấn đề quan trọng đặc biệt là làm cho học sinh dần dần hình thành
một cách tự giác những hành vi ứng xử theo chuẩn mực xã hội nhất định,
đồng thời đề phòng và khắc phục những sai lệch so với chuẩn mực quy
định. Đây là mục tiêu có tầm quan trọng to lớn vì nó đặt những viên gạch
đầu tiên hình thành ở các em cơ sở ban đầu nhân cách con người, con
người xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mặt khác giúp cho các em hình
thành cơ sơ ban đầu chống lại sự xâm nhập của những cái xấu từ bên ngoài.
- Tổ chức đánh giá xếp loại:
Việc đánh giá xếp loại đạo đức học sinh cần thực hiện theo đúng quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quá trình đánh giá cho các em được
khách quan, công bằng nhằm giúp cho học sinh cố gắng phấn đấu trở thành
“con ngoan, trò giỏi”.

- Xây dựng kế hoạch giáo dục học sinh cá biệt:
9
Có kế hoạch chỉ đạo cụ thể cho mỗi giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường và ngoài nhà trường phối hợp với nhau để tìm
hiểu nguyên nhân, lý do, vì sao em đó có những biểu hiện vi phạm nhiều
lần, không chịu sửa đổi, từ đó đề ra biện phát giáo dục sao cho phù hợp với
thực tế từng hoàn cảnh của các em đó, không nên cứng nhắc, giáo điều, bởi
vì các em là hiện tượng dặc biệt mà chúng ta cần lưu tâm để ý lâu dài.
4. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức từ xưa đến nay đã được
nhiều nhà giáo dục, nhiều triết gia, nhiều học giả quan tâm và khẳng định
“Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con
người, sức mạnh mới gánh được nặng và đi được xa” (Hồ Chí Minh). Đạo
đức là cái gốc trong nhân cách toàn diện của con người. Chính vì vậy, giáo
dục đạo đức cho mọi người là việc làm có tầm quan trọng đặc biệt và rất
cần thiết, vì đạo đức không tự có, nó chỉ hình thành qua con đường giáo
dục và tự giáo dục. Nhờ giáo dục đạo đức, con người trau dồi được những
phẩm chất tốt và không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Thực tế đạo đức
đã chứng minh người được rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt, có thể
không hình thành nhân tài, nhưng nhất định sẽ hữu ích trong cuộc sống.
Người có tài nhưng thiếu đức, chẳng những khó thành công trong cuộc
sống mà có khi trở thành kẻ phá hoại. Bác Hồ chúng ta từng dạy “Có tài mà
không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm gì cũng
khó khăn”. Nhất là trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, nhiều giá trị
đạo đức đang có nguy cơ bị mặt trái của cạnh tranh và cơ chế thị trường
làm băng hoại thì giáo dục đạo đức cho mọi người nói chung cũng như học
sinh tiểu học nói riêng không chỉ là vấn đề trong nhà trường mà cả xã hội
cũng quan tâm.
Như vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và cho học sinh
tiểu học nói riêng là cung cấp bồi dưỡng cho trẻ có cơ sở đạo đức, đó là

hình thành con người luôn tôn trọng người khác, con người luôn phấn đấu
bảo vệ, xây dựng một nền văn hóa giàu tính con người, một xã hội và một
đất nước giàu mạnh, hạnh phúc và bình đẳng.
Vai trò của nhà trường trong việc phối hợp với gia đình và xã hội.
Nhà trường giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp với gia đình và xã hội
để thực hiện mục tiêu giáo dục. Để thực hiện việc giáo dục đạo đức cho học
sinh đạt hiệu quả, đây là việc làm đòi hỏi từng giáo viên chủ nhiệm lớp
cũng như cách phối hợp các giáo viên khác trong nhà trường và thực hiện
đầy đủ theo nghĩa của nhà sư phạm là có thật sự “Lương tâm và trách
nhiệm” thì mới có thể làm được.
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH TRƯỜNG …., HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH.
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu.
* Đặc điểm tình hình địa phương:
Trường…, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là một trường nằm xa
trung tâm huyện là một xã đặc biệt khó khăn. Địa bàn rộng, dân cư không
tập trung xã được chia thành ba khu vực theo sự phân bố của dân cư,
trường…. được quản lý học sinh của 5 xóm. Quy mô trường nhỏ với 7 lớp
học với số học sinh là 160 em, nhà trường là cửa ngõ của xã, là nơi tiếp
giáp với khu dân cư của tỉnh………..
…………..
* Về phía nhà trường:
Nhà trường có tổng số 14 cán bộ giáo viên, trình độ của giáo viên
đều đạt chuẩn và trên chuẩn (trình độ từ trung cấp trở lên). Có 2 đồng chí
đã có bằng đại học, 6 đồng chí có bằng cao đẳng và một số đang tiếp tục đi
học đại học và cao đẳng. Phần đông cán bộ giáo viên của nhà trường rất
nhiệt, có năng lực và có tinh thần trách nhiệm cao. Nhiều đồng chí đã đạt
danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh, cấp huyện.

Những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo: Phòng
GD&ĐT Thuận Thành, UBND xã đã có những bước phát triển mới, cơ sở
vật chất ngày một khang trang và các phong trào hoạt động của nhà trường
ngày càng sôi nổi và đi vào chiều sâu. Vì vậy kết quả học tập và giáo dục
học sinh ngày một nâng cao.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế xã hội, của các tệ
nạn xã hội đã có nhiều ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Mặt khác do phương pháp giáo dục của giáo viên còn chậm đổi mới chưa
phù hợp với đặc điểm nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Nhiều giáo
viên chưa có phương pháp giáo dục đạo đức cũng như tổ chức các hoạt
động giáo dục phù hợp với lứa tuổi học sinh nhất và nhất là những học sinh
hư. Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tỷ lệ học sinh
chăm học chưa nhiều, kết quả học tập của học sinh còn thấp.
2.2. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trường….
11
2.2.1. Kết quả xếp loại đạo đức của học sinh được thống kê trong 3
năm lại gần đây cho thấy:
Xếp loại đạo đức năm học 2007-2008
Khối Sĩ số
Thực hiện đầy đủ Thực hiện chưa đầy đủ
TS % TS %
Tổng cộng
Xếp loại đạo đức năm học 2008-2009
Khối Sĩ số
Thực hiện đầy đủ Thực hiện chưa đầy đủ
TS % TS %
Tổng cộng
Xếp loại đạo đức năm học 2009-2010
Khối Sĩ số
Thực hiện đầy đủ Thực hiện chưa đầy đủ

TS % TS %
12
Tổng cộng
Qua các bảng tổng hợp, xếp loại đạo đức học sinh nhiều năm qua
cho thấy chúng ta giáo dục đạo đức theo kiểu quan liêu, giáo điều. Nội
dung giáo dục nào cũng có nhưng lại chưa quan tâm đầu đủ đến phương
thức giáo dục, hình thức giáo dục phù hợp. Trong giáo dục đạo đức cho học
sinh, các em phải được tôn trọng thực sự, phải từ bỏ cách giáo dục áp đặt,
nhồi nhét, khô cứng. Hình ảnh người thầy ít nhiều bị lu mờ trong nền kinh
tế thị trường đầy biến động hết sức phức tạp, nhiều giáo viên xem nhẹ lòng
yêu nghề, chưa chú trọng đến việc nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo,
tấm gương hết lòng vì học sinh thân yêu. Chúng ta chú trọng phòng chống
tội phạm nhưng công tác phòng ngừa còn yếu, nhất là phổ biến pháp luật,
về việc nhân các điển hình tốt để lấn át cái xấu. Các em còn tụ tập tại các
điểm vui internet, chưa có điểm vui chơi giải trí lành mạnh cho các em.
Trong trường học chúng ta còn nặng nề dạy chữ, nhè về dạy người, nhiều
giáo viên lên lớp chỉ lo truyền giảng kiến thức chuyên môn, không có thì
giờ để uốn nắn, chỉnh sửa những sai trái của học sinh. Chương trình giáo
dục đạo đức còn ôm đồm nặng nề, xem nhẹ kỹ năng ứng xử sống – kỹ năng
ứng xử hàng ngày cho học sinh.
2.2.2. Thực trạng biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh.
* Thực trạng nhân thức thái đạo và hành vi của học sinh về các giá
trị đạo đức:
Để có những biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh có
hiệu quả cao, tôi đã tiến hành khảo sát trình độ nhận thức, thái độ và hành
vi của học sinh về các chuẩn mực đạo đức.
Qua khảo sát kết quả thu được như sau:
- Về nhận thức: Có 92% học sinh nhận thức đúng về các chuẩn mực
đạo đức.
- Về thái độ: 78% học sinh có thái độ đúng với các nội dung đạo đức.

- Về hành vi: chỉ có 67% số học sinh luôn thực hiện đúng các hành
vi đạo đức trong công việc và quan hệ với mọi người.
Để dễ so sánh sự chênh lệch giữa nhận thức, thái độ và hành vi của
học sinh về các giá trị đạo đức, tôi minh họa bằng sơ đồ sau:
13
* Thực trạng các biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh:
- Nhận thức về sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cho học sinh
kết quả cho thấy:
Có 98% giáo viên cho rằng việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong
giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và chỉ có 2% là cần thiết. Như vậy tất cả
giáo viên đều đánh giá cao việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Về mức độ thường xuyên tiến hành giáo dục đạo đức cho học sinh
thông qua dạy học và tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp kết quả được
thể hiện như sau:
+ 62% giáo viên thường xuyên giáo dục đạo đức cho học sinh trong
dạy học và tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
+ 33% giáo viên chưa thường xuyên giáo dục
+ 15% giáo viên không giáo dục
Sơ đồ minh họa:
14

×