Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Nội dung tập huấn ứng dụng CNTT trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 28 trang )

NỘI DUNG TẬP HUẤN
NỘI DUNG TẬP HUẤN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
DẠY HỌC 2010
DẠY HỌC 2010
Điện Biên, 16/10/2010
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
MỤC LỤC
1. VAI TRÒ CỦA CNTT&TT (ICT) 3
1.1. Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet 3
1.2. Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại 3
1.3. Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật 4
2. ỨNG DỤNG CNTT&TT TRONG VIỆC DẠY VÀ HỌC 4
2.1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay 4
2.2. Một số giải pháp và đề xuất ứng dụng CNTT trong dạy và học 5
2.2.1. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học 5
2.2.2. Tích cực sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy 7
2.3. Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy 9
2.3.1. Các phần mềm phổ thông 9
2.3.2. Các phần mềm chuyên dụng phục vụ cho giáo dục 10
2.3.3. Sử dụng phần mềm nguồn mở thay cho phần mềm bản quyền 11
2.4. Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến 12
2.4.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến 12
2.4.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo… 14
2.4.3. Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội 18
3. MỘT SỐ PHẦN MỀM TIÊU BIỂU PHỤC VỤ DẠY VÀ HỌC 20
3.1. Giới thiệu phần mềm Violet 20
3.2. Cài đặt và chạy chương trình 22
4. Giới thiệu một số website phục vụ công tác giảng dạy 23
4.1. Trang web đào tạo kỹ năng vi tính trực tuyến cho giáo viên 23


4.2. Các hệ thống Thư viện trực tuyến của công ty Bạch Kim 24
4.2.1. Hệ thống Thư viện tư liệu giáo dục () 24
4.2.2. Hệ thống Thư viện bài giảng điện tử () 25
4.2.3. Những lợi ích và xu hướng phát triển của các hệ thống mở 26
4.3. Trường học thời đại số: 27
Trang 2/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
NỘI DUNG TẬP HUẤN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
1. VAI TRÒ CỦA CNTT&TT (ICT)
1.1. Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng
ứng dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu
như công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền
thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi
email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn
bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức
ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới
trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các diễn
đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),…
1.2. Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người tham
gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới thật. Ví dụ
những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông qua máy tính nối
mạng để buôn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có thể
tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà không phải tốn một đồng học phí,

mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo lớp học thật. Một học sinh ở Hà Nội có
thể thông qua một hệ thống học trực tuyến để theo học một thầy giáo ở tận TP HCM.
Một thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh.
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia
sẻ với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát, có
thể chia sẽ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc phụ
huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các giáo
viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để xây
Trang 3/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người. Học
sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học tập và
thi cử.
1.3. Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có
nhiều ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng” (tên
một cuốn sách nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang tiếng Việt) nơi
mà tất cả mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị trí địa
lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới này, các hoạt động có thể diễn
ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người tham gia. Các kết quả mà thế giới ảo đạt
được có thể không bao giờ làm được trong thế giới thật (ví dụ xây dựng thư viện trực
tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới
thật, ví dụ thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không cần
nhân viên tiếp thị phải đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học, lớp học, đồ
dùng dạy học, v.v hay các diễn đàn hội thảo không cần hội trường, chi phí đi lại ăn
ở cho các đại biểu v.v
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể
thay thế, mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát

triển mạnh mẽ và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ đọc báo điện tử,
nghe nhạc trực tuyến ). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải
nhanh chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt
hậu.
2. ỨNG DỤNG CNTT&TT TRONG VIỆC DẠY VÀ HỌC
2.1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
Từ khá sớm, các trường học trên nhiều tỉnh thành đã bắt đầu đưa công nghệ
thông tin vào giảng dạy. Hầu hết các trường đều có phòng máy tính riêng. Tuy nhiên,
những trang thiết bị này thường chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn Tin
học (chỉ là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ,
quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ
phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của
công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm
Trang 4/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như: Toán,
Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một
tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo
trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng
giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn
Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất đông.
Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần
mềm. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục
vụ việc giảng dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ

dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các "Sách giáo khoa điện tử" không tỏ ra nổi trội
hơn SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó triển khai rộng được vì Internet ở
VN còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố
gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy với người chắc
chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay
các tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy
được hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để
xây dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về
sau được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo
viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng
tạo của giáo viên trong việc giảng dạy
2.2. Một số giải pháp và đề xuất ứng dụng CNTT trong dạy và học
2.2.1. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và e-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
Trang 5/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.

Như vậy, có thể thấy CBT và e-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên giá giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, trong tài liệu này, chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn
nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và e-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã
làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở
nhà hoặc ở nơi làm việc. E-learning
khai thác được tối đa sức mạnh của
thế giới Internet: khả năng phổ biến
rất cao (có thể 1 bài giảng hàng triệu
người học), hay có khả năng cập nhật
các thông tin mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi
lớp học phải là một phòng máy tính
nối mạng Internet, mỗi học sinh và
giáo viên phải có máy tính riêng và
những phần mềm chuyên dụng.

CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài
giảng điện tử, hầu như không có giao
tiếp thầy trò.
Trang 6/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông,
vì là ở đây, giáo viên không chỉ dạy
kiến thức mà còn phải theo dõi hướng
dẫn cách tư duy. Vả lại học sinh nhỏ
tuổi chưa đủ khả năng để làm chủ
được quá trình học tập của mình.
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học,
Sau đại học và những người đã đi
làm.
Đây là phương pháp mà các giáo viên
ở Việt Nam hay dùng phổ biến hiện
nay như dùng Powerpoint, Violet để
thiết kế bài giảng và dạy học dùng
máy chiếu. Những kết quả thu được là
rất đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam. Mới chỉ có một số trường
ĐH có hệ thống e-learning riêng như
ĐH Sư phạm HN, ĐH Xây dựng HN,

ĐH Cần Thơ,
Các công cụ tạo bài giảng cho CBT
gọi là các Authoring Tools như là
Powerpoint, Violet, Impress, Author-
ware
Các công cụ tạo bài giảng cho e-
learning thì tuân theo một chuẩn
chung để đưa lên mạng, trong đó nổi
tiếng nhất là chuẩn SCORM.
2.2.2. Tích cực sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy
Từ nhiều năm nay, ở các trường phổ thông cũng đã tương đối phổ biến mô
hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy
tính, máy chiếu (projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là
những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học
khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu
video ). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ
đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ
giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm
có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn
và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
trên giao tiếp thầy-trò, chứ không phải giao tiếp máy-người. Mặt khác, vì giáo viên là
người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
Trang 7/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với

các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương
pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng các bài giảng đóng gói đơn lẻ như sau thì dễ
thấy những mặt hạn chết như sau:
- Tính cứng nhắc trong nội dung bài giảng: Các bài giảng điện tử xây dựng
theo mô hình trên thường không thể ứng dụng trên quy mô rộng được. Một bài giảng
do giáo viên này thiết kế khó có thể áp dụng cho một giáo viên khác vì mỗi người sẽ
có một phương pháp giảng dạy khác nhau. Thậm chí với cùng một giáo viên nhưng
với những trình độ học sinh khác nhau thì cũng phải có những bài giảng khác nhau.
- Giá thành cao: Để có được những sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu
cầu của các giáo viên thì đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ thuật viên có đủ chuyên môn
và kinh nghiệm làm việc, phải đầu tư không ít thời gian cho các việc thiết kế, sản xuất
và bảo trì phần mềm. Do vậy, nếu tính theo giá thị trường thì giáo viên khó có thể đáp
ứng được, thậm chí đối với một trường học thì giá thành cũng là một vấn đề lớn.
- Sự áp đặt máy móc: Hiện nay, nhiều cơ quan trong ngành Giáo dục hay các
Sở Giáo dục địa phương cũng thường đầu tư xây dựng hoặc mua phần mềm hỗ trợ
giảng dạy, sau đó đưa về các trường để sử dụng. Tuy nhiên, giáo viên phải tâm đắc
với phần mềm nào thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả. Mọi sự áp đặt từ cấp trên
đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa. Phương pháp giảng dạy tốt nhất là do giáo viên trực
tiếp đứng lớp quyết định, không phải một người khác sáng tác ra để áp đặt cho họ.
Thậm chí việc áp đặt còn có thể gây ra hiệu quả xấu khi tạo cho người giáo viên tính
lười soạn bài, không phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy và cũng không nắm rõ
được những ý đồ sư phạm trong một bài giảng.
Chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để có thể
tự xây dựng các bài giảng cho riêng mình. Tuy nhiên, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại
ở mức độ sử dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay
Violet, cách tìm kiếm các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy
ảnh số, máy quét
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất
lượng trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng

một hình ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không
thể tự chỉnh sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho
đẹp hơn, biên tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài
Trang 8/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
thành tiếng Việt, v.v đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh
tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ
thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT”
khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên
giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ
như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần như
đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu quả
tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào
những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo. (xem thêm bài báo ở phần Phụ
lục “Thuyết trình bằng Powerpoint là một thảm họa” và ý kiến của một giáo viên về
Giáo án điện tử).
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được
rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt
để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim,
Flash, ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có
thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu
tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu
như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và đào
tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại (cung cấp các tư liệu giúp
giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
(cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên
học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).

2.3. Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính.
Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh,
bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các phần mềm chuyên
dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint,
Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v
2.3.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi
người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm
Trang 9/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft
Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo
cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn
giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng
Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi
phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể đưa
vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà
các đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ
hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường
ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội
như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư
điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư
điện tử rất dễ dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các
văn bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là
Unicode hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi,

giúp có thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font
chữ tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược
lại thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng
mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều
tính năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức
năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay dù
làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh chụp
hoặc hình vẽ).
2.3.2. Các phần mềm chuyên dụng phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, chúng tôi khuyến khích học và
sử dụng các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ
cho việc giảng dạy.
Microsoft Powerpoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn
để làm bài giảng điện tử. Powerpoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho
phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện đẹp.
Trang 10/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng
phần mềm Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các phần mềm
khác hiện đại hơn, dễ dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản quyền.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được
những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp
(sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương tự
như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt, dễ
dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức năng
thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các phần
mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh
động, các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng

và tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng
cũng phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để
tạo cả một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư
liệu rồi kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh.
2.3.3. Sử dụng phần mềm nguồn mở thay cho phần mềm bản quyền
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập, việc tôn trọng bản quyền đang trở nên một
vấn đề không thể không quan tâm. Hầu hết ở Việt Nam hiện nay chúng ta đang sử
dụng các phần mềm vi phạm bản quyền, thậm chí vi phạm mà cũng không biết rằng
mình đang vi phạm. Giá thành của một phần mềm là không nhỏ, thậm chí còn cao
hơn cả giá thành của chiếc máy tính. Vì vậy với một chiếc máy tính, tổng giá trị các
phần mềm trong đó có khi lớn gấp hàng chục lần giá trị của máy tính.
Trong vài năm gần đây, Chính phủ và các Bộ ngành cũng đã ra nhiều chỉ thị về
việc mua bản quyền các phần mềm trong các cơ quan hành chính Nhà nước, tuy nhiên
kết quả đạt được cũng chưa đáng kể là bao. Hiện nay, mới chỉ có một số doanh
nghiệp lớn của Việt Nam là có đủ tiềm năng để trang bị bản quyền phần mềm cho
đơn vị mình.
Vì vậy, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, vả lại chúng ta đã quá quen với việc
dùng phần mềm mà không trả tiền nên việc mua bản quyền các phần mềm, nhất là
phần mềm của nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không dễ thực hiện. Một trong
những giải pháp đơn giản cho vấn đề này là chúng ta tìm và sử dụng các phần mềm
miễn phí có tính năng gần tương tự như các phần mềm bản quyền kia. Ví dụ: Hệ điều
hành Linux thay cho Windows, bộ phần mềm Open Office của hãng Sun là miễn phí
và có thể sử dụng thay cho Microsoft Office, v.v
Trang 11/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành công văn số 12966/BGDĐT-CNTT
ngày 10/12/2007 về việc đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về CNTT trong đó có
đề cập đến việc sử dụng các phần mềm mã nguồn mở, .cụ thể 4 phần mềm cần thiết là
OpenOffice, FireFox, Thunderbird và UniKey.
2.4. Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến

Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu,
nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng
vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân
loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó
luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc
đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác
nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 3 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ việc giảng dạy như sau:
2.4.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã
hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham
gia xây dựng lên đến hàng triệu. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa
toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu
tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức
khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử
những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v
Trang 12/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Figure 2-1. Bài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Wikipedia
Một đặc điểm nổi bật của Wikipedia là khả năng liên kết giữa các bài viết, ví
dụ trong bài viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp, người dùng có thể click vào những
chữ màu xanh, ví dụ click vào chữ “quân đội nhân dân Việt Nam” thì sẽ chuyển đến
một bài viết về Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng ta có
thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt Nam
cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ Clip.vn
Trang 13/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Figure 2-2. Tìm kiếm phim tư liệu vụ ném bom Hiroshima trên YouTube

- Thư viện tư liệu giáo dục là trang web chia sẻ các tư liệu
phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang
web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là . Đây là
trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời
tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện tại
trang web đã có trên 250.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập mỗi
tháng, số lượng tài nguyên lên đến 100.000 bài giảng và giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ . Đây là trang
web tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT
với các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm
HN, Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên
lượng thông tin không lớn và không được cập nhật thường xuyên.
2.4.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo…
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng
,
, ,
Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của
nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó có thể quy tụ được tri thức toàn nhân loại về trong
Trang 14/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
lòng bàn tay. Có thể nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì chỉ cần cung cấp một
hoặc một số từ liên quan đến thông tin đó (gọi là các từ khóa), các máy tìm kiếm này
có thể cung cấp cho chúng ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang web và
nguồn tài nguyên khác nhau trên mạng Internet.
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên
mạng, vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm trang
web về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành thì chẳng
cần phải vào tận HCM để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao tác đơn giản là
có thể tìm được hàng chục bức ảnh.

Ngoài việc tìm kiếm thông tin là các bài viết, các công cụ tìm kiếm cũng có thể
cho phép tìm chuyên theo từng loại thông tin như tìm ảnh, tìm phim video, tìm các
file tài liệu, v.v…
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn
cẩm nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên thì
cũng nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết nối
Internet và sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm
có chất lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở thành
những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì
mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu
được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm trong giáo dục hiện
nay, nhất là giáo dục phổ thông.
Vài nét về Google:
Google (đọc là gu-gồ) đang là công cụ tìm kiếm thông tin hàng đầu trên thế
giới hiện nay, những người dùng Internet có lẽ không ai không biết. Tên "Google" là
một lối chơi chữ của từ googol, bằng 10
100
. Google chọn tên này để thể hiện sứ mệnh
của công ty để sắp xếp số lượng thông tin khổng lồ trên mạng. Ở Việt Nam, Google
vẫn đang chiếm vị trí số một trong thị trường tìm kiếm trên Internet.
Google là một trong 2 công ty CNTT hàng đầu thế giới hiện nay (bên cạnh
Microsoft), được sáng lập năm 1998 bởi 2 chàng kỹ sư trẻ tuổi Sergey Brin (người
Nga, sinh năm 1974) và Larry Page (người Mỹ, sinh năm 1973). Trong khi Mircosoft
làm bá chủ thị trường phần mềm ứng dụng trên máy tính thì Google lại làm chủ thế
giới Internet với rất nhiều các dịch vụ trực tuyến miễn phí, với hàng tỷ người dùng.
Trang 15/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Figure 2-3. Larry Page và Sergey Brin, 2 ông chủ của Google

Công cụ tìm kiếm của Google có có thể tìm kiếm các thông tin cực nhanh qua
hàng tỷ trang web chỉ trong vòng vài giây. Để làm được điều đó Google phải có một
đội ngũ nghiên cứu gồm hàng trăm Tiến sĩ để xây dựng những thuật toán tìm kiếm vô
cùng mạnh mẽ mà các công ty đối thủ hoặc các nhà khoa học trên thế giới cũng chưa
thể tìm ra. Giao diện của Google gồm trên 100 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, phiên bản
tiếng Việt của google tại hỗ trợ rất tốt cho việc tìm kiếm
các thông tin bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.
Figure 2-4. Tìm kiếm bài giảng điện tử trên Google
Trang 16/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Figure 2-5. Tìm kiếm tư liệu hình ảnh về nhà văn Victor Hugo
Vài nét về các trang web tìm kiếm của Việt Nam
Mặc dù Yahoo và Google đều có giao diện tiếng Việt, tuy nhiên nhiều công ty
ở Việt Nam cũng rất tích cực xây dựng các công cụ tìm kiếm riêng, đặc trưng cho
người Việt Nam, nhằm chiếm lĩnh vị trí của Google và Yahoo ở Việt Nam. Các trang
web tìm kiếm của Việt Nam như baamboo.com, socbay.com, xalo.vn đang được đầu
khá tư lớn để phát triển mạnh mẽ, với chiến lược tập trung hơn vào những loại thông
tin mà người VN ưa thích như tìm nhạc-phim, tìm sách-tài liệu, tìm đường đi, v.v…
Figure 2-6. Tìm kiếm thông tin về Sách giáo khoa trên socbay.com
Trang 17/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Figure 2-7. Tìm kiếm tư liệu trên xalo.vn
Figure 2-8. Tra từ điển bằng công cụ tìm kiếm baamboo.com
2.4.3. Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau.
Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện nay
là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Trang 18/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học

Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của
Bộ GD&ĐT, địa chỉ trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên
quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục,
các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Hình 2-9. Diễn đàn Mạng giáo dục của Bộ GD&ĐT
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ , là diễn đàn chuyên
cho giáo viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng
dụng CNTT trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các
mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là
trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm
trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của
nhau và gửi lên ý kiến của mình. Ở các nước châu Âu, các giáo viên sử dụng rất nhiều
blog phục vụ cho công việc của mình.
Blog hiện nay đang được giới trẻ ưa chuộng, thực tế thì cũng có nhiều điểm
chưa tốt, chưa kiểm soát được. Tuy nhiên, tùy từng mục đích sử dụng, các blog có thể
phát huy tính tích cực rất cao, mà đặc biệt nếu các giáo viên biết sử dụng để làm tốt
hơn cho công việc giảng dạy của mình.
Các địa chỉ mạng xã hội để tạo blog được dùng nhiều nhất ở Việt Nam là:
Trang 19/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
o : Là mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay vì tính dễ
dùng và nó gắn liền với chương trình chat Yahoo Messager.
o : Đây là mạng xã hội mà giáo viên và trí thức sử dụng
nhiều hơn do có giao diện đẹp và nhiều tính năng hấp dẫn.
Hình 2-10. Một blog của giáo viên tên Vân Chi trên My Opera
3. MỘT SỐ PHẦN MỀM TIÊU BIỂU PHỤC VỤ DẠY VÀ HỌC
3.1. Giới thiệu phần mềm Violet
Violet là phần mềm công cụ giúp cho giáo viên có thể tự xây dựng được các
bài giảng trên máy tính một cách nhanh chóng và hiệu quả. So với các công cụ khác,

Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình ảnh, chuyển
động và tương tác rất phù hợp với học sinh từ tiểu học đến THPT.
Violet được viết tắt từ cụm từ tiếng Anh: Visual & Online Lesson Editor for
Teachers (công cụ soạn thảo bài giảng trực tuyến dành cho giáo viên).
Tương tự phần mềm Powerpoint, Violet có đầy đủ các chức năng dùng để tạo
các trang nội dung bài giảng như: cho phép nhập các dữ liệu văn bản, công thức, các
file dữ liệu multimedia (hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình Flash ), sau đó lắp ghép
Trang 20/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
các dữ liệu, sắp xếp thứ tự, căn chỉnh hình ảnh, tạo các hiệu ứng chuyển động và biến
đổi, thực hiện các tương tác với người dùng Riêng đối với việc xử lý những dữ liệu
multimedia, Violet tỏ ra mạnh hơn so với Powerpoint, ví dụ như cho phép thể hiện và
điều khiển các file Flash hoặc cho phép thao tác quá trình chạy của các đoạn phim.
Violet cũng có các module công cụ dùng cho vẽ hình cơ bản và soạn thảo văn
bản nhiều định dạng (Rich Text Format). Ngoài ra, Violet còn cung cấp sẵn nhiều
mẫu bài tập chuẩn thường được sử dụng trong các SGK và sách bài tập như:
- Bài tập trắc nghiệm, gồm có các loại: một đáp án đúng, nhiều đáp án đúng,
ghép đôi, chọn đúng sai, v.v
- Bài tập ô chữ: học sinh phải trả lời các ô chữ ngang để suy ra ô chữ dọc.
- Bài tập kéo thả chữ / kéo thả hình ảnh: học sinh phải kéo thả các đối tượng
này vào đúng những vị trí được quy định trước trên một hình ảnh hoặc một
đoạn văn bản. Bài tập này còn có thể thể hiện dưới dạng bài tập điền
khuyết hoặc ẩn/hiện.
Ngoài các module dùng chung và mẫu bài tập như trên, Violet còn hỗ trợ sử
dụng rất nhiều các module chuyên dụng cho từng môn học, giúp người dùng có thể
tạo được những trang bài giảng chuyên nghiệp một cách dễ dàng:
- Vẽ đồ thị hàm số: Cho phép vẽ được đồ thị của bất kỳ hàm số nào, đặc biệt
còn thể hiện được sự chuyển động biến đổi hình dạng của đồ thị khi thay
đổi các tham số của biểu thức.
- Vẽ hình hình học: Chức năng này tương tự như phần mềm Geometer

SketchPad, cho phép vẽ các đối tượng hình học, tạo liên kết và chuyển
động. Đặc biệt, người dùng có thể nhập được các mẫu mô phỏng đã làm
bằng SketchPad vào Violet.
- Ngôn ngữ lập trình mô phỏng: Một ngôn ngữ lập trình đơn giản, có độ linh
hoạt cao, giúp người dùng có thể tự tạo ra được các mẫu mô phỏng vô cùng
sinh động.
Violet còn cho phép chọn nhiều kiểu giao diện (skin) khác nhau cho bài giảng,
tùy thuộc vào bài học, môn học và ý thích của giáo viên.
Sau khi soạn thảo xong bài giảng, Violet sẽ cho phép xuất bài giảng ra thành
một thư mục chứa file EXE hoặc file HTML chạy độc lập, tức là không cần Violet
vẫn có thể chạy được trên mọi máy tính, hoặc đưa lên máy chủ thành các bài giảng
trực tuyến để sử dụng qua mạng Internet.
Violet có giao diện được thiết kế trực quan và dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp và
phần trợ giúp đều hoàn toàn bằng tiếng Việt, nên phù hợp với cả những giáo viên
Trang 21/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
không giỏi Tin học và Ngoại ngữ. Mặt khác, do sử dụng Unicode nên font chữ trong
Violet và trong các sản phẩm bài giảng đều đẹp, dễ nhìn và có thể thể hiện được mọi
thứ tiếng trên thế giới. Thêm nữa, Unicode là bảng mã chuẩn quốc tế nên font tiếng
Việt luôn đảm bảo tính ổn định trên mọi máy tính, mọi hệ điều hành và mọi trình
duyệt Internet.
3.2. Cài đặt và chạy chương trình
Có thể download và cài đặt phần mềm Violet từ đĩa CD hoặc theo địa chỉ
website của công ty Bạch Kim:
Chạy chương trình Violet, giao diện chính của chương trình sẽ hiện ra như
hình dưới đây. Lưu ý khi gõ tiếng Việt, bạn phải tắt các bộ gõ như ABC, VietKey,
UniKey, để sử dụng chế độ gõ tiếng Việt của Violet.
Cấu trúc bài giảng
Giao diện bài giảng
Danh sách file dữ liệu

Hình 3-1: Giao diện chương trình Violet
Menu và các nút chức năng
Trang 22/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
4. Giới thiệu một số website phục vụ công tác giảng dạy.
4.1. Trang web đào tạo kỹ năng vi tính trực tuyến cho giáo viên
Địa chỉ website:
Hình 4-9. Giao diện của trang web đào tạo trực tuyến
Đến với trang web, các thầy cô sẽ có điều kiện nâng cao trình độ Tin học của
mình chỉ trong thời gian ngắn mà không phải trả bất kì chi phí gì. Đây là nơi tập hợp
rất nhiều những đoạn video hướng dẫn sử dụng các phần mềm và các dịch vụ trực
tuyến, bao gồm: công cụ soạn thảo bài giảng Violet, sử dụng Thư viện giáo dục, sử
dụng Macromedia Flash, tìm kiếm tư liệu trên Internet, đăng kí và sử dụng hòm thư
điện tử Yahoo, Gmail và sử dụng các phần mềm nguồn mở… Các thầy cô có thể theo
dõi cách thực hành và nghe hướng dẫn thông qua các đoạn video được biên tập công
phu và chu đáo, rất trực quan và có thể dễ dàng làm theo, ngay cả đối với những
người lần đầu sử dụng máy vi tính. Hơn nữa website còn kèm theo các tài liệu hướng
dẫn thực hành được trình bày ngắn gọn, dễ hiểu để giáo viên có thể tải về, in ra và sử
dụng như một cuốn cẩm nang vi tính cho mình.
Hầu hết các nội dung về các phần mềm và dịch vụ trực tuyến được đề cập
trong tài liệu này, các thầy cô đều có thể tiếp cận một cách rất dễ dàng bằng cách xem
các đoạn video ở đây và thực hành theo.
Trang 23/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Hy vọng, website sẽ là nơi tạo ra bước ngoặt cho các thầy cô trong việc sử
dụng vi tính để áp dụng vào giảng dạy nói riêng và cuộc sống nói chung. Với website
này, Công ty Bạch Kim mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển giáo
dục của nước nhà đồng thời giúp các thầy cô bước vào năm học 2008-2009, năm học
công nghệ thông tin do Bộ GD&ĐT phát động, một cách chủ động nhất.
4.2. Các hệ thống Thư viện trực tuyến của công ty Bạch Kim

4.2.1. Hệ thống Thư viện tư liệu giáo dục ()
Hình 4-10. Giao diện trang Thư viện tư liệu giáo dục
Bài giảng điện tử phải sử dụng nhiều tư liệu multimedia thì mới có thể phát
huy được hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học: sinh động, hấp dẫn, thể hiện
được nhiều kiến thức của bài học, giúp học sinh thích học, học nhanh, nhớ lâu, v.v…
Hiện nay, các bài giảng điện tử còn ít, chưa hay, thậm chí có thể phản tác dụng trong
dạy học, mà nguyên nhân chính là do việc tìm tư liệu còn rất nhiều khó khăn.
Giải pháp cho vấn đề này chính là Thư viện tư liệu giáo dục. Đây là một hệ
thống các tư liệu multimedia bao gồm: các mô phỏng, hình ảnh, đoạn phim, âm
thanh với nội dung thể hiện những phần kiến thức trong các bài học. Các tư liệu này
Trang 24/27
Phạm Tân Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
sẽ được lắp vào một bộ khung chương trình cùng với các lý thuyết, hướng dẫn và bài
tập để tạo thành một bài giảng điện tử có chất lượng cao.
4.2.2. Hệ thống Thư viện bài giảng điện tử ()
Hình 4-11. Giao diện trang Thư viện Bài giảng điện tử
Đây là hệ thống tập hợp rất nhiều các bài giảng mẫu do giáo viên các nơi đóng
góp. Các bài giảng được xây dựng bằng 4 định dạng phổ biến hiện nay là:
Trang 25/27
Giáo viên
Công cụ tạo
bài giảng
Thư viện
tư liệu
Bài giảng
điện tử
Học sinh
Gi
áo viên

×