Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ KBTB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 86 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 7
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ
KBTB 9
1.1.Khu bảo tồn biển 9
1.1.1. Khái niệm và phân loại 9
1.1.1.1. Khu bảo tồn 9
1.1.1.2. Khu bảo vệ biển 10
1.1.1.3. Khu bảo tồn biển 10
1.1.2. Mục tiêu KBTB 13
1.1.3. Tính cấp thiết của việc thiết lập KBTB 13
1.1.4. Một số trở ngại khi triển khai KBTB 15
1.2. Vấn đề quản lý KBTB 18
1.2.1.Hoạt động thiết lập và quản lý KBTB 18
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển trên thế giới 18
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển ở Việt Nam 19
1.2.2. Các mô hình quản lý KBTB 21
1.2.2.1. Mô hình quản lý theo ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng 21
1.2.2.2. Mô hình do cộng đồng địa phương quản lý 24
1.2.2.3. So sánh 2 mô hình 26
1.3. Các cách thức tiến hành đánh giá hiệu quả của 1 KBTB 27
1.3.1. Đánh giá theo tiêu chí kinh tế 28
1.3.1.1. Đánh giá thông qua chỉ tiêu kinh tế đơn thuần 28
1.3.1.2. Đánh giá thông qua chỉ tiêu kinh tế tổng hợp 29
1.3.2. Đánh giá theo tiêu chí xã hội 34
1.3.3. Đánh giá theo tiêu chí môi trường 34
1.4. Sự phù hợp khi sử dụng CBA làm công cụ phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế mô
hình quản lý KBTB 35
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ TẠI KHU BẢO VỆ HỆ SINH
THÁI BIỂN RẠN TRÀO 37


2.1. Tổng quan về KBVHSTB Rạn trào 37
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 37
2.1.1.1. Vị trí địa lý 37
2.1.1.2. Các vùng chức năng trong KBV 39
2.1.1.3. Khí hậu, thời tiết 40
2.1.2. Đặc điểm kinh tế- văn hóa- xã hội 40
2.1.2.1. Đất đai và sử dụng đất đai 40
2.1.2.2. Dân số, giáo dục và y tế 41
2.1.2.3. Các giá trị văn hóa- lịch sử 42
2.1.2.4. Các hoạt động kinh tế của cộng đồng địa phương 43
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên tại KBVHSTB Rạn Trào 44
2.1.3.1. Sinh vật Phù du 44
2.1.3.2. Động vật đáy 45
2.1.3.3. Rạn san hô 45
2.1.3.4. Cỏ biển 46
2.1.3.5. Rong biển 46
2.1.3.6. Cây ngập mặn 46
1
2.1.3.7. Nguồn lợi thủy sản 46
2.2. Thực trạng quản lý- khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại KBVHSTB
Rạn Trào 48
2.2.1. Thực trạng khai thác và sử dụng 48
2.2.1.1. Trước khi có dự án 48
2.2.1.2. Từ khi có dự án 49
2.2.2. Mô hình quản lý tại địa phương 49
2.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức 50
2.2.2.2. Về tài chính cho khu bảo tồn 53
2.2.3. Mục tiêu KBVHSTB Rạn Trào 53
2.2.4. Các hoạt động đã được triển khai tại KBVB Rạn Trào 54
2.2.5. Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện dự án 55

2.2.6. Đánh giá tính bền vững mô hình quản lý 55
CHƯƠNG III: ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÂN TÍCH KINH TẾ NHẰM ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ KBVHSTB RẠN TRÀO DO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ ĐỊA PHƯƠNG QUẢN LÝ
56
3.1. Nhận dạng vấn đề 56
3.2. Nhận dạng lợi ích, chi phí 57
3.2.1. Nhận dạng lợi ích 57
3.2.1.1. Lợi ích trực tiếp 57
3.2.1.2. Lợi ích gián tiếp 58
3.2.2. Nhận dạng chi phí 60
3.2.2.1. Chi phí trực tiếp 60
3.2.2.2. Chi phí quản lý và vận hành 60
3.2.2.2. Thiệt hại do giảm sản lượng ngành thủy sản 60
3.3. Đánh giá các lợi ích và chi phí của dự án 61
3.3.1. Tóm tắt lợi ích- chi phí 61
3.3.2. Đánh giá và ước tính các chi phí của dự án 62
3.3.2.1. Chi phí trực tiếp 62
3.3.2.2. Chi phí quản lý và vận hành 64
3.3.2.3. Chi phí cơ hội 64
3.3.3. Đánh giá và ước tính các lợi ích của dự án 65
3.3.3.1. Lợi ích trực tiếp 66
3.3.3.2. Lợi ích gián tiếp 72
3.4. Phân tích các chỉ tiêu chi phí- lợi ích 81
3.5. Phân tích độ nhạy 82
3.6. Những hạn chế trong quá trình thực hiện đê tài 82
3.7. Kiến nghị 83
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
1
2

GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
Từ viết tắt Tiếng Việt
BQL Ban quản lý
CVM Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
KBT Khu bảo tồn
KBTB Khu bảo tồn biển
KBV Khu bảo vệ
3
KBVB Khu bảo vệ biển
KBVHSTB Khu bảo vệ hệ sinh thái biển
MCD Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng
NGO Tổ chức phi chính phủ
UNESCO Tổ chức văn hóa, giáo dục, khoa học liên hợp quốc
WTP Mức sẵn lòng chi trả
4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG
Bảng 1: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB
Bảng 2 : Bảng so sánh hai mô hình
Bảng 3: Bảng so sánh phân tích chi phí- lợi ích với phân tích tài chính
Bảng 4: Tình hình sử dụng đất đai xã Vạn Hưng
Bảng 5: Dân số và lao động xã Vạn Hưng
Bảng 6: Số hộ tham gia các ngành nghề ở xã Vạn Hưng
Bảng 7: Mật độ (con/400m2) các nhóm cá rạn san hô tại khu vực Rạn Trào
Bảng 8 : Danh sách loài có tên trong Sách đỏ sinh sống ở KBVB Rạn Trào
Bảng 9. So sánh thành phần loài sinh vật ở Rạn Trào và vịnh Văn Phong
Bảng 10 : Bảng chi phí- lợi ích của dự án
Bảng 11 : Bảng chi phí trực tiếp của dự án

Bảng 12 : Bảng chi phí quản lý và vận hành dự án
Bảng 13 : Bảng tổng chi phí của dự án
Bảng 14 : Bảng sản lượng thủy sản qua các năm
Bảng 15 : Bảng tính giá thủy sản khai thác qua các năm
Bảng 16 : Bảng tính lợi ích từ đánh bắt thủy sản
Bảng 17 : Bảng sản lượng nuôi tôm hùm qua các năm
Bảng 18 : Bảng tính lợi ích từ nuôi tôm hùm qua các năm
Bảng 19 : Bảng tính lợi ích từ nuôi tôm sú qua các năm
Bảng 20 : Bảng tính lợi ích từ nuôi ốc hương qua các năm
Bảng 21 : Bảng lợi ích từ nuôi trồng qua các năm
Bảng 22 : Bảng giả định diện tích san hô bị mất qua các năm
Bảng 23: Bảng lợi ích từ chức năng sinh thái của 1ha san hô/năm
Bảng 24 : Bảng lợi ích từ chức năng sinh thái của san hô ở Rạn Trào qua các năm
Bảng 25: Các yếu tố có thể ảnh hưởng đên mức sẵn lòng chi trả (WTP)
Bảng 26: Bảng tổng hợp các lợi ích thu về qua các năm
Bảng 27 : Bảng tính NPV của dự án
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1: Sơ đồ các loại hình KBT
Hình 2: Sơ đồ các loại hình KBTB
Hình 3: Mô hình quản lý ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng
Hình 4: Mô hình do địa phương quản lý
Hình 5: Bản đồ hành chính tỉnh Khánh Hòa
Hình 6 : Bản đồ phân vùng chức năng vùng biển Rạn Trào
5
Hình 7 : Tổ chức quản lý KBVB Rạn Trào
Hình 8: Mô hình phát triển bền vững
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
• Dự án xây dựng mô hình khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào do

chính địa phương tự quản lý được MCD tài trợ và tiến hành từ năm
2001. Đây là mô hình đầu tiên ở Việt Nam, điểm đặc biệt của mô hình
là theo cơ chế từ dưới lên tức là do người dân tự xây dựng nên khu bảo
vệ biển sau đó được cấp huyện, cấp tỉnh công nhận. Tuy nhiên vẫn
chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về hiệu quả kinh tế của dự án, do
đó đề tài đã tiến hành đánh giá kinh tế để thấy được tính hiệu quả của
dự án.
• Phạm vi tiến hành dự án của MCD chủ yếu là các khu vực bảo tồn ven
biển, do đó mô hình đánh giá hiệu quả kinh tế này có thể áp dụng cho
những dự án về sau trong giai đoạn tiền dự án, giai đoạn tiến hành dự
án và giai đoạn kết thúc dự án.
• Việc đánh giá được các giá trị về lợi ích lẫn chi phí đều phục vụ cho
khâu quản lý tài nguyên tại khu vực, quản lý được các bước tiến hành
dự án.
2. Mục đích của đề tài:
• Việc định giá giúp đo được tốc độ sử dụng và mức độ khan hiếm của
tài nguyên
• Phục vụ cho nhà ra quyết định đưa ra những quyết định công bằng và
đầy đủ.
• Bảo vệ môi trường và thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả.
• Việc tiền tệ hoá các giá trị làm tăng khả năng thuyết phục trong giáo
dục cộng đồng.
3. Phạm vi nghiên cứu.
• Về không gian lãnh thổ: KBVHSTB Rạn Trào, xã Vạn Hưng.
7
• Về thời gian nghiên cứu: dự tính điều tra, phỏng vấn người dân tại khu
bảo vệ vào đầu tháng 4/2009, sử dụng số liệu từ 2000 đến nay.
• Về giới hạn nghiên cứu: đề tài đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án
thông qua các chỉ số kinh tế là BCR, NPV.

4. Phương pháp nghiên cứu.
• Phương pháp thu thập, xử lý thông tin.
• Phương pháp thực địa.
• Phương pháp điều tra xã hội học.
• Phương pháp chuyên gia.
• Phương pháp giá thị trường.
• Phương pháp chi phí thay thế.
• Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên.
• Phương pháp tiếp cận thay đổi năng suất.
• Phương pháp xử lý số liệu bằng Excel, SPSS.
5. Cấu trúc đề tài.
Ngoài lời nói đầu và kết thúc, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý và đánh giá hiệu quả kinh tế KBTB.
Chương II: Thực trạng mô hình quản lý tại KBVHST biển Rạn Trào.
Chương III: Áp dụng công cụ phân tích kinh tế nhằm đánh giá hiệu quản kinh
tế KBVHSTB Rạn Trào do cộng đồng dân cư địa phương quản lý.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ KINH TẾ KBTB
1.1.Khu bảo tồn biển
1.1.1. Khái niệm và phân loại
1.1.1.1. Khu bảo tồn
Định nghĩa: Theo IUCN:“Khu bảo tồn là một khu vực trên đất liền hoặc trên
biển được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên
nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các
hình thức quản lý có hiệu quả khác” (IUCN 1994).
Các loại hình KBT: Theo báo cáo quốc gia của VN về các KBT và phát triển.
Hình 1: Sơ đồ các loại hình KBT
 Khu rừng đặc dụng: Rừng đặc dụng bao gồm các vườn quốc gia, các

khu bảo tồn thiên nhiên và các khu di tích lịch sử-văn hóa-môi trường,
do bộ NN&PTNT trực tiếp quản lý. Tính đến tháng 12 năm 2002 Bộ
NN&PTNT đã thống kê được 25 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên
nhiên, 37 khu di tích văn hóa-lịch sử-môi trường.
Khu bảo tồn
Khu rừng
đặc dụng
Đất ngập
nước
Khu bảo tồn
biển
Khu di sản
thế giới
Khu dự trữ
sinh quyển
Vườn quốc
gia
Khu bảo tồn
thiên nhiên
Khu rừng
văn hóa lịch
sử môi
trường
9
 Đất ngập nước: Bằng việc thông qua Công ước đa dạng sinh học và
Công ước Ramsar về đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, Chính
phủ đã cam kết thành lập một mạng lưới các khu bảo tồn đất ngập
nước. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học bao gồm 61 khu đất ngập
nước. Mới đây, 68 khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia đã
được xác định trong đó có một số khu nằm trong hệ thống rừng đặc

dụng. Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp khu đất ngập nước là
Bộ TN&MT.
 Các KBTB: Việt Nam hiện có 2 khu di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh
Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng và 3 khu di sản thế giới
nữa là: Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An và tổ hợp các công trình Huế
đã được UNESCO công nhận.
 Các khu dự trữ sinh quyển: Chương trình con người và sinh quyển của
UNESCO đã công nhận trên 370 khu dự trữ sinh quyển trên toàn thế
giới. Rừng ngập mặn Cần Giờ là khu dự trữ con người và sinh quyển
đầu tiên của Việt Nam. Mục tiêu của các khu dự trữ sinh quyển là kết
hợp bảo tồn đa dạng sinh học với sử dụng bền vững tài nguyên cho con
người.
1.1.1.2. Khu bảo vệ biển
Theo IUCN: “KBVB là bất cứ 1 khu vực lãnh thổ giữa 2 mức triều hoặc
cận thủy triều cùng với khối nước che phủ và hệ động vật hệ thực vật kèm
theo, các đặc điểm lịch sử và văn hóa, được luật pháp bảo hộ hoặc các biện
pháp có hiệu quả khác cần để bảo vệ một bộ phận hay toàn bộ môi trường bao
quanh”.
Theo đó thì mọi khu vực ven biển đều có thể trở thành các KBVB mà
không phải có bất cứ điều kiện ràng buộc nào.
1.1.1.3. Khu bảo tồn biển
Định nghĩa
Theo IUCN: “KBTB được xác định là bất kỳ khu vực nào nằm trong
vùng triều hoặc dưới triều cùng với toàn bộ bao gồm toàn bộ phần mặt nước
10
phía trên cùng với các hệ động thực vật và các di sản văn hóa và lịch sử liên
đới được lưu giữ bởi luật pháp và các phương thức hữu hiệu khác nhằm bảo
vệ một phần hoặc toàn bộ môi trường liên quan”.
Theo nghị định số 27 của Chính phủ Việt Nam hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Thủy sản: “KBTB là vùng biển được xác định (kể cả đảo có

trong vùng biển đó) có các loài động vật, thực vật có giá trị và tầm quan trọng
quốc gia hoặc quốc tế về khoa học, giáo dục, du lịch, giải trí được bảo vệ và
quản lý theo quy chế của Khu Bảo tồn”.
Phân loại KBTB
Theo Nghị định số 57/2008/NĐ-CP: KBTB có tầm quan trọng quốc gia
và quốc tế được phân loại thành: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn loài, sinh cảnh;
Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh.
Hình 2: Sơ đồ các loại hình KBTB
- Vườn Quốc gia có đủ các điều kiện sau:
 Là vùng biển có một hay nhiều hệ sinh thái điển hình như: san hô, cỏ
biển, rừng ngập mặn hay hệ sinh thái đầm phá, cửa sông còn nguyên
vẹn hoặc ít bị tác động của con người; là nơi sinh cư của một hay nhiều
loài động, thực vật biển hoang dã, quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ
tuyệt chủng, cần được quản lý, bảo vệ, bảo tồn.
 Diện tích Vườn Quốc gia nhỏ nhất không ít hơn 20.000 ha. Trong đó,
diện tích các hệ sinh thái điển hình còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động
của con người tối thiểu phải chiếm 1/3 diện tích của Vườn.
 Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị
thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người.
Khu bảo tồn biển
Vườn quốc gia
Khu bảo tồn loài, sinh
cảnh
Khu dự trữ tài nguyên
thiên nhiên thủy sinh
11
- Khu bảo tồn loài, sinh cảnh có đủ các điều kiện sau:
 Là vùng biển có một hay nhiều loài động, thực vật biển hoang dã, quý
hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng; có các hệ sinh thái điển
hình như san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn, hay hệ sinh thái đầm phá, cửa

sông còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, cần được quản
lý, bảo vệ, bảo tồn.
 Diện tích của Khu bảo tồn loài, sinh cảnh nhỏ nhất không ít hơn 10.000
ha. Trong đó, vùng bảo vệ nghiêm ngặt tối thiểu phải chiếm 1/5 diện
tích của Khu bảo tồn.
 Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị
thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người.
- Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh có đủ các điều kiện sau:
 Là vùng biển, nơi sinh cư của nhiều loài động, thực vật biển; có các bãi
đẻ hay khu vực tập trung các loài sinh vật biển chưa trưởng thành;
nguồn giống bổ sung cho các vùng biển liền kề.
 Diện tích của Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên nhỏ nhất không ít hơn
10.000 ha. Trong đó, diện tích các bãi đẻ hoặc khu vực tập trung các
loài sinh vật biển chưa trưởng thành tối thiểu phải chiếm 2/3 diện tích
của Khu bảo tồn.
 Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị
thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người.
Từ các quy định này ta thấy để trở thành KBTB thì các khu vực ven biển
phải đạt được rất nhiều tiêu chí. Đây lại chính là rào cản cho các vùng ven
biển có giá trị nhưng không có được đầy đủ các điều kiện này. Theo định
nghĩa của IUCN đã nêu ở trên thì các khu vực không đạt các điều kiện về
KBTB đều có thể trở thành các khu bảo vệ biển. Tuy nhiên đây là khái niệm
do IUCN đưa ra trong khi luật pháp Việt Nam chưa có bất cứ quy định nào về
Khu bảo vệ biển mà chỉ đưa ra một số hướng dẫn trong quản lý vùng ven bờ.
Do đó, các khu bảo vệ biển nếu được thành lập thì cũng sẽ không nhận được
12
bất cứ quyền lợi nào về mặt pháp lý. Có chăng thì chỉ là sự hỗ trợ từ phía địa
phương.
Mặc dù khác nhau về quy mô diện tích nhưng mục tiêu, khó khăn, thách
thức, cách thức quản lý… của KBTB và KBVB là hoàn toàn giống nhau. Do

đó, trong phần phương pháp luận tuy nói về KBTB nhưng thực chất đó cũng
là cơ sở lý luận về KBVB.
1.1.2. Mục tiêu KBTB
Theo IUCN, mục tiêu của các KBTB là nhằm bảo tồn đa dạng sinh học
và khả năng sinh sản (bao gồm sự sống sinh thái) của đại dương. IUCN cũng
đã xác định mục tiêu cho mạng lưới các KBTB toàn cầu theo ngôn ngữ tiêu
chuẩn trong Nghị quyết Đại hội đồng như sau: “Hỗ trợ bảo vệ, tái tạo, sử
dụng một cách thông minh, am hiểu và tận hưởng vĩnh viễn các di sản biển
trên thế giới thông qua việc thiết lập một hệ thống đại diện các KBTB toàn
cầu và thông qua việc quản lý phù hợp với các nguyên tắc trong chiến lược
bảo tồn thế giới về các hoạt động của con người có thể sử dụng hoặc ảnh
hưởng tới môi trường biển” (Trích từ: Nghị quyết Đại hội đồng 17.38 năm
1998. Mục tiêu này cũng được lặp lại trong Nghị quyết Đại hội đồng 19.46
năm 1994 và trong nghị quyết tương tự của Đại hội hoang dã thế giới năm
1997).
1.1.3. Tính cấp thiết của việc thiết lập KBTB
Việt Nam trải dài qua 13 vĩ tuyến theo hướng Bắc - Nam với khoảng
3260 km bờ biển và 2.700 đảo lớn nhỏ. Các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình
như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển phân bố rộng ở vùng ven biển
và các đảo xa. Biển Việt Nam còn được coi là nơi có thành phần loài sinh vật
khá cao, cung cấp nhiều nguồn lợi đáng kể. Nghề cá ở nước ta mang tính đa
loài, giá trị các loài khác nhau nhiều. Ngoài nghề cá truyền thống, nhiều
nguồn lợi mới mang lại lợi ích lớn. Biển và vùng ven biển nước ta còn cho
một tiềm năng lớn về du lịch. Cảnh quan trên bờ và dưới nước ở vịnh Hạ
long, Nha Trang, đang thu hút du khách từ bốn phương. Nguồn lợi biển đã
và đang được sử dụng với cường độ ngày càng cao. Cùng với quá trình tăng
13
trưởng kinh tế, hoạt động của con người đã gây ra nhiều tác động đối với tài
nguyên và môi trường biển. Có thể kể đến một số tác động chính sau đây:
Khai thác quá mức: Nhờ các cải tiến về phương pháp đánh bắt và tăng số

lượng, công suất tàu thuyền, sản lượng khai thác mỗi năm tăng. Tuy vậy, hiệu
quả đánh bắt lại đang giảm. Những nguồn lợi có giá trị cao như tôm hùm, cá
mú, hải sâm, bào ngư, cá ngựa, được khai thác rất triệt để ở vùng nước
nông. Các loài hiếm như rùa biển cũng bị khai thác làm thực phẩm. Sử dụng
san hô làm mỹ nghệ rất phổ biến. Buôn bán cá cảnh biển phát triển kéo theo
đánh bắt quá mức cá rạn san hô. Sự biến mất của một số loài có thể gây ra
mất cân bằng sinh thái của các quần xã sinh vật biển.
Đánh cá huỷ diệt: Đánh cá bằng chất nổ, chất độc gây mê cá đã trở lên
phổ biến trong nhiều năm qua.
Phá hoại các quần xã: Nghề nuôi tôm phát triển mạnh trong thời gian qua
gắn liền với quá trình khai hoang rừng ngập mặn. Bên cạnh những tác động
cơ học do hoạt động chủ động của con người, rạn san hô còn bị suy thoái do
tăng lượng thải từ sông. Hoạt động trên đất liền làm tăng quá trình lắng đọng
trầm tích và gây hại cho các rạn san hô ở các vùng khác. Lắng đọng trầm tích
còn do đánh cá bằng giã cào, nạo vét và xây dựng công trình ven biển. Hơn
nữa, quần xã rạn san hô còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của du lịch biển - một
ngành mới phát triển. Ở vịnh Hạ Long, Nha Trang nhiều rạn đang bị phá huỷ
do thả neo, bơi lặn và thu thập san hô, thân mềm làm lưu niệm. Sự suy thoái
các quần xã không chỉ làm giảm các nguồn lợi và chất lượng môi trường mà
còn liên quan đến tính bền vững của nguồn lợi vùng khơi. Trữ lượng của
nhiều loài ở vùng xa bờ phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn giống được cung cấp
từ các bãi sinh sản, ương giống ven bờ.
Nhiễm bẩn: Nhiễm bẩn biển chưa đến mức nghiêm trọng đối với tính đa
dạng sinh học ở vùng ven bờ, ngoại trừ những nơi chịu ảnh hưởng lớn của sản
xuất nông nghiệp hay công nghiệp. Tuy nhiên, sự giàu dinh dưỡng (chủ yếu là
hàm lượng NO3 cao) đã được ghi nhận ở nhiều nơi. Sự nở hoa của tảo (trong
đó có các loài tảo độc) cũng là một hệ quả của sự giàu dinh dưỡng và đã được
14
quan sát thấy ở nhiều vùng ven biển ở Khánh Hoà, Bình Thuận, cửa sông
Đồng Nai.

Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi biển nước ta đang chịu những tác
động có hại. Vì vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền đang được
các nhà quản lý, khoa học và cộng đồng quan tâm. Luật bảo vệ môi trường
đặc biệt nhấn mạnh đến bảo tồn các hệ sinh thái và nghiêm cấm các hoạt động
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trên thực tế, các luật lệ có hiệu lực rất
thấp và tài nguyên biển đang suy giảm nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ
tiếp tục bị huỷ diệt. Trong tình hình đó việc thiết lập các KBTB bao gồm các
hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh học cao là hết sức cần thiết nhằm
giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn một phần các hệ
sinh thái. KBTB là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản
lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế
của con người. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các
khu bảo tồn biển tăng gấp đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm),
cung cấp ấu trùng và bổ sung hải sản non vào vùng biển xung quanh nhờ các
dòng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái rừng
ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản không bị sụt
giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, KBTB còn có sức hấp dẫn
đối với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái,
nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng.
1.1.4. Một số trở ngại khi triển khai KBTB
Việt Nam là một nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh (GDP
tăng 8 -9%/năm), phát triển kinh tế đang là ưu tiên của Chính phủ và cộng
đồng. Đồng thời với mức sống được nâng cao, sức ép đối với tài nguyên và
môi trường cũng gia tăng. Là một quốc gia biển với 70% dân cư sống ở vùng
ven biển và các châu thổ, hoạt động kinh tế chủ yếu tập trung ở vùng ven biển
và trên biển. Các khu vực đề xuất bảo tồn biển đang đứng trước các mối đe
doạ với mức độ khác nhau. Tác động lớn nhất gây ra bởi khai thác nguồn lợi
và du lịch biển thiếu kiểm soát. Tuy nhiên, điều đáng buồn là nhiều hành
15
động vô ý thức cũng góp phần làm suy giảm tính đa dạng sinh học. Hiểu biết

về bảo tồn thiên nhiên biển của cộng đồng và các nhà quản lý còn rất hạn chế.
Dưới tầm nhìn của một số người, mục tiêu lợi nhuận vẫn được coi trọng hơn
so với mục tiêu bảo tồn ngay cả trong kế hoạch thiếp lập KBTB. Các dự án
phát triển ít khi quan tâm đến bảo tồn thiên nhiên và làm nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Khó khăn về tài chính đã hạn chế đầu tư của Nhà nước cho việc nghiên
cứu thiết lập và quản lý các KBTB. Hơn nữa, các mục tiêu dài hạn về bảo tồn
thiên nhiên (ví dụ như giáo dục ý thức) ít khi nhận được sự hỗ trợ lớn của các
nhà hoạch định chính sách. Cạnh tranh trong nội bộ và giữa các cộng đồng
cũng làm tăng sức ép với các vùng đề xuất bảo tồn biển. Do hạn chế về năng
lực tàu thuyền, vùng ven bờ thường là các ngư trường chính. Ngư dân không
muốn mất đi khu vực khai thác hàng ngày của họ. Điều này không thuận lợi
cho kiểu quản lý dựa trên cơ sở cộng đồng.
Một trở ngại khác là thiếu thông tin cần thiết liên quan đến việc thiết lập
và quản lý KBTB. Các nghiên cứu cho đến nay chủ yếu tập trung về tính đa
dạng sinh học mà chưa quan tâm nhiều đến các phương diện kinh tế-xã hội,
tính hợp lý của hoạt động khai thác tài nguyên và đánh giá tác động môi
trường. Cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống KBTB chưa mang tính sinh thái
cao do thiếu thông tin về các đặc trưng đa dạng sinh học và tài nguyên của
các vùng biển. Đồng thời những khác biệt trong phân vùng chức năng giữa
bảo tồn biển và trên cạn chưa được thống nhất. Thực chất, quản lý KBTB là
quản lý tài nguyên và người sử dung tài nguyên. Tài nguyên nằm dưới nước,
nhưng người sử dụng tài nguyên lại ở trên cạn. Vì vậy, không thể áp dụng
máy móc nguyên tắc cho rằng bảo tồn biển chỉ lo phần dưới nước. Khái niệm
vùng đệm đang sử dụng cho bảo tồn trên cạn cũng phải được hiểu rằng, đây
chính là vùng sinh sống của cộng đồng trên các đảo và vùng ven bờ. Vấn đề
duy trì sự tồn tại của các KBTB sau khi thành lập cũng cần được suy nghĩ
ngay từ bây giờ. Rõ ràng là đầu tư từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế chỉ có
được đáng kể ở giai đoạn đầu. Duy trì hoạt động bảo tồn trên biển chắc chắn
sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với trên đất liền. Giải quyết sinh kế cho
16

cộng đồng ngư dân nghèo cũng là một vấn đề bức xúc của hoạt động bảo tồn
biển. Các dự án bảo tồn chỉ có thể đóng góp bằng những hoạt động trong
khuôn khổ bảo tồn biển. Trong đó, việc làm giàu nguồn lợi tự nhiên nếu quản
lý tốt sẽ làm tăng nguồn thu nhập cho cộng đồng thông qua khai thác hợp lý.
Những hổ trợ trực tiếp chỉ có thể đối với số ít ngư dân nghèo chịu ảnh hưởng
do quy hoạch vùng không đánh bắt trong khu bảo tồn. Mặc dù việc thiết lập
các KBTB đã được đề xuất vài năm trước đây, khả năng hiện thực hoá bị hạn
chế do thiếu một cơ quan điều hành thống nhất cấp trung ương và chính sách
quốc gia về bảo tồn thiên nhiên biển. Sự quan tâm riêng lẻ của các bộ, ngành,
địa phương khó có thể dẫn đến thành công nếu không muốn nói là còn có tác
dụng ngược lại. Một thách thức lớn là phải duy trì, quản lý và cải tạo những
sinh cảnh quan trọng về đa dạng sinh học có vai trò chủ đạo đối với kinh tế
địa phương và quốc gia, đặc biệt là những khu bảo tồn quan trọng cả về bảo
tồn đa dạng sinh học cũng như đối với các cộng đồng ven biển mà phúc lợi và
nguồn kiếm sống của họ phụ thuộc vào một môi trường biển và ven biển. Đầu
tư vào hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam có thể và nên được coi
là những bước quan trọng để bảo đảm sự ổn định kinh tế tại miền duyên hải
và là chất xúc tác cho những hoạt động cải thiện hơn nữa chất lượng môi
trường, đồng thời tạo ra một cộng đồng bảo tồn và một công chúng được
thông tin tốt hơn và ủng hộ hoạt động bảo tồn thiên nhiên.
Như vậy, để hình thành hệ thống các KBTB ở Việt Nam còn rất nhiều
việc phải làm và sẽ gặp không ít trở ngại. Theo các chuyên gia bảo tồn biển
quốc tế, thực trạng ở nước ta hiện nay tương tự với Australia cách đây 20 năm
hay với Indonesia 5-10 năm trước. Với nỗ lực của ngành thủy sản và phối hợp
đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế, các cộng đồng ven
biển, hy vọng rằng việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ sẽ được
triển khai có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn
lợi thủy sản của nước ta.
17
1.2. Vấn đề quản lý KBTB.

1.2.1.Hoạt động thiết lập và quản lý KBTB.
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển trên thế giới
Trong chiến lược bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới
(IUCN,1991) đã nhấn mạnh “con người tồn tại như một phần của tự nhiên,
nếu không bảo tồn tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thì sẽ không có tương
lai”. Chiến lược đã khẳng định rằng “bảo tồn không thể thành công nếu không
có những kế hoạch quản lý, qui hoạch cụ thể và phát triển sinh kế bền vững
cho cộng đồng sống xung quanh và trong khu bảo tồn”. Nội dung của chiến
lược còn nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn và phát triển, chiến
lược bảo tồn còn đưa ra một khái niệm đó là “Sự phát triển bền vững”. Trong
đó, chiến lược bảo tồn thế giới đã nhấn mạnh vào 3 mục tiêu chính sau
(IUCN, 1991): (1) Duy trì những tiến trình sinh thái quan trọng, (2) Bảo vệ đa
dạng nguồn gen và (3) Sử dụng bền vững loài và các hệ sinh thái. Trên thực
tế, cho đến nay nhiều nước trong khu vực Châu Á cũng đã có nhiều hoạt động
nghiên cứu thiết lập các KBTB nhằm bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn lợi.
Tính đến năm 1970, trên thế giới đã có khoảng 118 KBTB ở 27 nước. Đến
năm 1985 đã có 470 KBTB ở 69 nước và 298 KBTB đang được đề nghị thành
lập. Cho đến nay, trên toàn thế giới đã thống kê được trên 1310 KBTB, phân
bố trong 18 vùng địa sinh vật biển, trong đó Việt Nam nằm ở vùng biển Đông
á (vùng số 13) (Kellcher, 2001). Trong số 1310 KBTB đã được thống kê, có
khoảng 640 KBTB được xác định là ưu tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng
sinh học, 155 KBTB được xác định là có giá trị ưu tiên khu vực. KBTB đầu
tiên trên thế giới được thành lập ở Florida (Mỹ) vào năm 1935 với 18.850 ha
diện tích mặt biển và 35 ha vùng đất ven bờ. KBTB lớn nhất thế giới là Great
Coral Reef ở Australia với diện tích 34,4 triệu ha. KBTB nhỏ nhất là khu dự
trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully ở Australia (1ha). Tính tới năm
2002, Đông Nam Á có 310 KBTB và ven biển, trong đó Philippines có 280
khu. Khoảng 46% số KBTB không được quản lý hoặc quản lý lỏng lẻo, 28%
được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên
18

đầu ngón tay. Nếu so sánh với bảo tồn thiên nhiên trên đất liền thì vấn đề bảo
tồn biển còn rất chậm. Hơn nữa, diện tích biển gấp khoảng 2,5 lần tổng diện
tích đất liền của thế giới, nhưng cho đến nay mới chỉ khoảng 1 % diện tích
biển là các khu bảo tồn biển được thiết lập (Salm & Clark, 2003).
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển ở Việt Nam
Việt Nam có 29 tỉnh ven biển với hơn 3260 km đường bờ biển với hơn
3000 đảo, vùng biển rộng khoảng 1triệu km², Việt Nam có 125 huyện có vị
trí ven biển với khoảng 81.500 hộ dân tương đương với 17 triệu người, chiếm
17% diện tích cả nước. Vấn đề thiết lập các KBTB đã được đề cập từ những
năm 1980 trong khuôn khổ của chương trình biển Nhà nước với các đề xuất
hình thành các KBTB ở Côn Đảo, Cát Bà và Sinh Tồn. Trong thời kỳ 1992-
1994, với sự hỗ trợ của WWF và Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia, Viện Hải dương học đã tiến hành các nghiên cứu về tính đa
dạng sinh học, hiện trạng sử dụng nguồn lợi và tiềm năng bảo tồn thiên nhiên
ở một số vùng và đề xuất 7 khu vực ưu tiên để thiết lập KBTB. Tất cả các khu
vực đề xuất đều lấy rạn san hô làm trọng tâm vì tầm quan trọng của chúng về
tài nguyên và môi trường. Bên cạnh đó, nhiều khu rừng ngập mặn đã được qui
hoạch trong hệ thống bảo tồn rừng thuộc sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn (Nguyễn Chu Hồi, 2000). Bộ Khoa học Công nghệ &
Môi trường (nay là Bộ TN&MT) và Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng
(1998-1999) đã nghiên cứu cơ sở khoa học qui hoạch hệ thống KBTB Việt
Nam với một danh mục 15 KBTB. Cho đến năm 1999, hệ thống gồm 15
KBTB này đã được đề nghị và trình Chính Phủ phê duyệt. Đó là:
19

Bảng 1: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB
Cùng thời gian này, WWF và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cũng
đưa ra một kế hoạch các KBTB và ven biển Việt Nam. Kế thừa các kết quả
nghiên cứu trên, Bộ Thuỷ sản (2000-2003) đã tiếp tục cập nhật thông tin kinh
tế-xã hội và những thay đổi về quản lý ở 15 địa điểm đề xuất (chủ yếu bằng

cách đánh giá nhanh) để rà soát lại qui hoạch và xây dựng qui chế quản lý các
KBTB ở cấp quốc gia. Với sự tài trợ của Danida, WB-GEF và IUCN, dự án
KBTB thí điểm Hòn Mun (2001-2005) đã tiến hành đánh giá đa dạng sinh
học phục vụ lập kế hoạch quản lý khu bảo tồn này. Sự đầu tư vào KBTB Hòn
Mun, Khánh Hoà (nay là KBTB vịnh Nha Trang) là một mô hình triển khai
thử nghiệm. Sau 5 năm hoạt động, KBT Hòn Mun đã được các chuyên gia
của Bộ Thuỷ sản, Chính phủ Đan Mạch, Ngân hàng Thế giới, WWF và IUCN
đánh giá là một mô hình khá thành công và đạt được những hiệu quả tốt về
bảo tồn biển, đây là một minh chứng khả thi cho việc thiết lập và quản lý các
KBTB ở Việt Nam. Đến năm 2003-2004, Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp
với Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng tiến hành khảo sát, nghiên cứu bổ
20
Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB:
- Đảo Trần, đảo Cô Tô (Quảng Ninh)
- Đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)
- Hòn Mê (Thanh Hoá)
- Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị)
- Sơn Trà - Hải Vân (Thừa Thiên Huế)
- Cù Lao Chàm (Quảng Nam)
- Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
- Hòn Mun, Nam Yết (Khánh Hoà)
- Hòn Cau, Đảo Phú Quý (Bình Thuận)
- Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu)
- Phú Quốc (Kiên Giang)
sung cơ sở khoa học cho việc quy hoạch và quản lý hai KBTB Cát Bà và Cô
Tô. Nội dung chủ yếu là khảo sát đa dạng sinh học, rạn san hô, thảm rong cỏ
biển, hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái vùng triều. Kết quả nghiên
cứu đã xây dựng quy hoạch và đề xuất kế hoạch quản lý tài nguyên trong
KBTB Cát Bà và Cô Tô. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp liên quan
đến những khiếm khuyết lớn trong hệ thống khu bảo tồn hiện nay. Ngoại trừ

một vài KBT có kế hoạch quản lý thì Việt Nam vẫn còn thiếu một chương
trình dành cho các KBTB và ven biển.
1.2.2. Các mô hình quản lý KBTB
Hiện nay ở Việt Nam mô hình quản lý KBTB chủ yếu là mô hình quản
lý theo ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng. Tuy nhiên, ở trên thế giới
người ta còn quản lý theo một mô hình khác đó là mô hình do địa phương tự
quản lý và mô hình này đã được đưa vào thử nghiệm ở Việt Nam tại Khu bảo
vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa. Sau đây là phần giới thiệu về hai
mô hình quản lý này.
1.2.2.1. Mô hình quản lý theo ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng
Mô hình này còn được gọi là mô hình quản lý từ trên xuống (top down
modeling). Các cơ quan chính phủ chủ chốt có liên quan đến chính sách và
quản lý các KBTB bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ NN&PTNT, Bộ
TN&MT, Bộ Văn hóa- thể thao&du lịch, UBND tỉnh.
- Bộ NN&PTNT: có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức
liên quan để xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch và tổ
chức thực hiện quản lý hệ thống các KBTB. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính
phủ các dự án thiết lập và trực tiếp tổ chức quản lý các KBTB có tầm quan
trọng quốc gia, quốc tế hoặc liên quan đến nhiều ngành, nằm trên địa bàn
nhiều tỉnh. Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng các dự án thiết lập
và kế hoạch quản lý, quy chế quản lý các KBTB được phân cấp.
- Bộ KH&ĐT: thông qua quá trình lập ngân sách hàng năm chịu trách nhiệm
xác định mức cấp kinh phí và thỏa thuận phân bổ ngân sách trong đó có ngân
sách cho các KBTB với các bộ chuyên ngành và các tỉnh.
21
- Bộ TN&MT: chịu trách nhiệm về công ước RAMSAR, Công ước về đa
dạng sinh học, điều phối việc thực hiện Kế hoạch hành động đa dạng sinh học
của Việt Nam.
- Bộ văn hóa, thể thao, du lịch: Cùng với bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm bảo
vệ Di sản tự nhiên thiên nhiên thế giới cùng với chính quyền tỉnh.

- Các bộ có nhiệm vụ điều phối về mặt kỹ thuật tới các sở trực thuộc bộ.
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển: Căn cứ Quy chế này
và hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ đạo các cơ
quan chức năng của địa phương xây dựng các dự án thiết lập, kế hoạch quản
lý và quy chế quản lý các KBTB được phân cấp. Tổ chức quản lý các KBTB
được phân cấp; hướng dẫn các Ban quản lý KBTB xây dựng quy chế, nội quy
cụ thể để quản lý các KBTB: chịu trách nhiệm quản lý một số vườn quốc gia
và các khu bảo tồn thiên nhiên.
- Nhà tài trợ thường là các tổ chức phi chính phủ (NGOs): Họ có thể là những
nhà tài trợ, nhà tư vấn cho quá trình thiết lập quản lý KBTB hoặc là người xây
dựng nên những mô hình sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
- Cộng đồng người dân: Càng ngày người ta càng nhận ra tầm quan trọng của
người dân địa phương trong việc thiết lập quản lý KBTB. Họ là những người
bị ảnh hưởng trực tiếp do việc bảo tồn đồng thời các hoạt động sinh kế hàng
ngày của họ cũng tác động ngược lại tới công tác bảo tồn. Do đó, để việc bảo
tồn đạt hiệu quả thì cần phải phối hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nghị
định số 57/2008/NĐ-CP đã nêu rõ vai trò của cộng đồng trong quá trình xây
dựng và quản lý các KBTB đó là:
 Công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ và bảo
tồn đa dạng sinh học;
 Quan trắc, tuần tra và bảo vệ KBTB;
 Nghiên cứu khoa học và đào tạo trong KBTB;
 Dịch vụ du lịch sinh thái trong các KBTB.
Các hoạt động trên phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy
của Ban quản lý KBTB.
22
Có thể tóm tắt mô hình quản lý từ trên xuống trong sơ đồ sau:

Hình 3: Mô hình quản lý ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng
Ngoài ra, giữa các bộ, ban, ngành; các sở có liên quan cần phải có sự bàn

bạc, phối hợp và trao đổi thông tin với nhau để đảm bảo tính thống nhất hạn
chế sự chồng chéo trong quản lý.
23
Chính phủ
Bộ TN&MT
Bộ
NN&PTNT
Bộ KH&ĐT
Bộ văn hóa,
thể thao&
du lịch
KBTB
Sở văn hóa, thể
thao&du lịch
Sở TN&MTSở
NN&PTNT+
Sở thủy sản
Sở KH&ĐT
UBND tỉnh
Mối liên hệ hành chính.
Mối liên hệ kỹ thuật.
Nhà tài trợ
(NGO)
Cộng đồng
người dân
1.2.2.2. Mô hình do cộng đồng địa phương quản lý
Đây còn được gọi là mô hình từ dưới lên (bottom up modelling). Điểm
xuất phát của mô hình là từ phía cộng đồng địa phương bao gồm UBND
quận/huyện, UBND phường/xã và đại diện cộng đồng do người dân địa
phương bầu ra.

- UBND tỉnh là người chịu trách nhiệm trong việc phê duyệt dự án, phê duyệt
quyết định thành lập và phê duyệt các đệ trình từ phía địa phương hoặc nhà
tài trợ nếu dự án này đã được duyệt. UBND tỉnh còn là người đưa ra quyết
định cho các cơ quan cấp tỉnh liên quan như: sở thủy sản (nay là sở
NN&PTNT) hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho KBTB.
- UBND quận/huyện cùng UBND xã, nhà tài trợ, người dân địa phương xây
dựng và trình UBND tỉnh đề án KBTB; ban hành quy chế quản lý; ban hành
quyết định thành lập, điều lệ tổ chức hoạt động của Ban quản lý và ban hành
quyết định thành lập các tổ nhóm chính trong cộng đồng người dân vì mục
đích bảo tồn.
- UBND phường/xã: tham gia xây dựng đề án, xây dựng quy chế KBTB. Xây
dựng các tổ nhóm chính trong cộng đồng người dân vì mục đích bảo tồn. Tổ
chức quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ nhóm này.
- Cộng đồng địa phương tại phường/xã: Tham gia xây dựng đề án, xây dựng
quy chế KBTB, quyết định các hoạt động sẽ tiến hành tại KBTB, trực tiếp lập
kế hoạch quản lý, bảo tồn KBTB. Là người nằm trong các tổ nhóm có liên
quan đến bảo tồn được thành lập tại địa phương.
- Các đơn vị có liên quan tại địa phương như: Đồn biên phòng, Trạm bảo vệ
nguồn lợi thủy sản có vai trò đóng góp ý kiến cho việc thành lập và quản lý
KBTB. Họ cũng có đại diện tham gia vào các tổ nhóm tại địa phương.
- Nhà tài trợ (NGO): đóng vai trò là người đồng hành, nhà tư vấn trong tất cả
các hoạt động của KBTB.
24
25

×