Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.93 KB, 53 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Bích đã
nhiệt tình hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo của Khoa Văn học,
trường Đại học KHXH & NV và các thầy cô giáo của Khoa Sư phạm, Đại học
Quốc gia Hà Nội, đã nhiệt tình giảng dạy tôi trong suốt 4 năm học
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô và các em học
sinh của trường THPT Kim Liên và THPT Cao Bá Quát (Hà Nội) đã ủng hộ, giúp
đỡ tôi trong quá trình thực tập và tiến hành nghiên cứu khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn bố mẹ đã động viên, khích lệ tôi, tạo điều kiện
tốt nhất để tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tôi xin cảm ơn những người bạn
tốt đã tin tưởng, cùng tôi chia sẻ, vượt qua những khó khăn trong học tập và cuộc
sống.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2007
Tác giả
Trương Thị Thùy Linh
1
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính
yếu trong trường THPT. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về sự chính xác tương
đối, sự phụ thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và
học Ngữ văn luôn được quan tâm đặc biệt. “Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở
THPT là trên cơ sở đã đạt được của chương trình Ngữ văn THCS, bồi dưỡng
thêm một bước năng lực Ngữ văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc hiểu các
văn bản thông dụng (văn, thơ, truyện), năng lực viết một số văn bản thông
dụng…đồng thời cung cấp một hệ thống tri thức về văn học dân tộc và văn học
thế giới” [1, tr.78]. Học sinh luôn tiếp xúc trước hết với văn bản và chính vì thế


mà định hướng phương pháp đọc hiểu là vô cùng cần thiết.
1.2. Hoạt động đọc của học sinh hiện nay đã trở thành trọng tâm khi
bình giá, phân tích, cắt nghĩa tác phẩm văn chương. Trong cuốn Phương pháp
dạy văn học ở trường phổ thông, A. Nhikônxki cho rằng “học sinh là độc giả
tác phẩm văn học” [41, tr.35]. Vấn đề đọc hiểu cũng đã được đề cập đến trong
Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức lần 4 tại Bristane-Australia với
tiêu đề “Focus on Comprehension”. Mỗi nền văn học, mỗi thể loại , giai đoạn
văn học khác nhau lại cần có những đặc trưng về kĩ năng đọc hiểu riêng. Phần
Văn học nước ngoài trong SGK cũng là một phần quan trọng nhưng vốn không
được giáo viên chú ý nhiều trong giảng dạy. Dạy bản dịch như nguyên tác,
không tính đến sự hỗ trợ của các yếu tố khác , đó chính là nguyên nhân dẫn tới
sự hiểu sai lệch nghiêm trọng. Nguyễn Thanh Hùng đã viết “Dạy đọc hiểu là nền
tảng văn hóa cho người đọc” [25, tr.13]. Điều này đặc biệt đúng khi áp dụng vào
giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngoài.
1.3. Khi xét nội dung của tác phẩm cần tìm hiểu một cách tương đối kĩ về
những kinh nghiệm văn hóa lịch sử, phát hiện được những mối tương đồng tạo
điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Từ trước đến nay trong nhà trường
việc dạy văn học nước ngoài áp dụng qui trình và phương pháp như dạy văn học
Việt Nam, trong khi đó về phương diện lí luận chúng ta coi tính dân tộc như một
2
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuộc tính. Việc dạy đọc hiểu để khám phá, để hiều đúng văn bản chính là một
yêu cầu quan trọng trong quá trình giảng dạy phần văn học nước ngoài nói
chung và các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11 nói riêng.
1.4. Bộ SGK lớp 10 Nâng cao vốn bao gồm 2 bài học “Đọc hiểu văn bản
văn học” và “Đọc hiểu văn bản trung đại” nhưng thiết nghĩ như thế vẫn chưa đủ
để có thể giúp học sinh khái quát kiến thức và áp dụng cho mọi loại văn bản, đặc
biệt là văn bản văn học nước ngoài với nhiều khó khăn và rào cản về ngôn ngữ,
văn hóa. Các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11, mỗi tác phẩm đều

có rất nhiều vấn đề cần chú ý, vì thế việc xây dựng được qui trình và phương
pháp đọc hiểu hợp lí chính là chìa khóa để hiểu đúng và sâu những vấn đề cốt
lõi của tác phẩm.
Từ những lí do như trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Phương pháp
dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài này là hình thành phương pháp và qui trình
dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. Qua đó, giáo viên
có thể có cái nhìn bao quát về quá trình giảng dạy đọc hiểu đối với tác phẩm văn
học nước ngoài; đồng thời học sinh có được phương pháp đọc hiểu cơ bản khi
tiếp xúc với những văn bản này, nhờ vậy tránh được những cách hiểu sai lệch
vấn đề trọng tâm trong các tác phẩm.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy đọc hiểu
- Khách thể nghiên cứu: Các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ
văn 11.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Chương trình SGK Ngữ văn 11
+ Học sinh : Lớp 11A4 THPT Kim Liên-Hà Nội (Ban KHTN)
Lớp 11A1 THPT Cao Bá Quát-Hà Nội (Ban cơ bản)
+ Giáo viên Ngữ văn trường THPT Kim Liên, THPT Cao Bá Quát
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi tập trung hoàn thành những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu về lí thuyết phương pháp đọc hiểu văn bản văn học -
Nghiên cứu về những đặc trưng của tác phẩm văn học nước ngoài nói chung. Từ
3
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó tôi đưa ra những đánh giá về thực trạng dạy và học phần văn học nước ngoài
hiện nay trong hệ thống các trường THPT.

- Xây dựng được qui trình giảng dạy đọc hiểu các tác phẩm văn xuôi nước
ngoài SGK Ngữ văn 11.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng 2 nhóm phương pháp:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận về đọc hiểu văn bản văn học. Với
phương pháp này, tôi chủ yếu vận dụng các thao tác: nghiên cứu SGK Ngữ văn
10 (Nâng cao) và SGK Ngữ văn 11, nghiên cứu tài liệu về đọc hiểu văn bản văn
học… Các tài liệu trong quá trình nghiên cứu sẽ được phân tích, tổng hợp một
cách có hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết về văn học nước ngoài. Tôi sẽ tìm
hiểu đặc trưng của các tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào SGK nói
chung và tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK 11 nói riêng để giáo viên và học
sinh có cái nhìn bao quát, toàn diện khi tiến hành đọc hiểu văn bản văn học nước
ngoài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Tôi dự kiến tiến hành dự một số giờ học về văn
học nước ngoài ở lớp 11 của 2 trường THPT Cao Bá Quát và THPT Kim Liên
để có thể rút ra những nhận xét thực tế, khách quan về giảng dạy đọc hiểu tác
phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11.
- Phương pháp phỏng vấn: Với đối tượng là giáo viên Ngữ văn của
trường THPT Kim Liên, tôi sẽ tiến hành phỏng vấn (khoảng 10 giáo viên) để
tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi, phương pháp áp dụng khi dạy học tác phẩm
văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu của tôi sẽ bao gồm cả
bảng hỏi đối với 10 giáo viên của trường THPT Kim Liên. Bảng hỏi bao gồm
những câu hỏi đã được chọn lựa kĩ lưỡng, sát đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu:
+ Những phần phỏng vấn tôi ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ, tổng hợp và sau đó
hỏi ý kiến chính những giáo viên được phỏng vấn để xác định được những ý

kiến chung nhất, đánh giá xác đáng nhất về thực trạng liên quan đến vấn đề cần
4
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiên cứu. Đồng thời tôi cũng tham khảo ý kiến của các giảng viên, chuyên gia
trong ngành giáo dục.
+ Những số liệu điều tra bảng hỏi sẽ được tổng hợp, tính tỉ lệ phần trăm,
tính số liệu cụ thể để làm minh chứng cho những kết luận đưa ra.
Như vậy, đề tài nghiên cứu sẽ có được những nhận xét xác đáng về thực
trạng việc dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11 với
mục đích cuối cùng là tôi có thể xây dựng được qui trình giảng dạy đọc hiểu
những tác phẩm này sao cho có hiệu quả cao nhất.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về đọc hiểu và phương pháp đọc hiểu.
Chương 2: Thực trạng giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở trường
THPT.
Chương 3: Đề xuất qui trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài
SGK Ngữ văn 11.
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỌC HIỂU VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY
ĐỌC HIỂU
Cái mới trong nội dung môn Ngữ văn là vấn đề đọc hiểu. Đọc hiểu là khái
niệm cơ bản của môn học có nội dung mới. Trước kia ta xem đọc là phương
pháp trong giảng văn mà thôi và lại thường nhấn mạnh một cách cường điệu
phương pháp đọc diễn cảm. Hiểu việc đọc văn như thế chưa thấy hết được hoạt
động đọc văn là con đường duy nhất để học sinh tự mình cảm nhận cái hay cái
đẹp của hình thức tồn tại của văn bản nghệ thuật; từ đó tiến tới hiểu nội dung tư
tưởng khái quát về nhân tâm thế sự. Có thể nói rằng, đọc hiểu là mục đích cuối
cùng của các giai đoạn đọc và mức độ đọc.
5

Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa của văn bản. Ý nghĩa
ấy hình thành và sáng tỏ dần nhờ sự soi chiếu tổng hợp, khái quát hóa từ ý nghĩa
tồn tại trong hình thức hóa nghệ thuật của tác phẩm, từ ý đồ sáng tạo, quan niệm
nghệ thuật của nhà văn và ý nghĩa phái sinh thông qua khả năng tiếp nhận của
người đọc. Đọc hiểu tuân theo lôgic khoa học, đã làm giảm đi tính chất “mơ hồ,
đa nghĩa” của tác phẩm văn chương để sự giao tiếp nghệ thuật đi tới chiều
hướng thỏa thuận nào đó.
Cũng có thể nói, đọc hiểu là hoạt động cơ bản của học sinh đem tích hợp
các tầng ý nghĩa của văn bản. Tùy theo loại văn bản mà người đọc cần tích hợp
những tri thức đọc hiểu nào. VD: Muốn đọc hiểu VHDG thì người học sinh phải
được trang bị tri thức đọc hiểu về thi pháp VHDG, tri thức về văn hóa dân gian,
tri thức về folklore, tri thức về môi trường diễn xướng. Không có những tri thức
đó không thể đọc hiểu được những văn bản còn nhiều điều mù mờ về thời điểm
sáng tác, về tác giả, về dị bản, về vùng miền lưu truyền đối với các thể loại
VHDG.
1.1. Quan điểm về đọc tác phẩm văn chương
Đọc không chỉ là hoạt động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà
còn là hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái
quát trong nếm trải của con người. Vì thế chúng ta thấy xuất hiện kinh nghiệm
đọc và sự biến đổi cách thức và chất lượng người đọc. Đọc còn hoạt động mang
tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa
từng người.
Chúng ta cần phải bàn đến tính vật chất của hoạt động đọc. Người ta
không chỉ đọc văn bản mà còn đọc sách, chẳng những đọc sách mà còn những
tác phẩm văn chương. Tuy rằng văn bản, sách và tác phẩm văn chương đều
mang tính hoàn chỉnh về cấu trúc nhưng độ dài ngắn, dung lượng và ý nghĩa,
chức năng, bản chất, tác dụng của chúng là hết sức khác nhau. Vì vậy, cách thức
đọc chúng, phương pháp và biện pháp đọc chúng không hoàn toàn đồng nhất.

Theo Nguyễn Thanh Hùng, đọc tác phẩm văn chương là giải quyết vấn đề
thế giới quan của các cấu trúc tồn tại trong tác phẩm, trước hết là cấu trúc ngôn
6
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngữ, thứ đến là cấu trúc hình tượng thẩm mĩ, sau nữa là cấu trúc thẩm mĩ [25,
tr.58]. Trong cấu trúc ngôn ngữ, người đọc được tìm hiểu để nắm bắt các loại
thông tin, tư tưởng hiện thực đời sống và tư tưởng thẩm mĩ.Tư tưởng hiện thực
trong tác phẩm gợi ra sự đa dạng trong kinh nghiệm sống của từng độc giả. Đây
là bức tranh đời sống vừa quen vừa lạ. Quen để chia sẻ thừa nhận. Lạ để trao đổi
và suy nghĩ. Tầng lớp xuất hiện và vị trí xuất hiện của người đọc có ảnh hưởng
nhiều đến mối quan hệ giữa quen và lạ trong thông tin hiện thực đời sống mà
cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm tạo ra.
Có thể nói rằng, ngay từ cấu trúc cụ thể, ngôn ngữ, tư tưởng và định
hướng tư tưởng sáng tạo đã có mặt, góp phần quyết định giá trị đích thực của tác
phẩm. Cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương là sự tồn tại tất yếu với những
nhà văn lớn, với những nghệ sĩ tài năng. Tuy trừu tượng và tiềm ẩn nhưng cấu
trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương được nhận ra và đánh giá trên nền tảng
của cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng thẩm mĩ.
Cần lưu ý rằng, sự lĩnh hội tác phẩm văn chương thông qua hoạt động đọc
bao giờ cũng xen lẫn vào nó thiên hướng chủ quan, không thể loại trừ “cái tôi”
của người đọc ra ngoài quá trình tiếp nhận. Cũng theo những nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Hùng, cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương là cấu trúc mở,
là “kết cấu vẫy gọi” (Appelestructur) bao gồm sự tham gia sáng tạo của mọi
người. Vì vậy, ý nghĩa nội dung tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn chương là
kết quả của sự đồng thuận và nhượng bộ tỉnh táo hai chiều giữa nhà văn và
người đọc về cấu trúc hình tượng thẩm mĩ.
Nói tóm lại, đọc tác phẩm văn chương là một quá trình phát hiện và khám
phá nội dung ý nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm
mĩ của tác phẩm đan xen giữa hoạt động nhận thức, đánh giá và thưởng thức giá

trị đích thực tồn tại trong hình thức NT độc đáo của tác phẩm.
1.2. Những thành tựu nghiên cứu hoạt động đọc tác phẩm văn
chương
Trong lịch sử nhân loại, khi nào xuất hiện văn bản kí tự dưới hình thức cố
định thì bắt đầu có hoạt động đọc. Đọc là quá trình chuyển hóa nội dung ý nghĩa
từ ghi khắc sang âm thanh lời nói, âm vang trong óc. Có thể ghi nhận ý kiến của
7
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thánh Paul trong kinh Cựu ước và Tân ước, của Mạnh Tử, của Đào Tiềm, Bô-
đơ-le hay Asmus…[25, tr.57]
Trong tài liệu dịch, trước hết phải kể đến công trình “Phương pháp giảng
dạy văn học ở trường phổ thông” của A. Nhikônxki . Ngay từ những dòng đầu
tiên khi bàn đến hoạt động học của học sinh và ông đã dành phần lớn trang lược
thuật những quan niệm trong nhà trường Nga về vấn đề đọc. Những luận điểm
quan trọng trong công trình được tác giả nhấn mạnh thuộc về vị trí của học sinh
trong giảng dạy học tập môn văn và thuộc về bản chất lao động trong đọc văn.
Sách khẳng định “học sinh là độc giả tác phẩm văn học” [41, tr.15]
Trình bày hệ thống các phương pháp và biện pháp dạy học, giáo trình
“Phương pháp luận dạy văn học” do Ia. Rez chủ biên đã đặt phương pháp học
tập sáng tạo ở vị trí hàng đầu như là phương pháp đặc biệt đối với văn học, với
tư cách là một môn học nhằm “phát triển cảm thụ NT, hình thành những thể
nghiệm, những khuynh hướng và năng khiều NT cho học sinh bằng phương diện
NT” [26, tr.38]. Quan niệm phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là một
quá trình sáng tạo, tác giả còn trình bày các biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự
đồng sáng tạo của người đọc, trong đó đọc diễn cảm được xem là “biện pháp
hoạt động đặc thù nhằm tăng cường sự đồng sáng tạo của người đọc, tạo điều
kiện cho sự đồng thể nghiệm và phát triển trí tưởng tượng của người đọc” [26,
tr.39]
Thực chất của quá trình đọc văn là quá trình phát hiện và tổng hợp những

tầng lớp ý nghĩa đã được nhà văn mã hóa trong một hệ thống kí hiệu ngôn ngữ
NT. Mỗi giai đoạn của quá trình ấy lại đặt ra những nhiệm vụ nhất định cần phải
giải quyết. Vì vậy hoạt động đọc sẽ được vận dụng dưới nhiều hình thức phong
phú, đa dạng, linh hoạt, hơn một cách duy nhất nào đó.
Một số bài viết và công trình về đọc văn ở Việt Nam xuất hiện từ những
năm 80 một cách có hệ thống, như vậy là đã có sự quan tâm và những lí giải về
nhiều phương diện hoạt động đọc văn. Nếu trước kia xem đọc văn chỉ là phương
pháp thì bây giờ người ta xem nó là một hoạt động. Cơ sở lí luận của đọc văn,
nội dung bản chất của đọc văn, khả năng vận dụng đọc văn vào nghiên cứu phê
bình văn học đến giảng dạy học tập văn học đều được đề cập tới. Càng ngày
8
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những người quan tâm nghiên cứu vấn đề đọc văn càng nhận ra mối quan hệ
biện chứng của quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương. Đọc văn vừa là tiền đề
cơ bản, vừa là kết quả xác thực của việc hiểu văn. Có đọc mới hiểu và có hiểu
thì mới đọc tiếp được tác phẩm văn chương mà không làm tiêu tan những giá trị
và ý nghĩa của nó.Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hùng đã thể
hiện sự quan tâm sâu sắc của tác giả đến vấn đề phức tạp này: nhìn nhận trí
tưởng tượng, khả năng liên tưởng như là chìa khóa mở ra thế giới NT phong
phú, sinh động của tác phẩm văn chương đồng thời năng lực liên tưởng, tưởng
tượng thông qua ngôn ngữ NT là dấu hiệu chất lượng của đọc văn. Tác giả viết:
“Sự phát triển của quá trình đọc được vận động trong hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng và giải thích nghệ thuật”. Theo tác giả, việc đọc hiểu văn bản góp
phần hình thành và củng cố, phát triển năng lực nắm vững và sử dụng tiếng Việt
thành thạo. Đồng thời “năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với việc phát
triển nhân cách , bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua
việc đọc”, hơn nữa việc đọc còn là “phương tiện tinh thần nhiều loại khác nhau
về quan điểm, thái độ, kinh nghiệm, tri thức”. [28, tr.14]
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết tiếp

nhận, trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn chương”, Nguyễn Thanh Hùng
đã trả đọc về vị trí xứng đáng của nó trong quá trình khám phá chiều sâu của tác
phẩm văn chương. “Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra
theo một hoạt động duy nhất là đọc văn – một thứ văn bản được kiến tạo bằng
thời gian” [26, 16]. Thông qua quá trình đọc văn với những yêu cầu riêng của
một hoạt động tinh thần dựa trên một đối tượng thẩm mĩ, mục đích tiếp nhận là
hiểu được tác phẩm văn chương. Cũng theo đó mà tác giả này đã khẳng định:
“Đọc văn chương- một con người mới ra đời, đọc văn chương là lao động khoa
học, đọc văn chương là cách phát huy trực cảm, đọc văn chương là hoạt động
ngôn ngữ trong môi trường văn hóa thẩm mĩ, đọc văn chương là quá trình sáng
tạo, đọc văn chương là quá trình tiếp nhận nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm”
[26, 18]
9
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phan Trọng Luận cũng đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động
đọc trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”: “Đọc từ chữ đầu
đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm giác được bằng mắt bằng tai
từ ngữ, hình ảnh, chi tiết…” và “trong khi đọc, những tín hiệu ngôn ngữ, những
hình ảnh cuộc sống trong bài thơ hiện lên tuần tự sáng rõ dần”. Tác giả cũng chỉ
rõ vai trò của liên tưởng tưởng, tưởng tượng đối với hiệu quả cảm thụ của quá
trình đọc sách: “Đọc sách là liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng. Sức hoạt động
của liên tưởng càng mạnh bao nhiêu thì sức cảm thụ càng sâu, càng nhạy bén
bấy nhiêu” [33, tr.57].
Đọc văn không những được vận dụng trong nhà trường mà còn được ứng
dụng rộng rãi trong giao tiếp văn hóa, trong tiếp nhận văn học, trong việc trao
đổi thông tin tri thức và đời sống tinh thần nhân loại. Những trang sách kì diệu
đã từng tỏa sáng tuổi thơ cơ cực, tăm tối của M. Gorki. Ông nói “Mỗi cuốn sách
đều là bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con
người”. Đọc sách trước hết là lao động trí tuệ mang lại niềm vui thanh khiết nhất

của tâm hồn, là sự tự giải phóng cá nhân ra khỏi những trói buộc của hoàn cảnh
để trí tuệ hóa và nhân đạo hóa con người ngày càng cao hơn.
1.3. Đọc hiểu tác phẩm văn chương
Có thể nói rằng đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ mới xuất hiện trong bối
cảnh của sự gia tăng khối lượng tri thức nhân loại theo cấp số nhân. Có hàng
trăm nghìn kiểu văn bản và sách cần đọc. Mỗi người cần tìm ra một phương
pháp đọc riêng cho mình để hiểu sâu về vấn đề quan tâm, biết cách chọn thông
tin phục vụ cho nhu cầu bản thân. Chính vì điều này mà môn Ngữ văn trong
nhà trường có một vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen, phương
pháp, nhận thức về hoạt động đọc, cụ thể là hoạt động đọc hiểu.
Môn Ngữ văn trong nhà trường THPT không còn giới hạn trong những
văn bản nghệ thuật hư cấu mà mở rộng từ các thể loại văn học sang các phương
thức biểu đạt, tự sự, miêu tả, lập luận,… như đoạn trích tiểu thuyết, kịch, truyện
ngắn. Đọc những tác phẩm như thế có thể chưa hiểu được ngay. Nội dung tác
phẩm cần phải được hiểu dần dần, rồi từng bước tiến tới hiểu kĩ, hiểu trọn vẹn.
1.3.1. Quan điểm về “hiểu” trong đọc hiểu tác phẩm văn chương
10
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiểu là nắm vững nội dung và ý nghĩa của văn bản. Hiểu đối với việc đọc
các văn bản không hư cấu là thế nhưng hiểu trong đọc văn chương với tư cách là
văn bản hư cấu, tác phẩm NT ngôn từ thì không chỉ có thế mà là thấu đạt được
những nội dung biểu hiện và ẩn tàng mà nhà văn cần nói, đáng nói và muốn nói
với người đọc- những người sẵn sàng chờ đón và chia sẻ.
Năng lực đọc hiểu, một năng lực bao gồm các năng lực cảm nhận, lí giải,
thưởng thức, ghi nhớ và đọc nhanh mà năng lực lí giải là quan trọng nhất. Đọc-
hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học,
tránh sự áp đặt từ bên ngoài kể cả từ thầy cô, ngăn chặn được sự suy giảm năng
lực đọc của học sinh trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ
biến…Điều này rất phù hợp với qui luật tiếp nhận văn học và qui luật phát triển

tư duy cũng như sự hình thành nhân cách [7, tr.20]
Vấn đề đọc hiểu văn chương không hề đơn giản chút nào. Những ý kiến
khác nhau có rất nhiều. Đã từng tồn tại kiểu đọc văn chỉ biết đến “cái biểu đạt”,
tương đương với hình thức mà bỏ qua “cái được biểu đạt”, tức là những lớp nội
dung tạo nên chỉnh thể tư tưởng NT được sáng tạo trong tác phẩm. Bôđơle, một
tác giả phương Tây cũng lại cho rằng tác phẩm là “một cuộc phiêu lưu của tâm
hồn” bởi vậy người đọc cũng chỉ cần kể lại những ấn tượng của mình khi đọc tác
phẩm mà thôi. Phải từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, dưới ánh sáng
của lí thuyết tiếp nhận và tâm lí học hoạt động cũng như những quan niệm mới
về tác phẩm văn chương, đọc hiểu văn chương đã được phân tích, mổ xẻ để có
được khái niệm đúng đắn.
Bản chất của hoạt động đọc hiểu văn bản là quá trình lao động sáng tạo
mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân
tích đặc trưng của văn bản. Đọc không phải chỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết
mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc, quá trình tri giác và nhuần thấm tín hiệu
để giải mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật, văn hóa đồng thời với việc huy động vốn
sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý
nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là chúng ta đón đầu những gì mình đang đọc
qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi quay lại về với những gì đọc qua để kiểm
11
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chứng và đi tìm hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và
giàu tưởng tượng. Độc giả là người đồng sáng tạo với nhà văn, có khác chăng là
nhà văn đi từ tư tưởng đến ngôn ngữ, còn người đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư
tưởng, để rồi có những sáng tạo, phát hiện và cảm nhận mà chính người viết
cũng không thể ngờ tới. Theo Valentine Asmus, “Không thể hiểu được bất cứ
một tác phẩm nào, dù nó có rõ ràng đến mấy, dù sức mạnh gợi cảm và gây ấn
tượng của nó lớn lao đến mấy, nếu bản thân người đọc không tự mình dám gánh
chịu mọi được mất, dấn thân trong ý thức của mình theo con đường tác giả đã

vạch ra trong tác phẩm?” [29, tr.54].
Nếu như đọc là sự tiếp xúc văn bản về mặt ngôn từ, câu chữ trực tiếp thì
hiểu được coi là sự tiếp xúc văn bản về mặt bên trong, tức là những nội dung
tiềm ẩn. Hiểu tức là nắm vững và vận dụng được. Hiểu tức là biết kĩ và làm tốt.
Hiểu một đối tượng không chỉ dừng ở quan sát, nắm bắt cái bề ngoài.
Muốn đọc hiểu tác phẩm văn chương người đọc phải được trang bị tri
thức nhiểu loại. Các Mác từng nói “Nếu anh muốn thưởng thức nghệ thuật, trước
hết anh phải là người được giáo dục về nghệ thuật”. Tri thức để hiểu cấu trúc
ngôn ngữ là đời sống xã hội, là ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Tri thức để hiểu cấu trúc
hình tượng thẩm mĩ là thể loại, là thi pháp, là phương thức trình bày NT, và tri
thức tối cần thiết để hiểu cấu trúc tư tưởng là quan niệm nghệ thuật về con
người, là thế giới quan, là triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức…Quan trọng
hơn cả, hiểu tác phẩm văn chương là phát hiện ra và đánh giá mối quan hệ hữu
cơ giữa các tầng cấu trúc của tác phẩm: nội dung sự kiện, nội dung hình tượng,
nội dung quan niệm của tác giả. Tri thức cần có để đọc hiểu mối quan hệ phức
tạp đa dạng ấy trong tác phẩm văn chương là “tính mơ hồ và đa “tác phẩm mở”,
là “tâm lí học miền sâu” (Psychoanalise), là “vô thức và huyền thoại”, là “lí
thuyết tiếp nhận”, là “mĩ học” và “lí thuyết giao tiếp”…
1.3.2. Các yếu tố quan trọng trong đọc hiểu tác phẩm văn chương
Đọc hiểu văn bản cần chú ý đến 3 yếu tố quan trọng: ngôn ngữ, cấu trúc
hình tượng nghệ thuật và cấu trúc tư tưởng tác phẩm.
a. Ngôn ngữ
12
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngôn ngữ là chất liệu, là hiện tượng của đời sống mang ý nghĩa phổ biến
và ý nghĩa sáng tạo của cá nhân, tạo nên nét khác biệt rõ nét về phong cách tác
giả. Khởi thủy của tác phẩm NT, trong đó có văn học bao giờ cũng là tiếng nói
giữa con người mang sắc thái tình cảm. Ngôn ngữ không chỉ là chất liệu, không
phải chỉ là phương tiện mà còn là “kí hiệu của tình cảm” [25, tr.61]. Nghệ thuật

chính là kết quả của việc sử dụng , khai thác hình thức cấu trúc ngôn ngữ. Đó là
sự nắm bắt quy luật hình thức đời sống tự nhiên nào đấy ví dụ quy luật nhịp điệu
trong sự sinh tồn bao gồm sự lặp lại, trùng điệp, đối xứng, phi đối xứng, nhanh
chậm, gấp gáp, …để biểu hiện các cung bậc khác nhau của tình cảm. Nắm vững
cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm là nắm vững hình thức tái hiện cuộc sống. Đi
qua nó ta đến với cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
b. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật
Cấu trúc hình tượng của tác phẩm là tầng biểu hiện tình cảm thẩm mĩ của
nhà văn và tác phẩm. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm giúp người
đọc nhìn ra được một hiện thực mới mẻ, hiện thực được sáng tạo bằng sự tổ
chức lại quan hệ xã hội giữa con người trong một thế giới được xây dựng bởi
KH-NT, thế giới NT, chi tiết NT thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Người đọc đối
diện với một hiện thực khác thường, mới mẻ cần được khám phá và bày tỏ thái
độ yêu ghét rõ ràng . Do đó phân tích cấu trúc hình tượng NT này không chỉ nên
dừng lại ở bề mặt cốt truyện và tính cách nhân vật mà phải chú ý đến kết cấu nội
tại tức là mối quan hệ qua lại giữa nhân vật và điểm sáng thẩm mĩ; giữa cảnh và
tình; giữa bộ phận và toàn thể; giữa hiển ngôn và hàm ngôn; giữa chân thực và
hư cấu; giữa cái dường như và cái có thể; giữa cái hợp lí và cái phi lí…để nhìn
ra dấu ấn của ý thức và vô thức lặn sâu trong đời sống và nằm sau thế giới hình
tượng.
Cấu trúc này là kết quả của sự liên hệ mật thiết và hoàn thiện dần kinh
nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mĩ. Thế giới tình cảm và nhu cầu tâm lí của
con người thật phong phú trong sự bí ẩn của nó. Một trong những bí ẩn đó là
tính không nhất quán và hàm chứa đầy mâu thuẫn ở con người, bên cạnh những
13
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khả năng đọc khác nhau của nó. Cấu trúc hình tượng NT thường được tổ chức
thành mối quan hệ vô cùng phức tạp giữa ý thức và vô thức, chúng thường
không mạch lạc tuyến tính thẳng băng, không thể đối chiếu với logic hiện thực

cuộc sống và hợp với suy nghĩ kiểu lí trí đời thường mà tự nó là sự tổng hợp
khái quát và huyền ảo hóa đời sống mà ta gọi là tư duy hình tượng. Do vậy mà
thế giới nghệ thuật mang đậm tính ảo giác huyễn tưởng làm cho tác phẩm văn
chương mơ hồ, đa nghĩa không thể đoán trước.
Từ hiện thực đời sống xã hội vô tình, vô lí nhờ cấu trúc hình tượng nghệ
thuật, cuộc sống trong tác phẩm vận động để giải tỏa ước mơ và giải phóng tư
tưởng của nhà văn. Cuộc sống trong tác phẩm sẽ trở nên hữu tình, hữu lí hơn
cho một lí tưởng thẩm mĩ nhất định. Có thể nói, từ cấu trúc ngôn ngữ đến cấu
trúc hình tượng nghệ thuật là quá trình chuyển biến, hóa sinh từ nội dung hiện
thực đến hình thức NT, từ vốn có đến tạo ra một đời sống khác để con người
sống cuộc đời mới phong phú và tốt đẹp hơn. [25, 60]
Đây là cấu trúc hấp dẫn và khó khăn nhất để nắm bắt sự chuyển hóa, khái
quát và tưởng tượng của nhà văn từ đời sống tự nhiên, phiến diện đến thế giới
NT sinh động, đa dạng, giàu ý nghĩa. Vì vậy, đối với loại cấu trúc này người đọc
chỉ có một cách đọc thông qua bản thân, tự chiêm nghiệm mà tích lũy kinh
nghiệm NT, mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của cấu trúc này.
c. Cấu trúc tư tưởng nghệ thuật
Cấu trúc tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm không thể tách rời cấu trúc
ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng nhưng lại vượt qua và lớn hơn ngôn ngữ và
hình tượng để tác động sâu xa đến tâm hồn con người. Cấu trúc tư tưởng thẩm
mĩ đã tổ hợp được tính hạn định của cấu trúc ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng,
đã dung hòa được tính lịch sử và tính mở của tác phẩm. Nó là loại cấu trúc
không có hình thức xác định cụ thể nhưng bằng cảm xúc trí tuệ và sự cảm nhiễm
thẩm mĩ, người đọc có thể nhận ra dần về số mệnh con người, sứ mệnh lịch sử
và thời đại chứa trong tư tưởng của tác phẩm.
1.4. Qui trình cơ bản của đọc hiểu
1.4.1. Đọc kĩ
14
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368

- Đọc kĩ trước hết phải đọc thật nhiều lần. Đây là một kiểu đọc có tần số
cao
- Những hoạt động và thao tác của đọc kĩ là:
+ Đọc để giới hạn quang cảnh và bối cảnh xã hội và những vấn đề của nó.
Người ta cần biết đến thao tác đọc phân loại và hệ thống hóa từ ngữ, hình ảnh để
tái hiện không gian và thời gian.
+ Đọc để tìm vấn đề (tính có vấn đề) của con người qua việc xác lập
đường dây sự kiện, tình huống, trạng thái trong quan hệ với nhân vật văn học.
1.4.2. Đọc sâu
- Đọc để biểu hiện, làm bộc lộ mối liên hệ thông nhất nhiều mặt của đời
sống và nghệ thuật, của trí tuệ và tình cảm ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản.
- Những hoạt động và thao tác đọc sâu tác phẩm là:
+ Đọc chậm, phát hiện những cái mới lạ của từ ngữ, hình ảnh, sự kiện của
thế giới suy tư và tâm tình nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại trong giao
tiếp với môi trường sống của nhân vật và tác phẩm.
+ Đọc và thống kê những mối quan hệ giữa nhân vật với sự kiện, tình
huống chính. Phân loại và hệ thống hóa nhân vật theo mối quan hệ đồng hướng
và nghịch hướng theo kiểu hòa giải và xung đột để xác định nhân vật( tính cách
hoặc trữ tình) trung tâm.
+ Đọc và sơ đồ hóa mạng lưới hệ thống giữa các yếu tố hình thức và nội
dung, bộ phận và toàn thể, chi tiết và chỉnh thể, giữa các tầng chuyển hóa bố cục
và kết cấu, bên ngoài và bên trong tác phẩm để tìm ra kiểu tư duy nghệ thuật và
phương thức trình bày nghệ thuật của tác phẩm.
+ Đọc và tham khảo thời điểm sáng tác, chặng đường nghệ thuật, sự
chuyển biến tư tưởng của nhà văn để xác định cảm hứng sáng tác của nhà văn
trong tác phẩm.
+ Đọc những hồi kí và ghi chép của tác giả về quá trình sáng tạo tác phẩm
và đọc những bài nghiên cứu phê bình tác phẩm.
15
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn

Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đọc nhiều, thật nhiều lần để hóa giải những băn khoăn, ngộ nhận về
một số điểm sáng thẩm mĩ và chi tiết nghệ thuật chưa có lời đáp phù hợp với
văn cảnh và văn bản, với bối cảnh thời đại và lẽ sống.
1.4.3. Đọc sáng tạo
- Đọc để bổ sung những nội dung mới, làm giàu có về ý nghĩa xã hội và ý
vị nhân sinh của tác phẩm. Đọc biểu hiện sự đánh giá và thưởng thức giá trị vĩnh
hằng của tác phẩm.
- Những hoạt động và thao tác đọc sáng tạo:
+ Đọc tái hiện lại chặng đời của hình tượng nhân vật trung tâm và khái
quát sự vận động của hình tượng từ đầu cho đến hết.
+ Đọc nhận ra giá trị và ý nghĩa của kết thúc tác phẩm đối với đời sống.
Phân tích và đánh giá ý nghĩa của kết thúc tác phẩm đối với đời sống. Phân tích
và đánh giá ý nghĩa thời đại lịch sử, ý nghĩa xã hội, đạo đức và ý nghĩa nghệ
thuật thẩm mĩ của hình tượng đối với quá khứ, hiện tại và tương lai.
+ Đọc phát hiện và kết nối những yếu tố ngoại đề trữ tình với giọng điệu
và tuyên ngôn nghệ thuật, quan điểm nghệ thuật về con người cùng với thái độ
chính trị, tư cách công dân của tác giả.
+ Đọc để khái quát thành sức sống, tiềm năng sáng tạo của hình tượng
trung tâm trong tác phẩm.
+ Đọc cắt nghĩa và bình luận những thuộc tính nghệ thuật khách quan, ổn
định của tác phẩm theo quan điểm văn hóa truyền thống.
+ Đọc tác phẩm và cân nhắc chiều hướng định giá lịch sử tiếp nhận và
tiếp nhận cá nhân trên nền tảng văn hóa hiện đại.
1.5. Phương pháp đọc hiểu, dạy đọc hiểu trong nhà trường THPT
Đọc hiểu là hoạt động đọc mang tính chất đối diện một mình, tự lực với
văn bản, nó có cái hay là tập trung và tích đọng, lắng kết thầm lặng năng lực cá
nhân. Đây là hoạt động thu nạp và ứng dụng những kinh nghiệm đời sống, lịch
sử, kinh nghiệm NT và kinh nghiệm văn hóa của mỗi cá thể. Đọc hiểu là lối đọc
để tự học suốt đời, nó vừa thúc đẩy ý chí và là biểu hiện thầm kín của lòng tự

trọng.
16
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đọc hiểu trong nhà trường rất cần phải có bài bản, phải có cơ sở lí thuyết
và phải luyện tập thành những kĩ năng cơ bản. Cách đọc trong nhà trường vừa là
tiền đề đọc hiểu của học sinh, vừa là kết quả đọc hiểu của giáo viên văn học.
Điều đáng nói về cách đọc trong nhà trường là phải chú trọng cung cấp cho học
sinh hệ thống tri thức đọc hiểu, cần mở rộng các hình thức đọc, phương pháp
đọc, kiểu đọc, mục đích, yêu cầu đọc đối với họ. Hứng thú đọc, động cơ đọc của
học sinh và sách tập đọc, bài đọc thêm, cần nghiên cứu và chỉ ra tác dụng tích
cực của chúng trong việc dạy đọc hiểu.
Đọc hiểu ban đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu
cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, mạch văn, bố cục và nắm được ý nghĩa chính
cũng như chủ đề tác phẩm. Lí giải là hiểu đặc sắc về NT và ý nghĩa XHNV của
tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, học sinh sẽ biết cách
đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lí giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát
hiện. Hình thức văn bản được lựa chọn nhằm đào tạo năng lực đọc- hiểu, qua đó
vừa cung cấp tri thức văn học (lịch sử VH, lí luậnVH, văn hóa dân tộc) vừa giáo
dục tư tưởng tình cảm, vừa rèn luyện kĩ năng đọc mà học sinh có thể mang theo
suốt đời.
Trên báo Văn nghệ số ra ngày 14/02/1998,tác giả Trần Đình Sử thông qua
bài viết “Môn Văn- thực trạng và giải pháp” đã nhấn mạnh một trong ba mục
tiêu của dạy học văn là “rèn luyện khả năng đọc hiểu các văn bản, đặc biệt là
văn bản văn học, một loại văn bản khó nhằm tạo cho học sinh biết đọc văn một
cách có văn hóa, có phương pháp, không suy diễn tùy tiện, dung tục. Năng lực
đọc được thể hiện ở việc học sinh tự mình biết đọc, hiểu, nắm được nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.”
“Dạy đọc hiểu là dạy học sinh cách đọc ra nội dung trong những mối quan
hệ ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản, từ đó hình thành được kĩ năng đọc và

biết vận dụng chúng trong cuộc sống có hiệu quả. [25, tr.34]
Trong nhà trường, hoạt động đọc hiểu của học sinh trở thành trung tâm
khi tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá tác phẩm văn chương, sẽ kéo theo
sự đổi mới tất yếu về phương pháp dạy của giáo viên. Trước tiên, giáo viên phải
đưa nội dung, yêu cầu đọc hiểu vào các mức độ đọc văn như: đọc đúng, đọc hay,
17
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đọc diễn cảm, cân nhắc những hình thức nào của đọc văn như đọc thầm, đọc to,
đọc phân vai, đọc đối thoại, đọc bình chú, đọc tóm tắt, đọc dự đoán… Hơn nữa
giáo viên cũng cần trao đổi với học sinh mục đích đọc và những yêu cầu đọc
hiểu khi đề cập tới việc đọc để phát hiện ra những điều thú vị, hấp dẫn, đọc để tổ
chức lại, xây dựng lại tác phẩm theo hình thức mới rất cần cho kĩ năng đọc
chỉnh thể văn học, đọc để lấy thông tin cần thiết cho mình, đọc để nhận xét trên
cơ sở tư duy phê phán, đọc để ghi chép những nét chính cho quá trình thảo luận.
18
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM VĂN
XUÔI NƯỚC NGOÀI Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Những khó khăn khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi nước ngoài ở
trường THPT
2.1.1. Vấn đề bản dịch
Đối với các bản dịch tác phẩm VHNN, người dịch với tư cách là người tái
tạo lại tác phẩm nguyên bản bằng ngôn ngữ thứ hai phần lớn là của dân tộc mình
hoặc đôi khi bằng một chuyên ngữ khác. Trong khi chuyển dịch VHNN, sự tinh
tế và chính xác của ngôn ngữ gốc không còn được bảo lưu nguyên dạng. Cái gì
cần giữ và có thể thay đổi để tạo ra bản dịch làm thỏa nguyện tác giả và làm
thỏa mãn người đọc thì người dịch đều nghĩ tới và làm. Để thực hiện được
nhiệm vụ kép đó, người dịch phải có tài năng song ngữ, đồng thời cũng phải có

năng lực văn học, trình độ văn hóa của hai xứ sở của tác phẩm chính bản và tác
phẩm thứ bản.
Chất lượng của bản dịch là nhân tố tác động trực tiếp đến người đọc. Dù
thế nào đi nữa, chúng ta thấy một sự thật là khi đọc tác phẩm dịch là nghe hai lời
trong một lời, là đọc một phiên bản khác có độ chênh lệch nhiều khi khá lớn.
Tuy nhiên ngôn ngữ được dịch ra không phải là một thứ ngôn ngữ ít có khả năng
chuyển tải ý nghĩa. Lời dịch phần lớn là dài hơn ngôn ngữ gốc. Ngoài nghĩa
chính của sự kiện, hiện tượng được mô tả trong nguyên tác còn có cả ý tưởng,
cảm xúc ngôn ngữ nguyên tác, người dịch còn phải sáng tạo và tái tạo hình thức
diễn đạt của lời dịch sao cho sự thấu hiểu và đồng cảm diễn ra trên nền một thứ
ngôn ngữ mẹ đẻ cũng chính xác, hấp dẫn và đầy cảm xúc nghệ thuật như bất cứ
tác phẩm văn chương nào.
2.1.2. Vấn đề ngôn ngữ
Tính pha tạp ngôn ngữ hai nền văn hóa làm cho kiểu tư duy của tác giả,
dịch giả và độc giả không còn thuần nhất. Đặc điểm cần phân tích, bình giá
trong tác phẩm dịch khi giảng dạy VHNN vì thế không thể bắt đầu và chuyên
chú vào ngôn ngữ dịch mà phải dựa vào hình tượng NT vì nó ít bị pha tạp và
tổn thương. Trong bản dịch, hình tượng NT được nhận thức trong lớp ngôn ngữ
dịch chứ không phải là lớp ngôn từ của nguyên tác. Do đó cần tận dụng phương
19
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
pháp đối chiếu so sánh ngôn từ trong hai văn bản khi giảng dạy văn học nước
ngoài.
Sự không hoàn toàn đồng nhất của hình tượng NT giữa hai văn bản gốc
và văn bản dịch ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tính tư tưởng thẩm mĩ của hình
tượng NT. Trong trường hợp này khi giảng dạy văn học nước ngoài, người giáo
viên cần tìm hiểu kĩ tư tưởng NT, phong cách nhà văn và đặc điểm tư duy văn
học của họ để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, bình giá trong mối quan hệ toàn vẹn
với nguyên tác là vô cùng quan trọng. Người đọc dựa vào đặc điểm cá nhân mà

tiếp xúc một cách phù hợp và đồng hóa những phương diện cơ bản của tác phẩm
gốc. Đồng hóa đến mức độ có đạt sự nhuần nhị không, còn phụ thuộc vào hứng
thú và thị hiếu thẩm mĩ, kiến thức văn học và văn hóa của người đọc. Đồng hóa
một tác phẩm nước ngoài tức là qua người mà hiểu được ta và ngược lại.
Tiếp nhận một tác phẩm VHNN là quá trình cái tôi và cái ta nhân loại
cùng cất tiếng. Đó là cuộc đối thoại giao lưu văn hóa nghệ thuật để có sự gặp gỡ
để học hỏi tinh hoa văn hóa qua tác phẩm văn chương, để suy ngẫm về cái đẹp
và về vấn đề con người của các thời đại và lịch trình tiến hóa tinh thần của nó.
2.1.3. Vấn đề phân phối chương trình
Những tác phẩm văn xuôi nước ngoài được chọn để giảng dạy trong
trường THPT hiện nay hầu hết là những tác phẩm kinh điển, hoặc là tác phẩm
của những nhà văn lớn. Chẳng hạn như đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục
uy quyền” của tác giả Vích-to Huy-gô được trích trong cả bộ tiểu thuyết đồ sộ
Những người khốn khổ thế nhưng giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh tìm hiểu
đoạn trích trong 2 tiết học, bao gồm cả giới thiệu tác giả, tác phẩm, tóm tắt tiểu
thuyết. Như vậy, có thể nói rằng giảng dạy phần văn xuôi nước ngoài mới chỉ là
tìm hiểu ở phần bề nổi của tác phẩm mà thực sự chưa có điều kiện đi sâu, mở
rộng do hạn chế về mặt thời gian, chương trình dạy và học.
2.1.4. Vấn đề quan niệm của người dạy và người học
Thực tế, một khó khăn hiện nay trong dạy và học tác phẩm văn xuôi nước
ngoài nói chung, đó là quan niệm của người dạy và người học vẫn còn xem nhẹ
20
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần VHNN. Cũng phải thừa nhận rằng, hầu hết các tác phẩm văn học nước
ngoài không nằm trong giới hạn của các bài kiểm tra, thi học kì quan trọng. Vì
thế, học sinh không chú trọng vào học tập những tác phẩm này.
Đối với giáo viên, dù hiểu rõ những tác phẩm văn học nước ngoài đang
giảng dạy là hay, có nhiều vấn đề cần phải được đem ra phân tích nhưng do hạn
chế về thời gian, sự gò bó của qui định về chương trình nên cuối cùng cũng

mang tâm lí không coi trọng tác phẩm VHNN.
2.2. Thực trạng và tồn tại trong giảng dạy văn xuôi nước ngoài ở
trường THPT
Vấn đề dạy học văn học nước ngoài trong nhà trường hiện nay khá nan
giải. Do khối lượng lớn, tư liệu hạn chế, vốn liếng tri thức của giáo viên và học
sinh còn rất ít ỏi. Vì vậy mà việc dạy và học văn xuôi nước ngoài ở trường
THPT còn nhiều tồn tại
2.2.1. Tồn tại trong giảng dạy văn xuôi nước ngoài ở trường THPT
a. Quan niệm dân tộc còn áp dụng vào đọc hiểu tác phẩm
Trước hết, nói về quan niệm hiện tại làm thước đo thế hệ đến sau dễ đi
đến một cái nhìn nghiệt ngã và hạn chế tính hiện đại của nó. Đất nước nhiều
năm chiến tranh, hình ảnh người công dân tương lai vẫn bị chi phối bởi chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tất nhiên vấn đề yêu nước và
nhân đạo như hai nội dung chủ đạo của văn học nước nhà. Nhưng ý thức sâu sắc
về nhân quyền con người và tự do cá nhân, tôn trọng cá tính thì còn cần phải bổ
sung nhiều hơn nữa.
b. Giáo viên chưa chỉ rõ sự khác biệt về văn hóa
Do phông văn hóa có những độ vênh nhất định, nên quá trình khai thác
tác phẩm, thường nặng nề màu sắc chủ quan của người dạy.
c. Qui trình dạy học hầu như không thay đổi
Ở THPT tác phẩm văn học nước ngoài cũng như văn học nước nhà, thậm
chí thầy cô còn chưa hiểu sâu sắc đến mức cần thiết chủ nghĩa Phục hưng để mà
dạy văn học Phục hưng. Không ít thầy giáo xem Đônkihôtê như một tên điên
cuồng. Dự hết giờ văn cả thầy và trò không rõ dạy, học tác phẩm này để làm gì
(Vì chưa được đọc trọn vẹn tác phẩm).
21
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.2. Thực trạng về phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi
nước ngoài (SGK Ngữ văn 11)

Phần văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11 bao gồm 2 tác phẩm:
- Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (trích Những người
khốn khổ )
- Truyện ngắn “Người trong bao”- Sê-khôp
Đây là hai tác phẩm tiêu biểu cho phong cách hai tác giả lớn trong văn
học thế giới. Tuy nhiên, việc học tập và giảng dạy hai tác phẩm này lại chưa
xứng tầm, chưa được giáo viên và học sinh nhận thức đúng đắn.
a. Về phần giáo viên,
Tiến trình dạy học gần như không thay đổi, đồng thời chưa kích thích
được vai trò của học sinh trong tự nghiên cứu,tìm hiểu trước khi đến lớp.
Bảng 1: Ý kiến so sánh qui trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi
nước ngoài và tác phẩm văn xuôi Việt Nam
Đối tượng điều tra: Giáo viên Ngữ văn hai trường THPT Kim Liên và
THPT Cao Bá Quát
Số lượng: 10 giáo viên
Giống Khác Thay đổi
Phân phối
thời gian
giữa các
phần trong
bài giảng
Yêu cầu
sự chuẩn
bị bài
của học
sinh
Tìm
hiểu về
tác giả
tác

phẩm
Liên hệ đến các
tác phẩm khác
hoặc toàn bộ tác
phẩm (nếu bài
giảng là đoạn
trích)
Số giáo
viên
2 2 1 1 3 1
Tỉ lệ % 20 % 20 % 10% 10% 30% 10%
22
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, ta thấy, vẫn còn có những ý kiến cho rằng qui trình giảng dạy
tác phẩm văn xuôi nước ngoài giống hệt với giảng dạy tác phẩm văn xuôi Việt
Nam. Giáo viên dạy học tự ý thức được rằng cần phải thay đổi cách dạy đọc
hiểu nhưng gần như sự thay đổi ấy chưa được hình thành rõ nét. Học sinh cần
phải thực hiện công việc của mình kĩ càng hơn, giáo viên cần phải yêu cầu cao
hơn đối với học sinh khi thu thập, xử lí thông tin về tác phẩm văn xuôi nước
ngoài.
Trong quá trình giảng dạy, lẽ ra phần liên hệ với toàn bộ tác phẩm khi dạy
đọc hiểu đoạn trích, hoặc liên hệ đến các tác phẩm khác, đến phong cách tác giả
khi dạy đọc hiểu truyện ngắn phải được chú trọng thì lại bị giáo viên coi nhẹ.
Trong quá trình dự giờ tác phẩm “Người trong bao” tại lớp 11A4 trường THPT
Kim Liên, giáo viên chỉ đề cập đến tác giả trong phần giới thiệu, rồi sau đó gần
như chỉ tập trung vào tình tiết truyện mà hầu như không liên hệ đến một tác
phẩm nào khác. Vậy, giáo viên là người giảng dạy mà còn thiếu cái nhìn tổng
quát, thì sự hiểu biết của học sinh cũng không thể toàn diện.
b. Về phần học sinh

Nhìn chung, khi học tập tác phẩm văn học nước ngoài, phần văn xuôi học
sinh có cảm nhận là dễ học hơn các tác phẩm thơ. Tuy nhiên, vì thời gian học
trên lớp ngắn, sự chuẩn bị bài không đúng yêu cầu nên những gì học sinh thu
được thường dễ bị bỏ quên sau một thời gian ngắn. Thậm chí sau khi học xong
đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (trích “Những người khốn
khổ”- Vichto Huy-gô, phỏng vấn 10 em học sinh lớp 11A1 trường THPT Cao
Bá Quát với câu hỏi “Em có nhớ tên nhân vật chính của đoạn trích “Người cầm
quyền khôi phục uy quyền không?” thì có đến 4 học sinh trả lời “không” ngay lập
tức và 2 học sinh cần thời gian mới cố gắng nhớ ra được tên nhân vật.
Vấn đề đối với học sinh ở đây là cần có sự chuẩn bị bài kĩ lưỡng. Ngoài
việc trả lời các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài, học sinh còn cần được
giao nhiệm vụ tìm hiểu thêm về tác giả, tác phẩm sẽ học. Đồng thời trong quá
23
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình chuẩn bị bài ấy, học sinh đã bước đầu hiểu về nội dung tác phẩm. Nhờ thế
mà quá trình học tập trên lớp trở nên có hiệu quả.
CHƯƠNG III. ĐỀ XUẤT QUI TRÌNH GIẢNG DẠY ĐỌC HIỂU
TÁC PHẨM VĂN XUÔI NƯỚC NGOÀI (SGK NGỮ VĂN 11)
24
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.1. Ý nghĩa của việc lập qui trình giảng dạy đọc hiểu tác phẩm văn
xuôi nước ngoài (SGK Ngữ văn 11)
Như tôi đã đề cập ở phần trước, hiện trạng dạy đọc hiểu văn xuôi nước
ngoài (SGK Ngữ văn 11) còn nhiều vấn đề đáng bàn luận. Một tác phẩm được
dịch từ thứ ngôn ngữ khác, dù là những tác phẩm kinh điển và nổi tiếng của thế
giới cũng vẫn rất khó khăn cho giáo viên trong việc hiểu rõ nội dung tư tưởng,
chưa nói đến việc còn cần phải truyền thụ những kiến thức thu được cho học
sinh. Giảng dạy văn xuôi nước ngoài là sự kết hợp của việc nghiên cứu về ngôn

ngữ, văn hóa, thể loại văn học, trào lưu văn học,… đồng thời phải tìm ra phương
pháp tạo hứng thú, giúp học sinh hiểu và nắm bắt dễ dàng.
Hiện nay, đa phần các giáo viên đều giảng dạy theo một qui trình vốn có
sẵn khi giảng dạy tác phẩm văn chương: Thời lượng như nhau đối với mỗi phần
tác giả, xuất xứ tác phẩm khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi nước ngoài cũng như
tác phẩm văn học Việt Nam. Điều này cần phải xem xét lại. Mọi tác phẩm văn
chương đều cần phải được tìm hiểu về cuộc đời nhà văn, phong cách sáng tác,
các yếu tố khách quan tác động đến tư tưởng, giá trị tác phẩm. Tuy nhiên, với
các tác giả văn học dân tộc, học sinh ít nhiều đã quen thuộc, từng đọc tác phẩm
hoặc tiếp tục phân tích tác phẩm của tác giả đã học từ cấp THCS. Với những tác
giả, tác phẩm ấy, nguồn tư liệu phong phú, dễ tìm, học sinh dễ tìm hiểu hơn và
quá trình tiếp thu nhanh hơn. Còn các tác phẩm VHNN vốn từ lâu ít được chú
trọng, không đưa nhiều vào các bài kiểm tra nên học sinh thường ít quan tâm, vì
thế cũng không tìm hiểu nhiều thông tin bên ngoài SGK. Điều này có thể giúp
giáo viên dễ áp đặt các ý kiến của mình cho học sinh, và kết quả là lối suy nghĩ,
cách hiểu đi vào sáo mòn, không có sự tìm tòi đổi mới.
Việc tìm ra một qui trình giảng dạy đọc hiểu riêng cho tác phẩm văn xuôi
nước ngoài trong đó đánh giá cao sự tự hiểu, tự đánh giá, sự chuẩn bị kĩ lưỡng
của học sinh theo hướng dẫn của giáo viên chính là giải pháp tốt để đạt được
hiệu quả cao trong giảng dạy các tác phẩm ấy. Thực tế ý kiến của rất nhiều giáo
viên cho rằng để bớt lúng lúng trong giảng dạy tác phẩm văn xuôi nước ngoài
25
Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn

×