i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VŨ TRỌNG HỘI
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI LỒNG
BÈ MỘT SỐ LOÀI CÁ BIỂN CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG - TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
Nha Trang – 2010
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VŨ TRỌNG HỘI
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI LỒNG
BÈ MỘT SỐ LOÀI CÁ BIỂN CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG - TỈNH QUẢNG NINH
CHUYÊN NGÀNH: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 60.62.70
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hướng dẫn khoa học: TS Phạm Xuân Thủy
Nha Trang – 2010
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đều đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn ký tên
VŨ TRỌNG HỘI
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nha Trang và
Ban lãnh đạo dự án SUDA, cán bộ Phòng đào tạo Đại học - Sau Đại học trường Đại
học Nha Trang đã tạo điều kiện cho em được học tập và nghiên cứu, tại trường Đại học
Nha Trang, em đã có được một môi trường thuận lợi để học tập và nghiên cứu chuyên
môn.
Em xin cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo trong và ngoài trường Đại học Nha
Trang đã tận tình truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho em trong
thời gian qua. Kiến thức và kinh nghiệm của các thầy, cô thực sự bổ ích trong quá trình
làm việc và nghiên cứu sau này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Phạm Xuân Thủy đã tận tình
hướng dẫn và định hướng cho em trong suốt quá trình làm luận văn. Kiến thức và
phương pháp làm việc của thầy sẽ là hành trang cho em làm việc sau này.
Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình, vô tư của các cán bộ phòng
Kinh tế - Ủy ban Nhân dân Thành phố Hạ Long, cán bộ Chi cục NTTS, cán bộ Trung
tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban nhân dân phường Hùng
Thắng – thành phố Hạ Long, Ban quản lý vịnh Hạ Long cùng sự hợp tác quý báu của
bà con nhân dân làng chài Cửa Vạn, Vông Viêng và Hoa Cương.
Tôi xin cám ơn tới các anh, chị học viên lớp cao học SUDA 2009 đã giúp đỡ và
động viên tôi rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Hy
vọng sẽ còn nhận được sự giúp đỡ, động viên của các anh, chị trong thời gian tới.
Cuối cùng tôi xin cám ơn tới gia đình và bạn bè, đã động viên và tạo điều kiện
thuận lợi để tôi tập trung hoàn thành khóa học này.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC…………………………………………………………………………………… iii
DANH MỤC CÁC BẢNG…………………………………………………………………….vi
DANH SÁCH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. TÌNH HÌNH NUÔI CÁ BIỂN TRÊN THẾ GIỚI 3
1.2. HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ BIỂN TẠI VIỆT NAM 8
1.3. TÌNH HÌNH NUÔI CÁ LỒNG BÈ TRÊN BIỂN TẠI QUẢNG NINH 9
1.3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VHL 9
1.3.1.1. Vị trí địa lý 9
1.3.1.2. Đặc điểm địa hình 10
1.3.1.3. Khí hậu 10
1.3.1.4. Thủy văn 11
1.3.2. MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG 11
1.3.2.1. Thủy triều 11
1.3.2.2. Sóng 12
1.3.2.3. Dòng chảy 12
1.3.2.4. Độ mặn 12
1.3.2.5. Độ pH 12
1.3.2.6. Nhiệt độ nước biển 13
1.3.2.7. Muối dinh dưỡng 13
1.3.2.8. Oxy hòa tan (DO) 13
1.3.2.9. Các nguồn gây ô nhiễm nước biển VHL 14
1.3.2.10. Hiện trạng môi trường VHL 16
1.3.3. Tình hình nuôi cá lồng bè 19
1.3.4. Các chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản 20
iv
1.4. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HẠ LONG 20
1.4.1. Số lượng lồng bè và mật độ dân số sống trên lồng bè trên VHL 20
1.4.2. Tình hình phát triển nhà bè 22
1.4.3. Tổ chức chính quyền, đoàn thể nhà bè 22
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 24
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 24
2.3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN 24
2.4. THU THẬP Số LIỆU 24
2.4.1. Số liệu đã được công bố 24
2.4.2. Phương pháp đánh giá nông thôn 25
2.4.3. Số liệu điều tra 25
2.4.4. Xử lý số liệu 26
2.4.5. Các chỉ tiêu xác định kết quả sản xuất 26
2.4.6. Các chỉ tiêu xác định hiệu quả kinh tế 27
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. HIỆN TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI CỦA CÁC HỘ NUÔI CÁ BIỂN 31
3.1.1. Những thông tin về chủ hộ nuôi 31
3.1.1.1. Tuổi của chủ hộ 31
3.1.1.2. Giới tính của chủ hộ nuôi 31
3.1.1.3. Trình độ học vấn của chủ hộ nuôi 32
3.1.1.4. Kinh nghiệm của chủ hộ nuôi 32
3.1.2. Những thông tin về hộ nuôi cá biển lồng bè 33
3.1.2.1. Số nhân khẩu và lao động của hộ nuôi cá biển lồng bè 33
3.1.2.2. Số lồng bè của hộ nuôi 34
3.2 HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT NUÔI CÁ BIỂN LỒNG BÈ TRÊN VHL 34
3.2.1. Hình thức nuôi và kích cỡ lồng 34
3.2.1.1. Hình thức nuôi 34
3.2.1.2. Kích cỡ lồng 34
v
3.2.2. Đối tượng và mùa vụ nuôi 34
3.2.2.1. Đối tượng nuôi 34
3.2.2.2. Mùa vụ nuôi 35
3.2.3. Nguồn giống và kích cỡ giống 36
3.2.3.1 Nguồn giống 36
3.2.3.2 Kích cỡ giống 36
3.2.4. Chăm sóc và quản lý 36
3.2.4.1. Thức ăn 36
3.2.4.2. Theo dõi chất lượng nước 37
3.2.4.3. Xác định trọng lượng, kích thước và phân kích cỡ 38
3.2.4.4. Vệ sinh, bảo dưỡng định kỳ lồng nuôi 38
3.2.4.5. Các bệnh thường gặp 39
3.3. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI 40
3.3.1. Kết quả và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi cá lồng bè 41
3.3.2. Phân tích đánh giá các chỉ tiêu kết quả sản xuất 43
3.3.3. Phân tích đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của 1 m
3
lồng 44
3.3.4. Hiệu quả về mặt xã hội 45
3.4. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP 46
3.5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT 49
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 50
1. KẾT LUẬN 50
1.1. Hiện trạng kỹ thuật của nghề nuôi cá biển lồng bè trên VHL 50
1.2. Hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi cá biển lồng bè trên VHL 50
1.2.1. Mức độ đầu tư cho 1 lồng nuôi cá biển lồng bè trên VHL 50
1.2.2. Kết quả và hiệu quả kinh tế của 1m
3
lồng nuôi cá biển lồng bè 50
1.2.3. Hiệu quả về xã hội của nuôi cá biển lồng bè trên vịnh Hạ Long 51
2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. 1: Sản lượng nuôi cá biển ở một số nước trên thế giới…………………….….5
Bảng 1. 2: Sản lượng và số lượng lồng nuôi cá biển tại Việt Nam, năm 2001 – 2005 9
Bảng 1.3: Nhiệt độ, lượng mưa, số giờ nắng, độ ẩm trung bình năm 2006…… ……11
Bảng 1. 4: Một số loài cá biển đang được nuôi phổ biến tại Quảng Ninh………… 19
Bảng 1. 5: Tình hình nuôi cá lồng bè trên biển tại Quảng Ninh năm 2007 – 2009… 20
Bảng 1. 6: Kết quả khảo sát số lượng và số nhân khẩu sống trên lồng bè tại VHL 21
Bảng 2. 1: Chọn vùng nghiên cứu và số mẫu điều tra……………………………… 26
Hình 2.1: Sơ đồ hiện trạng và quy hoạch nuôi lồng bè trên VHL…………………….30
Bảng 3. 1: Phân bố tuổi của chủ hộ nuôi cá biển lồng bè trên VHL………… …… 31
Bảng 3. 2: Trình độ học vấn của chủ hộ nuôi cá biển lồng bè tại VHL………………32
Bảng 3. 3: Số năm kinh nghiệm chủ hộ nuôi cá biển lồng bè trên VHL………….… 33
Bảng 3. 4: Phân bố lao động trong gia đình hộ nuôi cá biển lồng bè trên VHL…… 33
Bảng 3. 5: Số lượng ô lồng của các hộ nuôi cá biển trên VHL………….……… …34
Bảng 3. 6: Các đối tượng cá biển chủ yếu nuôi trong lồng bè tại VHL………………35
Bảng 3. 7: Kích cỡ giống thả nuôi và mật độ thả tại VHL, năm 2008 – 2009… … 37
Bảng 3. 8: Thời gian thay lưới lồng nuôi cá lồng bè trên VHL………………… …39
Bảng 3. 9: Mức độ đầu tư, kết quả thu được của ngư dân trên VHL… ………… 41
Bảng 3.10: Một số chỉ tiêu kinh tế của 1 lồng nuôi cá biển tại VHL …… ….…… 42
Bảng 3. 11: Chi phí và cơ cấu chi phí sản xuất của 1 lồng nuôi cá lồng bè 43
Bảng 3. 12: Chi phí và kết quả sản xuất của 1 m
3
lồng nuôi cá biển tại VHL… … 44
Bảng 3.13: Hiệu quả kinh tế của 1 m
3
lồng nuôi cá biển tại VHL………………… 44
Bảng 3. 15: Những khó khăn gặp phải của ngư dân nuôi cá biển trên VHL………….47
Bảng 3. 16: Hướng phát triển của các ngư dân nuôi cá lồng bè trên VHL …………48
Bảng 3.17: Những kiến nghị của các ngư dân trên VHL………… ………… …….48
vii
DANH SÁCH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD : Nhu cầu ô xy sinh hóa
COD : Nhu cầu ô xy hóa học
DO : Ôxy hòa tan
NTTS : Nuôi trồng thủy sản
NTU : Đơn vị đo độ đục
RNM : Rừng ngập mặn
RSH : Rạn san hô
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
VHL : Vịnh Hạ Long
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
1
MỞ ĐẦU
Trên thế giới, nghề nuôi cá lồng bè trên biển đã và đang được quan tâm phát
triển trong nhiều năm qua và trở thành một nghề sản xuất kinh doanh quan trọng, có ý
nghĩa chiến lược của nhiều quốc gia có biển. Nghề nuôi cá lồng bè trên biển tạo ra một
lượng sản phẩm lớn trên một đơn vị diện tích nhỏ. Do vậy nghề nuôi cá biển không chỉ
góp phần đem lại kim ngạch xuất khẩu, góp phần cải thiện và đảm bảo chất lượng thực
phẩm của con người mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven bờ và môi trường
thủy sinh.
Việt Nam là quốc gia biển với hơn 3.260 km chiều dài bờ biển trải dài từ Bắc
vào Nam, trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều diện tích mặt nước eo vịnh, đầm, phá
nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá lồng, bè trên biển và hải
đảo. Chỉ tính riêng các khu vực có diện tích nuôi tập trung như Quảng Ninh (Hạ Long),
Hải Phòng (Cát Bà), Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Vũng Tàu, Côn Đảo,
Phú Quốc đã có hàng ngàn ha diện tích mặt nước có thể nuôi lồng, bè trên biển. Năm
2009 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đạt 4,21 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
chủ yếu là tôm nuôi, tuy nhiên trong những năm tới xuất khẩu tôm sẽ khó khăn hơn
nhiều thậm chí có thể giảm.
Trong giai đoạn 2010 - 2020, xuất khẩu thuỷ sản sẽ đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam, ngành Thủy sản sẽ đóng góp khoảng 3%
tổng sản phẩm xã hội (GDP), giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 4,5 - 5 tỷ USD. Do vậy,
chỉ có thể tăng mức xuất khẩu cá biển, nhuyễn thể và các hải đặc sản cùng với tăng sản
lượng các sản phẩm thuỷ sản có giá trị gia tăng cao thì mới có thể đạt chỉ tiêu 4,5 - 5 tỷ
USD/năm.
Hiện nay kỹ thuật nuôi cá lồng bè của ngư dân ở nước ta chủ yếu là theo
phương pháp nuôi truyền thống, cộng với sự phát triển của nghề nuôi cá lồng bè ngày
càng tăng và thiếu quy hoạch đã làm cho môi trường tại các khu vực nuôi ngày càng ô
nhiễm và dịch bệnh xảy ra ngày càng nhiều. Đây là một trong những nguyên nhân làm
cho nghề nuôi cá lồng bè phát triển kém bền vững.
2
Đứng trước thực trạng trên, để góp phần vào nghiên cứu đánh giá và đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của nghề nuôi cá lồng bè trên biển
giúp nghề nuôi cá lồng bè phát triển bền vững. Được sự đồng ý của Khoa Nuôi trồng
Thủy sản Trường Đại học Nha Trang, tôi thực hiện đề tài “Điều tra hiện trạng kỹ
thuật và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi lồng bè một số loài cá
biển có giá trị kinh tế tại Thành phố Hạ Long – Tỉnh Quảng Ninh”.
* Đề tài gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến nghề nuôi cá biển
lồng bè tại VHL – tỉnh Quảng Ninh.
- Điều tra hiện trạng kỹ thuật nuôi lồng bè một số loài cá biển tại VHL – tỉnh Quảng
Ninh.
- Điều tra kết quả sản xuất của nghề nuôi cá biển bằng lồng bè trên VHL – tỉnh
Quảng Ninh.
* Đề tài được thực hiện với các mục tiêu chính:
- Đánh giá thực trạng kỹ thuật nghề nuôi lồng bè một số loài cá biển có giá trị kinh
tế trên VHL – tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi cá biển lồng bè trên VHL – tỉnh
Quảng Ninh.
- Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật phù hợp để nâng cao năng suất các đối tượng
nuôi.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm căn cứ cho các nhà
khoa học và các nhà quản lý quy hoạch, cải tiến kỹ thuật nuôi phù hợp đối với nghề
nuôi cá biển lồng bè trên VHL.
- Ý nghĩa thực tiễn: kết quả của đề tài giúp cho cán bộ kỹ thuật và ngư dân trên
VHL thấy rõ được hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế - xã hội mà nghề nuôi cá
lồng bè mang lại. Từ đó có những giải pháp cụ thể giúp cho nghề nuôi cá biển lồng bè
trên VHL phát triển bền vững.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NUÔI CÁ BIỂN TRÊN THẾ GIỚI
Nuôi cá biển có từ lâu đời song nuôi cá biển phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu mới
phát triển vào những năm 1980 của thế kỷ XX. Trong những năm qua nghề nuôi cá
biển thực sự trở thành hướng đi rất quan trọng để phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Những thành tựu khoa học công nghệ nuôi mới như sản xuất giống nhân tạo, sản xuất
thức ăn công nghiệp và các trang thiết bị phục vụ cho nuôi cá biển được áp dụng nhanh
chóng giúp cho ngành công nghiệp nuôi cá biển phát triển rất nhanh và nó đã và đang
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho hầu hết các quốc gia có biển.
Theo thống kê của FAO, sản lượng cá biển nuôi năm 2002 của khu vực Thái
Bình Dương đạt khoảng 1 triệu tấn, giá trị 3,2 tỷ USD, tăng 240% so với năm 1990 và
chiếm 95% sản lượng nuôi cá biển của thế giới [24]. Cá biển luôn là nguồn thực phẩm
có giá trị cao, hầu hết các nước có biển đều mong muốn tăng nhanh sản lượng nuôi để
bù đắp sản lượng cá biển khai thác tự nhiên đang có xu hướng giảm sút. Theo các báo
cáo được công bố, nuôi cá biển sẽ phát triển nhanh và đạt sản lượng từ 3,5 – 4 triệu tấn
vào năm 2010 [13]. Các đối tượng nuôi quan trọng là: cá hồi sẽ đạt khoảng 2 triệu tấn
vào năm 2010, trong đó riêng Nauy sẽ đạt 1 triệu tấn, Chile khoảng 0,5 triệu tấn; các
loài cá quý hiếm như cá song, cá tráp, cá hồng, cá cam… sẽ được chú trọng phát triển
nuôi ở khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Địa Trung Hải. Sản lượng của nhóm cá này
ước tính sẽ đạt 0,5 – 0,6 triệu tấn vào năm 2010 [24].
Trung Quốc có lịch sử nuôi cá biển khá lâu, nhưng nuôi cá biển ở Trung Quốc
mới phát triển mạnh vào những năm đầu thế kỷ và hiện nay đang đứng đầu thế giới về
sản lượng cá biển nuôi. Năm 1979 thì chỉ có 1 vài lồng được nuôi ở Quảng Đông lưu
giữ các loài cá song để xuất khẩu tới Hồng Kông và Ma Cao. Sau đó nuôi cá biển tăng
lên khoảng 960.000 lồng phân bố chủ yếu ở Sơn Đông và Triết Giang…[33]. Sản
lượng cá biển của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng: năm 1990 sản lượng nuôi là
101.000 tấn, năm 1995 là 503.000 tấn chiếm khoảng 58% sản lượng nuôi của Châu Á,
năm 2004 là 526.000 tấn, năm 2005 là 660.000 tấn [41]. Sau 10 năm sản lượng nuôi cá
4
biển tăng gấp 5 lần nhưng giá trị nuôi cá biển của Trung Quốc lại không cao, tổng giá
trị nuôi năm 1999 chỉ đạt 962 triệu USD, giá trị trung bình của sản phẩm cá biển nuôi
thương phẩm chỉ đạt 1,91 USD/kg. Với sản lượng chiếm 20,5% tổng sản lượng cá biển
nuôi trên thế giới nhưng giá trị chỉ chiếm 11%. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ cá
biển lớn nhất thế giới và mục tiêu của họ chủ yếu là tiêu thụ nội địa. Trung Quốc sử
dụng lồng thông dụng (98%) là lồng gỗ nổi lên mặt nước có kích thước 3 x 3 x 3 m.
Sau đó khoảng 6 năm gần đây có các loại lồng bằng phao kích thước 6 x 6 x 6m và
kiểu lồng hình trụ có chu vi 60 – 100 m, sâu 8 – 12 m. Tuy nhiên, do còn hạn chế về
mặt kỹ thuật và chi phí cao, loại lồng cỡ lớn chưa được áp dụng phổ biến [40].
Nauy là cường quốc về nuôi cá biển trong 2 thập kỷ qua, là nước xuất khẩu cá
biển nuôi số 1 thế giới. Từ đầu những năm 1960 tại Nauy lồng bè đã được sử dụng để
nuôi cá hồi đại dương (Salmo salar) [14]. Đến thập kỷ 80, Nauy đã xác định nuôi cá
biển là mũi nhọn để phát triển kinh tế của đất nước, trong đó cá hồi là đối tượng chủ
đạo. Sau 20 năm liên tục nghiên cứu và phát triển, Nauy đã đạt tới đỉnh cao về nuôi cá
biển, sản lượng và giá trị liên tục tăng. Năm 1985 sản lượng nuôi đạt 40.000 tấn với giá
trị 53 triệu USD, năm 1990 đạt 146.000 tấn giá trị 776 triệu USD, năm 1995 đạt
250.000 tấn giá trị 1,018 tỷ USD, đến năm 2000 sản lượng nuôi đạt 420.000 tấn giá trị
1,35 tỷ USD. Sản phẩm cá hồi của Nauy rất đa dạng với 7 chủng loại từ 1kg/con đến
trên 7kg/con [41], chu kỳ nuôi rất khác nhau từ 2 – 6 năm. Cá hồi được nuôi trong lồng
đơn hình tròn là chủ yếu, ngoài ra còn nuôi trong các lồng hình chữ nhật xếp thành
từng khối hay nuôi trong các bể bê tông xây sát bờ biển. Điều đáng chú ý là mặc dù
nuôi cá ở quy mô công nghiệp tập trung mật độ cao nhưng về cơ bản vẫn giữ được độ
trong sạch cho môi trường nước biển và thành công của công nghệ vacxin nên 20 năm
nuôi liên tục cá hồi Nauy vẫn chưa bị dịch bệnh gây tổn hại lớn. Thị trường tiêu thụ cá
hồi của Nauy rất rộng lớn: EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc, Đài Loan và
một số nước Đông Nam Á. Theo kế hoạch phát triển, dự kiến đến năm 2010 sản lượng
cá hồi của Nauy sẽ đạt 1 triệu tấn, cá tuyết đạt 0,5 triệu tấn [33].
Sau thành công của Nauy, nuôi cá lồng biển ở khu vực Bắc Âu phát triển rất
mạnh mẽ, các loài nuôi chính vẫn là cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi vân. Phần lớn sản
5
lượng 2 đối tượng trên là ở Nauy, Scốtlen, Aixơlen, và đảo Faeroe, tuy nhiên một số
nước như Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Điển đang tiếp cận công nghệ nuôi này. Sản
lượng khu vực Bắc Âu năm 2004 đạt 800.000 tấn cá hồi Đại Tây Dương và 80.000 tấn
cá hồi vân [42].
Bảng 1.1: Sản lượng nuôi cá biển ở một số nước trên thế giới [35], [39], [41]
Stt Quốc gia Sản lượng (tấn) Năm
1 Trung Quốc 660.000 2005
2 Nhật Bản 261.000 2004
3 Inđônêxia 179.000 1999
4 Hàn Quốc 80.804 2003
5 Malaixia 10.547 2004
6 Philipin 171.000 1999
7 Canada 85.000 1999
8 Hy Lạp 79.000 2000
Nhật Bản là nước đứng thứ 3 thế giới về mặt cá biển nuôi, nhưng đứng đầu
trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, năng suất, hiệu quả và giá trị sản lượng. Nhật Bản là
nước đưa ra mô hình hiện đại về nuôi cá biển trong lồng ngay từ rất sớm (đầu thập kỷ
70), là nước cho đến nay sinh sản nhân tạo nhiều loài cá nhất và đang đi đầu trong lĩnh
vực nuôi cá ngừ vây vàng, cá ngừ vây xanh theo chu kỳ khép kín và lồng nuôi được đặt
ngay tại dòng hải lưu của Thái Bình Dương. Sản lượng năm 2000 của Nhật Bản đạt
245.566 tấn, năm 2001 đạt 252.173 tấn, năm 2002 đạt 260.373 tấn và năm 2003 đạt
264.858 tấn [42]. Nhìn chung sản lượng nuôi của Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2000
không tăng nhiều nhưng do nuôi nhiều loài cá quý hiếm như cá cam, cá chình Nhật
Bản, cá song nên đạt giá trị sản lượng cao, năm 1999 giá trị sản lượng nuôi cá biển của
Nhật Bản đạt 1,73 tỷ USD. Tuy nhiên do nhu cầu trong nước luôn cao nên hàng năm
Nhật Bản nhập rất nhiều các sản phẩm từ cá biển. Năm 2000 nhập khẩu 334 triệu USD
cá biển nuôi ở dạng sống (chủ yếu là cá chình từ Trung Quốc, cá song từ Đài Loan),
710 triệu USD cá hồi nuôi từ Nauy, Canada, Chile [33].
Chile là nước trước đây nghề cá khá đơn điệu chỉ tập trung vào khai thác cá nổi
có giá trị thấp. Do có bờ biển khúc khuỷu, nhiều eo ngách, vịnh, khí hậu ôn hòa, nước
biển trong sạch rất thích hợp trong việc phát triển các loài cá ôn đới. Chính vì vậy
6
Chile đã chọn mô hình nuôi cá hồi Đại Tây Dương của Nauy và cá hồi Thái Bình
Dương của Nhật Bản làm đối tượng nuôi chính. Bắt đầu từ những năm 80, nhưng chỉ
vài năm sau nuôi cá biển ở Chile đã có những tiến bộ vượt bậc, sau 10 năm phát triển
Chile đã trở thành cường quốc đứng thứ 4 thế giới về sản lượng, thứ 3 về giá trị và thứ
nhì thế giới về xuất khẩu. Ngoài 2 đối tượng trên Chile còn phát triển mạnh mẽ nghề
nuôi cá hồi sông với sản lượng đạt 50.000 tấn vào năm 2000 [24]. Khi áp dụng công
nghệ nuôi cá lồng của Nauy và Nhật Bản họ không dập khuân mà sáng tạo xây dựng
thành mô hình riêng của mình. Lợi dụng địa hình thuận lợi, họ tiến hành quây lưới ở
các eo ngách, vịnh nhỏ rồi nuôi cá hoặc đào các ao dọc biển để nuôi cá hồi, hạn chế
nuôi cá trong lồng. Chile lại có công nghiệp chế biến bột cá rất phát triển đạt tiêu chuẩn
cao nên thức ăn cho nuôi cá biển ở Chile có giá thành thấp. Đây chính là lợi thế nên
Chile có giá thành cá biển thấp nhất thế giới dẫn đến xuất khẩu đạt lợi nhuận cao [33].
Sau Nhật Bản, Đài Loan phát triển nuôi cá biển từ rất sớm và có nhiều đóng góp
quan trọng cho sự tiến bộ của nghề nuôi cá biển của thế giới. Hiện nay tại Đài Loan
đang nuôi khoảng 20 loài cá biển và hầu hết đều được sinh sản nhân tạo thành công
(trừ cá chình). Vào những năm 1960, ngoài việc cho sinh sản nhân tạo thành công loài
cá Hồi (Salmo gairrdreri), Đài Loan tiếp tục đạt được thành công trong sinh sản nhân
tạo một số loài cá khác như: cá đối mục (Mugil cephalus), cá măng biển (Chanos
chanos), cá vền đen (Acanthopagrus schlegeli), cá vền đỏ (A. major) (1970), cá vền
vàng (A. lates), cá chẽm Nhật Bản (Lateobrax japonicus) (1980) Hiện nay, Đài Loan
đang tập trung phát triển nghề nuôi cá lồng trên biển để hạn chế những tác động bất lợi
của môi trường do việc mở rộng diện tích và các hình thức nuôi trong ao. Tính đến
năm 2000, có khoảng 1.500 lồng, trong đó khoảng 80% số lồng được sử dụng để nuôi
cá Giò (R. canadum), số lồng còn lại được sử dụng để nuôi các đối tượng: cá mú chấm
đỏ (E. coioides), cá hồng (L. erythropterus), cá hồng bạc (L. argentimaculatus) và cá
tráp đỏ (Pagrus major). Năm 1990 sản lượng cá chỉ đạt 103 tấn, năm 1997 sản lượng
đã tăng gấp 7 lần, đạt 873 tấn, và đến năm 1998 tăng gấp 3 lần đạt 2.673 tấn, trong đó
cá giò chiếm 50% tổng sản lượng, đạt 1.500 tấn [40]. Đài Loan có trình độ cao về khoa
học công nghệ nuôi cá biển đặc biệt là sinh sản nhân tạo. Hình thức nuôi cá biển của
7
Đài Loan cũng đa dạng nhưng chủ yếu nuôi trong ao đất (bờ đúc xi măng) và có hệ
thống lồng hiện đại chịu được sóng gió lớn. Từ đầu những năm 1990, Đài Loan còn
xuất khẩu cá giống đi hầu hết các nước Châu Á [33].
Ở khu vực Trung Âu, năm 1970, Pháp thành công trong việc nghiên cứu sản
xuất cá tráp Châu Âu, cuối năm 1980 Italia thành công trong việc sinh sản nhân tạo cá
mú Địa Trung Hải. Đến năm 2002 tổng số cá giống của 2 đối tượng này đạt 650 triệu
con [24].
Ở khu vực Địa Trung Hải, Hy Lạp là nước đứng đầu có nghề nuôi cá biển phát
triển nhờ tiếp cận kỹ thuật sản xuất giống tiến bộ của Pháp, Italia, Anh, Nauy, Nhật
Bản. chỉ sau một thời gian ngắn, họ đã thành công trong khâu cho cá sinh sản nhân tạo,
sản xuất được cá giống chất lượng cao, công nghệ nuôi được phát triển nhanh chóng.
Năm 2000 sản lượng nuôi đạt 79.000 tấn, giá trị 491 triệu USD, sau 10 năm phát triển,
năm 2000 Hy Lạp trở thành cường quốc số 1 thế giới về nuôi cá tráp Châu Âu: 35.000
tấn và cá mú Địa Trung Hải: 44.000 tấn. Thành công của Hy Lạp về nuôi cá biển đã trở
thành phong trào nuôi cá biển rầm rộ ở các quốc gia ven Địa Trung Hải như Tây Ban
Nha, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ… đều đưa các đối tượng trên vào nuôi và đã cho kết quả tốt.
Sản lượng năm 1995 ở khu vực này đạt 34.700 tấn, năm 2000 đạt 100.000 tấn, năm
2004 đạt 175.000 tấn [35]. Tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 17%. Kích cỡ nuôi
thương phẩm 2 đối tượng (cá tráp Châu Âu và cá mú Địa Trung Hải) tại khu vực này
giao động trong khoảng 300 – 400 gam với thời gian nuôi từ 12 – 20 tháng. Mục tiêu
của Hy Lạp là nuôi cá biển xuất khẩu, hơn 70% sản lượng được xuất khẩu sang các
nước EU. Cỡ cá xuất khẩu rất đa dạng từ 250 – 700 gam/con. Cá được chế biến dưới
dạng cá đông nguyên con, cá tươi nguyên con, cá phi lê. Mặc dù giá cá thương phẩm
liên tục rớt giá: cá tráp Châu Âu từ 16,7 USD/kg năm 1990 xuống còn 10,5 USD năm
1994 và 6,5 USD năm 1999 nhưng nghề nuôi cá biển Hy Lạp vẫn đứng vững và phát
triển ổn định do luôn cải tiến công nghệ nuôi, quản lý, tăng cường tiếp thị hơn nữa đầu
vào luôn được giảm một cách hợp lý nên nghề nuôi vẫn phát triển vững chắc [33].
Các nước Đông Nam Á chưa có nghề nuôi cá biển phát triển như các nước ở
khu vực trên. Thái Lan là nước có điều kiện tự nhiên, môi trường biển gần giống với
8
Việt Nam, thế nhưng nghề nuôi cá biển đã phát triển từ hơn 2 thập kỷ qua, sản lượng
tăng một cách ổn định, với hai đối tượng nuôi chính là cá mú (Epinephelus spp) và cá
chẽm (Lates calcarifer). Từ năm 1988 đến năm 1996 sản lượng cá chẽm đạt từ 654 -
2.998 tấn, cá mú đạt từ 357 - 723 tấn [10]. Hiện nay Thái Lan đang sản xuất hơn 100
triệu cá giống hàng năm, trong đó trạm thuỷ sản Satul sản xuất hơn 30 triệu cá giống
[11]. Tuy nhiên từ sau năm 2000, do sự cạnh tranh của cá tráp Châu Âu, sự thành công
của Trung Quốc và các nước khác trong sản xuất giống và nuôi cá vược, giá cá vược
giảm nhanh làm cho nghề nuôi cá vược của Thái Lan bị đình chệ. Philippin là nước dẫn
đầu thế giới về nuôi cá măng biển (Chanos chanos) và đang tiếp tục phát triển tuy giá
trị cũng đang ngày càng giảm sút. Sản lượng cá măng năm 2005 của Philippin trên
37.000 tấn. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu còn khá hạn chế [33]. Tại Indonesia, các
lồng nổi bằng tre hay gỗ cũng đã được sử dụng để ương nuôi cá giống được đánh bắt tự
nhiên ngoài hồ từ những năm 1920. Ngay cả cá rô phi thuộc dòng Oreochromis cũng
đã được trường đại học Auburn đưa vào nuôi trong lồng từ cuối những năm 1960 [36].
1.2. HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ BIỂN TẠI VIỆT NAM
Với bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km
2
, có trên 3.000
hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều eo vịnh, điều kiện tự nhiên thuận lợi, đối tượng cá nuôi
phong phú: cá mú, cá hồng, cá cam, cá tráp, cá giò, cá vược… đều phân bố ở biển Việt
Nam nhưng nuôi cá biển ở Việt Nam chỉ mới được quan tâm nghiên cứu từ gần 10 năm
nay. Khởi đầu nuôi cá biển ở Việt Nam là những lồng giữ cá giống bắt từ tự nhiên để
bán cho khách du lịch ở tỉnh Khánh Hòa và Quảng Ninh. Đến năm 1995, Việt Nam
mới bắt đầu nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi cá biển. Sau hơn 10 năm,
nuôi cá biển ở Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định [33].
- Xuất phát từ tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nhu cầu của thị trường tiêu thụ cá
biển trong và ngoài nước, phương án 3 của Chương trình 224 của Chính phủ đặt mục
tiêu 200.000 tấn cá biển trong tổng số 1,13 triệu tấn của nuôi trồng hải sản nước mặn,
nước lợ nói chung vào năm 2010. Tuy nhiên đến năm 2008 sản lượng cá biển mới chỉ
đạt 5.029 tấn [27], do vậy mục tiêu đến năm 2010 đạt 200.000 tấn cá biển là rất khó
thành hiện thực [33].
9
- Năm 2001 tổng số lồng nuôi trên biển là 3.990 lồng, sản lượng đạt 2.150 tấn, một
số địa phương đã đưa cá biển vào nuôi trong ao đất như ở Cam Ranh – Khánh Hòa đạt
sản lượng trên 100 tấn với 71 ha nuôi [20], năm 2002 tổng số lồng nuôi 4.077 chiếc sản
lượng cá nuôi đạt 2.626 tấn, trong đó miền Bắc đạt 599 tấn; Nam Trung Bộ đạt 919
tấn, miền Nam đạt 1.108 tấn [21].
- Theo báo cáo của Bộ Thủy sản [22], năm 2005 hình thức nuôi cá lồng trên biển đã
phát triển ở các tỉnh ven biển Vịnh Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng Ninh, ven biển miền
Trung: Đà nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, ven biển phía Nam Bà Rịa –
Vũng Tàu, Kiên Giang. Tổng số lồng bè nuôi cá biển là 7.115 chiếc, sản lượng đạt
3.556 tấn.
Bảng 1. 2: Sản lượng và số lượng lồng nuôi cá biển tại Việt Nam năm 2001 - 2005 [23]
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Số lượng lồng (ô lồng) 3.990 4.077 6.801 6.856 7.115
Sản lượng (tấn) 2.150 2.626 2.327 2.769 3.556
- Theo số liệu của Bộ Thủy Sản và Ngân hàng Thế giới (Tháng 09/2006), số lồng
nuôi cá biển ở Việt Nam năm 2006 là 16.319 ô lồng với sản lượng 5.010 tấn. Từ năm
2006 – 2007, một số doanh nghiệp nước ngoài nuôi cá biển ở Phú Yên, Khánh Hòa
như Công ty Marine – Farm, công ty An Hải… nuôi cá giò, cá song… Chỉ tính riêng
sản lượng của các công ty này ước tính khoảng 1.200 tấn [33].
1.3. TÌNH HÌNH NUÔI CÁ LỒNG BÈ TRÊN BIỂN TẠI QUẢNG NINH
1.3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VHL
1.3.1.1. Vị trí địa lý
VHL (VHL) là vùng biển đảo nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận
tỉnh Quảng Ninh có tọa độ từ 106
o
56’ đến 107
o
37’ kinh độ Đông và 20
o
43’ đến 21
o
09’
vĩ độ Bắc. Phía Tây và Tây Bắc VHL kéo dài từ huyện Yên Hưng, qua thành phố Hạ
Long, thị xã Cẩm Phả đến hết phần huyện đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam
giáp vịnh Bắc Bộ; phía Tây Nam và Tây giáp đảo Cát Bà (TP. Hải Phòng). Trên bản đồ
thế giới, phía bắc VHL tiếp giáp với Trung Quốc; phía đông VHL tiếp giáp với Biển
Đông [30].
10
Năm 1962, VHL được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích danh thắng cấp
quốc gia với diện tích 1.553 km
2
với 1.969 hòn đảo. Khu trung tâm VHL với diện tích
434 km
2
và 775 hòn đảo có giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất địa mạo được
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (chữ viết tắt tiếng Anh là
UNESCO) 2 lần công nhận là di sản thiên nhiên thế giới (năm 1994 và năm 2000) [30].
1.3.1.2. Đặc điểm địa hình
VHL có quá trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm nhờ sự kết
hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và quá trình nâng
kiến tạo chậm chạp trên tổng thể, với nhiều dạng địa hình carxtơ kiểu Phong Tùng gồm
một cụm đá vôi thường có hình chóp nằm kề nhau có đỉnh cao trên dưới 100 m, cao
nhất khoảng 200 m; hoặc kiểu Phong Linh đặc trưng bởi các đỉnh tách rời nhau tạo
thành các tháp có vách dốc đứng, phần lớn các tháp có độ cao từ 50 - 100 m. Tỉ lệ giữa
chiều cao và rộng khoảng 6 m.
Cánh đồng carxtơ của Hạ Long là lòng chảo rộng phát triển trong các vùng
carxtơ có bề mặt tương đối bằng phẳng, thường xuyên ngập nước, được tạo thành theo
những phương thức: hoặc nhờ kiến tạo liên quan các hố sụt địa hào; hoặc nhờ sụt trần
của các thung lũng sông ngầm, hang động ngầm; hoặc cũng có thể nhờ tồn tại các tầng
đá không hòa tan bị xói mòn mạnh mẽ nằm giữa vùng địa hình carxtơ cao hơn vây
quanh mà thành.
VHL còn bao gồm địa hình carxtơ ngầm là hệ thống các hang động đa dạng trên
Vịnh, được chia làm 3 nhóm chính: nhóm 1 là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là
hang Sửng Sốt, động Tam Cung, động Lâu Đài, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên
Long, Nhóm 2 là các hang nền carxtơ tiêu biểu là Trinh Nữ, Bồ Nâu, Tiên Ông,
Hang Trống Nhóm 3 là hệ thống các hàm ếch biển mà tiêu biểu như 3 hang thông
nhau ở cụm hồ Ba Hầm, hang Luồn, Ba Hang…
1.3.1.3. Khí hậu
VHL là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm với
nhiệt độ khoảng 27 - 32°C và mùa đông khô lạnh với nhiệt độ 16 - 18°C, nhiệt độ trung
bình năm dao động trong khoảng 15 - 25°C. Lượng mưa trên VHL vào khoảng từ
11
2.000 mm – 2.200 mm với khoảng trên 300 mm vào mùa nóng nhất trong năm (từ
tháng 6 đến tháng 8) và dưới 30 mm vào mùa khô nhất trong năm (từ tháng 12 đến
tháng 2 năm sau).
Bảng 1.3: Nhiệt độ, lượng mưa, số giờ nắng, độ ẩm trung bình của tỉnh Quảng Ninh
năm 2006 [26]
Tháng Nhiệt độ (
0
C) Lượng mưa (mm)
Giờ nắng (giờ) Độ ẩm (%)
1 16,5 3,1 71,0 79
2 17,7 36,9 38,4 87
3 19,1 62,1 28,1 88
4 24,0 27,9 98,6 86
5 26,3 125,1 142,1 82
6 28,5 245,1 150,9 87
7 28,8 591,7 164,4 85
8 27,5 628,5 129,8 88
9 27,1 61,1 195,3 77
10 26,3 36,4 173,3 82
11 23,4 86,3 158,2 79
12 18,1 2,5 133,3 71
Cả năm 1.906,3 1,483,5 994
Trung bình tháng 23,6 158,9 123,6 83
1.3.1.4. Thủy văn
- Chế độ thủy triều: nhật triều, biên độ cực đại tới 360 cm, tốc độ dòng triều
trung bình 0,3 - 0,5 m/s.
- Trong Vịnh hiếm khi có sóng cao tới 1 m. Sóng với độ cao 0,25 m chiếm tới
85% thời gian trong năm. Có hai sông đổ vào Vịnh là sông Diễn Vọng và sông Trới.
- Hệ thủy triều tại VHL rất đặc trưng với mức triều cường vào khoảng 3,5 – 4
m/ngày. Độ mặn trong nước biển trên vùng vịnh dao động từ 31‰ đến 34.5‰ vào mùa
khô nhưng vào mùa mưa, mức này có thể thấp hơn [30].
1.3.2. Một số yếu tố môi trường ảnh hưởng đến nghề nuôi cá biển lồng bè
1.3.2.1. Thủy triều
Thủy triều ở VHL thuộc chế độ nhật triều đều điển hình với hầu hết số ngày
trong tháng chỉ có một lần nước lớn và một lần nước ròng. Trong 1 tháng có hai kỳ
triều cường với cường độ cao, mực nước trung bình đạt 3,9 m và hai kỳ triều kiệt với
12
mực nước trung bình đạt 1,9 – 2 m. Biên độ triều cực đại ở đây lên tới 4 m, mực nước
trung bình đạt 2,06 m. Thủy triều có ảnh hưởng khá quan trọng đến nguồn lợi hải sản
trong biển. Nhiều sinh vật lợi dụng lúc thủy triều lên và xuống để tiến hành các hoạt
động kiếm mồi hay sinh sản [29],[4].
1.3.2.2. Sóng
VHL là một vực nước tương đối kín, không gian vịnh lại không lớn (đà sóng
nhỏ, sóng gây bởi gió không có điều kiện phát triển), lại có nhiều đảo xen kẽ nên ảnh
hưởng của sóng từ ngoài biển vào là không lớn. Độ cao sóng trung bình 1.5 – 2 m vào
mùa hè vào khoảng 0,5 m vào mùa đông [12], [37].
1.3.2.3. Dòng chảy
Dòng chảy là yếu tố cần phải được cân nhắc trước khi nuôi lồng bè. Dòng chảy
ở VHL là dòng chảy tổng hợp của dòng chảy sông, dòng chảy gió và dòng triều, trong
đó dòng triều là thịnh hành và mang tích chất thuận nghịch. Hướng dòng chảy cũng
khác nhau giữa trong và ngoài vịnh [29], [5]. Do VHL là một vực tương đối kín, không
gian vịnh cũng hẹp nên tốc độ dòng chảy trong vịnh tương đối thấp (khoảng 0,1 m/s).
Đây là một trong những lý do VHL được coi là thích hợp cho nuôi cá lồng bè.
1.3.2.4. Độ mặn
Độ mặn là yếu tố giới hạn của nhiều loài sinh vật và đa số cá biển đều cần môi
trường sống có độ mặn cao và ổn định. Nếu độ mặn thay đổi một cách đột ngột sẽ làm
cho nhiều đối tượng nuôi bị xốc, thậm chí bị chết. Độ mặn nước biển trung bình năm ở
vùng nay dao động khoảng 20‰ - 31‰. Khu vực giữa vịnh và đáy vịnh có độ mặn cao
và tương đối ổn định, khoảng 31‰. Độ mặn nước VHL cũng thay đổi khác nhau theo
mùa [12]. Nhìn chung, độ mặn phân bố theo hướng tăng dần từ bờ ra khơi và từ Bắc
xuống Nam Vịnh [28],[37].
1.3.2.5. Độ pH
Cùng với nhiệt độ, độ pH có vai trò rất quan trọng đối với quá trình sinh hóa
trong môi trường nước. Độ pH quá thấp hay quá cao đều ảnh hưởng bất lợi tới các loài
sinh vật nuôi, thậm chí có thể gây chết. Nước biển VHL có tính kiềm yếu (pH = 7,5 –
8,5) và thường ổn định (nếu không gần nguồn thải công nghiệp lớn). Tuy nhiên, nếu tại
các nguồn nước thải khác nhau sẽ có giá trị pH khác nhau [34].
13
1.3.2.6. Nhiệt độ nước biển
Các loài thủy sản và sinh vật biển trong chuỗi thức ăn của vực nước VHL rất
nhạy cảm đối với nhiệt độ. Mỗi loài sinh vật chỉ có khả năng phát triển tốt trong một
khoảng nhiệt độ nhất định phù hợp với tập tính sinh thái của chúng và nhiệt độ cũng
ảnh hưởng đến tốc độ và các dạng phân hủy các hợp chất hữu cơ trong nước [28].
Thông thường các đối tượng sinh vật biển phát triển tốt trong ngưỡng nhiệt độ cao
khoảng 25 – 30
o
C [38]. Tại VHL, nhiệt độ nước biển trung bình 25 – 29
o
C từ tháng 5 –
11 và 15 – 23
o
C vào những tháng khác [2], [37]. Nhiệt độ có xu hướng giảm dần từ
Bắc và Nam và từ bờ ra khơi.
1.3.2.7. Muối dinh dưỡng
Các muối dinh dưỡng vô cơ trong nước VHL như photphat (PO
4
3-
), photphat
tổng số (P), amonia (NH
3
), nitrit (NO
2
ˉ
), nitrat (NO
3
ˉ
) là những muối dinh dưỡng quan
trọng với quá trình phát triển, sinh trưởng của sinh vật và quyết định năng suất thủy
vực. Các muối dinh dưỡng thường rất cần thiết cho thủy vực, nhưng khi vượt quá giới
hạn sẽ gây hiện tượng “phù dưỡng” làm giảm lượng DO trong nước, ảnh hưởng tới các
sinh vật sống trong đó, làm mất cân bằng sinh thái trong thủy vực [37]. Các muối dinh
dưỡng trong nước được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: chủ yếu từ các loại phân
bón, sự phân hủy các chất hữu cơ, lượng thức ăn dư thừa không được hấp thụ hết, các
chất thải của sinh vật và xác sinh vật… nhìn chung, hàm lượng của muối dinh dưỡng
trong tầng nước mặt cao hơn ở tầng đáy ở vùng ven bờ cao hơn vùng xa bờ. Hàm
lượng NH
4
+
từ 12,1 – 93,7 µgN/L hàm lượng PO
4
3ˉ
thay đổi từ 7,3 – 32,9 µgN/L [2].
1.3.2.8. Oxy hòa tan (DO)
Oxy hòa tan là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường nước: cần
thiết cho quá trình trao đổi chất của các loài sinh vật sống trong môi trường nước, cung
cấp oxy cho các quá trình chuyển hóa vật chất trong thủy vực. Chính nhờ các quá trình
chuyển hóa vật chất trong thủy vực mà các chất thải (trong một giới hạn nhất định) sẽ
được chuyển thành các chất dễ bay hơi, không gây ô nhiễm hay các chất dễ dàng được
các sinh vật hấp thụ (khả năng tự làm sạch của thủy vực). Trong biển, nhờ có sóng, gió
và thủy triều nên khả năng khuếch tán oxy không khí vào nước biển khá lớn, trung
14
bình khoảng 4 – 5 mg/L. Nguồn cung cấp oxy trong nước còn do quá trình quang hợp
của tảo nên DO thường biến động theo quy luật ngày đêm [2],[34].
1.3.2.9. Các nguồn gây ô nhiễm nước biển VHL
* Thủy văn sông và ô nhiễm nước sông
VHL chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sông đổ vào vụng Bãi Cháy, gồm: sông
Diễn, sông Trới, sông Mỹ, sông Mãn, sông Oai Vũ, sông Yên Lập… Đặc điểm chính
của các sông nay là lòng sông nhỏ, độ dốc lớn, chiều dài lòng sông ngắn nên tốc độ
dòng chảy, lưu lượng ít, biến đổi mạnh theo mùa, khí hậu [28], [5]. Nằm trong khu vực
có địa hình tương phản, chịu nhiều sức ép của các hoạt động của con người, nên tỷ lệ
xói mòn đất tăng nhanh. Khi mưa tất cả các lớp đất đá, chất thải đều bị rửa trôi. Cùng
với lượng bồi tích nói trên, một lượng lớn nước thải, hóa chất, phân bón hóa học, thuốc
trừ sâu hòa tan từ nội địa được đổ vào các dòng sông gây ô nhiễm nghiêm trọng [6].
* Các hoạt động kinh tế làm ảnh hưởng đến điều kiện môi trường trên VHL
- Công nghiệp và chất thải công nghiệp
Hầu hết các khu công nghiệp ở Quảng Ninh đều tập trung ở dải ven biển cảng
than, dầu và vận tải biển, các nhà máy chế biến và khu chế xuất,… do sản xuất còn ở
trình độ công nghệ lạc hậu, thiết bị xử lý chất thải chưa được chú trọng và thiếu sự
quản lý chặt chẽ về môi trường nên đã gây ô nhiễm nặng ở một số khu vực, số khu ven
bờ [5].
Quá trình khai thác mỏ cũng tạo ra một lượng lớn vật chất lơ lửng làm giảm độ
trong, tăng độ đục, gây ảnh hưởng đến khả năng quang hợp của thực vật trong nước
VHL. Nghiêm trọng hơn khi nó lắng đọng xuống trầm tích sẽ ảnh hưởng mạnh đến sự
phát triển của các hệ sinh thái biển như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển,…
[4], [37]. Hoạt động tàu thuyền và các vụ tai nạn trên biển đã gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về môi trường như ô nhiễm dầu, chất thải sinh hoạt từ tàu thuyền,…
- Hoạt động phát triển du lịch
Do đặc thù của du lịch Hạ Long là du ngoạn trên vịnh và tham quan các đảo, do
đó việc mở rộng các hoạt động du lịch sinh thái gây sức ép lớn tới môi trường VHL
[30]:
+ Một lượng lớn chất thải bao gồm các loại chất thải rắn và nước thải sinh hoạt
chưa được xử lý đồng bộ thải vào môi trường;
15
+ Ô nhiễm chất dinh dưỡng ảnh hưởng đến chất lượng nước, sự sống của các
loài thuỷ sinh, làm thay đổi hệ sinh thái;
+ Ý thức bảo vệ môi trường của du khách còn thấp;
+ Quá trình lấn biển để phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch làm thu hẹp
diện tích và phá huỷ một số hệ sinh thái ven bờ Vịnh;
+ Bên cạnh đó, ngành du lịch phát triển còn kéo theo một loạt các loại hình dịch
vụ khác cũng góp phần gây ô nhiễm VHL như: quá tải các phương tiện vận chuyển
khách du lịch trên Vịnh, tăng đột biến các hoạt động kinh doanh nhà bè, phá huỷ các
rạn hô làm quà lưu niệm bán cho khách du lịch…
- Quá trình đô thị hoá
Trong những năm gần đây, tại Hạ Long - Thành phố ngay bên bờ Di sản, cùng
với sự phát triển của các ngành công nghiệp, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ. Do
đặc điểm của Hạ Long nhiều đồi núi nên việc mở rộng thành phố sẽ phát triển theo
chiều dài (hướng Đông - Tây) và lấn biển. Toàn bộ khu vực từ Yên Cư tới Cẩm Phả
phía bên biển là đất lấn vịnh với hàng ngàn hecta. Cộng với sự gia tăng của dân số thì
đây là một sức ép rất lớn đối với VHL [30]:
+ Diện tích các bãi triều bị thu hẹp, rừng ngập mặn bị phá huỷ, làm giảm sự đa
dạng của các hệ sinh thái ven biển.
+ Thay đổi kết cấu đất ven bờ vịnh, tăng nguy cơ xói lở, bồi lắng, tăng độ đục
của nước.
+ Ảnh hưởng đến cảnh quan bờ vịnh, phát sinh tiếng ồn, nồng độ bụi…
- Hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản
Theo dữ liệu của sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 1972 khi chưa
có nhiều hoạt động nuôi trồng thuỷ sản thì diện tích rừng ngập mặn ở Quảng Ninh là
39.400 ha nhưng đến năm 1996 thì chỉ còn 12.670 ha [30].
+ Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đã làm giảm đáng kể diện tích rừng ngập mặn,
thay đổi chế độ thuỷ văn, mất cân bằng sinh thái.
+ Nước thải của các ao nuôi trồng thuỷ sản (lượng thức ăn thừa, thuốc kháng
sinh…) làm thay đổi tính chất hoá học của nước và là nguyên nhân gây ô nhiễm hữu cơ
tầng nước ven bờ.
+ Các hoạt động đánh bắt thuỷ sản quá mức, đánh bắt bằng một số phương pháp
mang tính huỷ diệt như đánh cá bằng xung điện, hoá chất độc, chất nổ, lưới mắt nhỏ…
làm suy thoái nguồn lợi biển, giảm tính đa dạng sinh học.
- Một số hoạt động khác
16
Một thực tế đáng lo ngại đối với môi trường VHL đó là hiện tượng bùng nổ các
nhà bè. Theo thống kê vào tháng 9/2005 của đoàn kiểm tra liên ngành (Phòng kinh tế –
UBND thành phố Hạ Long; Phòng cảnh sát giao thông đường thủy; Sở thủy sản; Sở
KHCN&MT; Ban quản lý VHL) thì tổng số nhà bè neo đậu trên vịnh là 537 nhà bè với
1.762 nhân khẩu, đến tháng 3/2007 số nhà bè neo đậu trên VHL là 618 bè, với tổng số
nhân khẩu là 2.214 người (tăng 11,4% so với năm 2005) trong đó có hơn một nửa dùng
nuôi trồng thuỷ sản, số còn lại dùng để cư trú, kinh doanh dịch vụ. Sự phát triển không
kiểm soát được của các nhà bè trên vịnh đã gây ra những bất ổn về mặt môi trường, an
ninh xã hội [30]:
+ Trong số 393 bè nuôi trồng thuỷ sản thì chỉ có 2 doanh nghiệp lớn là Công ty
ngọc trai Hạ Long và Nhà hàng Biển Mơ là có hệ thống thu gom chất thải, còn các nhà
bè khác, chất thải lại là đổ trực tiếp xuống biển.
+ Hầu hết các nhà bè của ngư dân đều không có các biện pháp thu gom và xử lý
chất thải. Một lượng lớn chất thải từ các nhà bè không được xử lý đổ trực tiếp ra VHL,
nguy hiểm hơn là trong đó có các chất thải độc hại, khó phân huỷ như dầu máy, dầu
DO, xỉ than…
+ Việc neo đậu các nhà bè sai vị trí ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường Di
sản.
1.3.2.10. Hiện trạng môi trường VHL
Cụ thể chất lượng môi trường nước tại các điểm nuôi được quan trắc trong khu
vực nuôi có những đặc điểm sau [30]:
- Nhiệt độ nước dao động trong khoảng 25,1 - 26,9
0
C; độ muối từ 31,5 đến
33,5‰; Hàm lượng DO khoảng 4,8 - 6,8 mg /L, trung bình 5,7 mg/L; Giá trị pH 7,98 -
8,13; Độ đục 2,0 - 27,0 NTU; Độ sâu 1,9 -19,7 m; Độ trong dao động từ 0,8 đến 3,1 m.
- Các muối dinh dưỡng có hàm lượng thấp nằm trong khoảng an toàn cho hoạt
động nuôi hải sản, tuy nhiên một số điểm nuôi cá lồng bè ở khu vực Vông Viêng, làng
chài Cửa Vạn có hàm lượng các muối dinh dưỡng khá cao.
- Hàm lượng dầu mỡ tại các điểm quan trắc thấp nhất là 0,143 mg/L - cao nhất
đạt 0,477 mg/L (ở khu nuôi trai cấy ngọc, khu nuôi cá lồng bè gần luồng tàu chạy ở
Núi Đất), trung bình cũng vượt giới hạn cho phép (0,3 mg/L) là 3,6 lần.
- Hàm lượng CN
-
trong khu vực dao động trong khoảng 1,679 - 2,736 mg/L,
trung bình 2,114 mg/L (cao hơn tiêu chuẩn của Bộ Thủy sản 2006 là 0 mg/L).