Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sử dụng mô hình IS LM để phân tích tác động của chính sách tài khóa và tiền tệ tới sản lượng và việc làm liên hệ với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.63 KB, 20 trang )

Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
Đề tài: Sử dụng mô hình IS-LM để phân tích tác
động của chính sách tài khóa và tiền tệ tới sản
lượng và việc làm. Liên hệ với Việt Nam.
Đề cương chi tiết:
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
I. Cơ sở lí thuyết.
1. Đường IS
a. khái niệm
b. Cách dựng đường IS.
c. Phương trình đường IS.
d. Độ dốc.
e. Sự dịch chuyển và trượt dọc.
2. Chính sách tài khóa, tiền tệ và sự phối hợp hai chính sách này.
a. Khái niệm.
b. Cách dựng.
c. Phương trình đường ML.
d. Độ dốc.
e. sự dịch chuyển và trượt dọc đường ML.
II. Liên hệ thực tế.
1. Tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010.
2. Các chính sách tài khóa, tiền tệ của nhà nước trong thời gian qua.
III. Kết luận:
1. Nhận xét
2. Một số giải pháp
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Mô hình IS-LM, còn được biết đến với tên gọi khác là mô hình Hicks-Hansen, được nhà
kinh tế học J. R. Hicks (1904-1989) và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin Hansen (1887-
1975) đưa ra và phát triển. Mô hình IS-LM được sử dụng để mô tả sự tác động qua lại giữa


lãi suất và sản lượng trong nền kinh tế. Mô hình này có hai đường: đường IS mô tả sự cân
bằng của thị trường hàng hóa (tức thị trường sản phẩm); đường LM mô tả sự cân bằng của
thị trường tiền tệ. Kết hợp IS và LM ta có sự cân bằng chung của hai loại thị trường.
Trong chương trình môn học Kinh tế vĩ mô, thì lý thuyết về mô hình IS – LM chiếm vị trí
quan trọng, có thể nói học kinh tế vĩ mô là phải hiểu rõ chính xác mô hình này. Trong quản
lí kinh tế, để điều tiết nền kinh tế thì chính phủ sử dụng các công cụ để quản lí, ổn định nền
kinh tế; trong những công cụ đó thì chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là những công
cụ quan trong nhất, được sử dụng nhiều nhất. cơ chế tác động của chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ được thể hiện rất rõ qua mô hình IS-LM. Vì vậy, để hiêu rõ hơn về mô
hình IS-LM và việc sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để quản lí nền kinh tế chúng
ta cùng đi tìm hiểu đề tài “ Sử dụng mô hình IS-LM để phân tích tác động của chính
sách tài khóa và tiền tệ tới sản lượng và việc làm. Liên hệ với Việt Nam” .
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. ĐƯỜNG IS
a. Khái niệm:
Đường IS là đường biểu diễn tập hợp tất cả những điểm cân bằng của thị trường hàng hoá
ứng với từng mức lãi suất.
- Mục đích xây dựng đường IS là nhằm mô tả sự tác động của lãi suất đối với sản lượng cân
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
bằng. Nó cho biết sản lượng cân bằng sẽ thay đổi như thế nào khi lãi suất thay đổi.
b. Cách xây dựng đường IS:
Muốn xây dựng đường IS ta bắt đầu từ sự thay đổi của lãi suất. Trên hình 1.1, ở mức lãi
suất i
0
, tổng cầu là đường AD
0
, sản lượng cân bằng tại Y
0
, thị trường hàng hoá cân bằng tại

điểm E
0
. Ở đồ thị trục tung là lãi suất, trục hoành là sản lượng (thu nhập) ta có tổ hợp A
(Y
0
, i
0
).
Khi lãi suất giảm từ i
0
tới i
1
tổng cầu sẽ được mở rộng làm đường tổng cầu AD
0
dịch
chuyển tới AD
1
, xác định mức sản lượng cân bằng mới E
1
. Khi đó điểm cân bằng mới của
thị trường hàng hoá là điểm E
1
. Ở đồ thị phía bên dưới, ứng với mức lãi suất i
1
thì mức sản
lượng cân bằng là Y
1
, xác định tổ hợp B (Y
1
, i

1
).
Ta nối hai điểm A và B ở đồ thị phía bên dưới, đây chính là đường IS. Khi lãi suất từ
i
0
giảm xuống tới i
1
thì mức sản lượng cân bằng Y sẽ di chuyển từ điểm A tới điểm B trên
đường IS. Mức sản lượng cân bằng sẽ từ Y
0
dịch chuyển tới Y
1
.
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
c. Phương trình đường IS.
Đường IS được hình thành từ sự thay đổi điểm cân bằng sản lượng dưới tác động của lãi
suất. Mà tác động của lãi suất làm thay đổi sản lượng cân bằng là do sự thay đổi của đầu tư.
Do đó, chỉ cần giải phương trình cân bằng sản lượng (Y = AD) trong điều kiện đầu tư là
một hàm theo lãi suất thì ta có được phương trình đường IS: Y= f (i) hoặc i= f (Y)
Phương trình: i=
''.
1
mbb
A

. Y
Trong đó A: tổng các yếu tố tự định; b = d+l (d: hệ số phản ánh sự nhạy cảm của đầu tư với
lãi suất; l: hệ số phản ánh sự nhạy cảm của xuất khẩu với lãi suất); m’’: số nhân trong nền
kinh tế mở.
d. Độ dốc của đường IS.

e. Sự dịch chuyển và trượt dọc của đường IS.
Sự trượt dọc theo đường IS cho ta thấy sự thay đổi của sản lượng cân bằng chỉ do sự biến
động riêng của lãi suất làm dịch chuyển đường tổng cầu.
Ở mức lãi suất nhất định, các nhân tố khác ngoài lãi suất có biến động và làm dịch chuyển
đường tổng cầu cũng sẽ làm dịch chuyển đường IS. Nguyên tắc của sự dịch chuyển này là:
Nếu các nhân tố đó làm tăng tổng cầu thì đường IS dịch chuyển sang phải; ngược lại, nếu
làm giảm tổng cầu thì đường IS sẽ dịch chuyển sang trái. Lượng dịch chuyển sang phải hay
sang trái bằng với lượng thay đổi của sản lượng cân bằng.
2. ĐƯỜNG LM
a. Khái niệm:
Đường LM là đường biểu diễn tập hợp những điểm cân bằng của thị trường tiền tệ ứng với
từng mức thu nhập. Mục đích xây dựng đường LM nhằm mô tả sự tác động của sản lượng
đối với lãi suất cân bằng. Nó cho biết lãi suất cân bằng sẽ thay đổi như thế nào khi sản
lượng thay đổi, trong điều kiện cố định các yếu tố khác.
b. Cách xây dựng đường LM:
O
Y
IS
IS

i
i
0
i
1
i
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
Muốn xây dựng đường LM ta bắt đầu từ sự thay đổi của sản lượng (thu nhập). Giả định
rằng mức cung tiền cố định ở mức M
0

, với mức thu nhập ở Y
0
, đường cầu tiền là đường
LP
0
, và thị trường tiền tệ cân bằng tại điểm E
0
. Tại đồ thị trục tung là lãi suất, trục hoành
là sản lượng, có tổ hợp A (Y
0
, i
0
) là tổ hợp biểu thị mức lãi suất cân bằng (i
0
) ứng với mức
thu nhập (Y
0
).
Khi thu nhập tăng từ Y
0
tới Y
1
thì đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ LP
0
tới LP
1
. Thị trường
tiền tệ cân bằng tại điểm E
1
, mức lãi suất cân bằng là i

1
. Ứng với mức thu nhập là Y
1
thì thị
trường tiền tệ cân tằng tại mức lãi suất i
1
. Ở đồ thị lãi suất và thu nhập sẽ xác lập điểm
B(Y
1
, i
1
). Nối hai điểm A và B, ta được đường LM.
c. Phương trình đường LM
Đường LM được hình thành từ sự thay đổi điểm cân bằng lãi suất dưới tác động của sản
lượng. Mà tác động của sản lượng làm thay đổi lãi suất cân bằng là do sự thay đổi cầu về
tiền. Do đó, chỉ cần giải phương trình cân bằng của thị trường tiền tệ (
P
MS
= LP) trong
điều kiện cầu về tiền là một hàm theo lãi suất và sản lượng ta sẽ được phương trình đường
LM: i= f (Y) hoặc Y= f (i)
Phương trình: i=
h
Yk
hP
MS .
.
+



Trong đó:
P
MS
là lượng cung tiền thực tế; k là hệ số phản ánh sự nhạy cảm của cầu tiền với
thu nhập; h là hệ số phản ánh sự nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất.
Y
i
M
O
O
MS
M
0
LP
1
(Y
1
)
E
1
LP
0
(Y
0
)
E
0
i
1
i

0
LM
B
A
Y
1
Y
0
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
d. Độ dốc của đường LM
Độ dốc:
h
k
Đường LM dốc lên, thể hiện: khi sản lượng cao hơn sẽ đòi hỏi lượng tiền cao hơn. Do đó,
ứng với một lượng cung tiền không đổi, để giảm bớt cầu tiền lãi suất cân bằng trên thị
trường tiền tệ sẽ tăng lên.
Độ dốc của đường LM phụ thuộc độ nhạy cảm của cầu tiền đối với sự thay đổi của sản
lượng. Nếu sản lượng thay đổi làm cho cầu tiền thay đổi nhiều thì đường LM sẽ rất dốc,
còn nếu sản lượng thay đổi làm cho cầu tiền thay đổi ít thì đường LM sẽ thoai thoải.
e. Sự dịch chuyển và trượt dọc của đường LM
Đường LM được hình thành từ sự thay đổi của sản lượng trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi. Do đó, tác động của sản lượng làm thay đổi lãi suất cân bằng được thể hiện
bằng sự trượt dọc theo đường LM. Còn tác động của các yếu tố khác với sản lượng làm
thay đổi lãi suất cân bằng thì đường LM sẽ dịch chuyển.
Đường LM có thể dịch chuyển do sự thay đổi của cầu tiền (mà không phải do sản lượng
gây ra); cũng có thể do thay đổi lượng cung tiền. Nguyên tắc dịch chuyển của đường LM
khi lượng cung tiền thay đổi là: lượng cung tiền tăng thì đường LM dịch chuyển xuống
dưới; lượng cung tiền giảm thì đường LM dịch chuyển lên trên.
3. SỰ CÂN BẰNG ĐỒNG THỜI CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA VÀ TIỀN TỆ
- Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác

nhau giữa lãi suất và thu nhập.
- Đường LM phản ánh trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ với các tổ hợp khác nhau
giữa lãi suất và thu nhập.
- Như vậy, sự cân bằng đồng thời giữa thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ chỉ xảy ra
khi nền kinh tế vừa nằm trên đường IS vừa nằm trên đường LM, tức là phải nằm ở giao
điểm của hai đường. Trên đồ thị ở hình bên, điểm E
0
(Y
0
, i
0
) chính là điểm cân bằng chung
của cả hai thị trường.
Y
0
IS
E
0
i
Y
LM
O
i
0
Y
i
O
LM

LM

Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
- Về mặt đại số, muốn xác định điểm E
0
này, ta giải hệ phương trình IS-LM. Nghiệm của hệ
phương trình này chính là điểm E
0
cần tìm.
4. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, TIỀN TỆ VÀ SỰ PHỐI HỢP 2 CHÍNH SÁCH NÀY
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn
việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ
thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư
công cộng để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là
các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
a. Sự tác động của chính sách tài khóa:
Để tăng sản lượng Y, chính phủ có thể sử dụng chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu
chính phủ hoặc giảm thuế). Trong ngắn hạn, chi tiêu chính phủ tăng làm tăng chi tiêu hàng
hóa trong nước (đường IS dịch chuyển sang phải trong khi đường LM đứng yên), dẫn đến
đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ (do nhu cầu về đồng nội tệ lớn). Đồng nội tệ lên giá làm
giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong dài hạn, sự gia tăng của tỷ giá hối đoái làm giảm
xuất khẩu ròng, là nguyên nhân làm mất ảnh hưởng của sự mở rộng tổng cầu trong nước về
hàng hóa và dịch vụ. Điều này làm triệt tiêu ảnh hưởng mở rộng ban đầu của chính sách tài
chính và đưa lãi suất trong nước về mức lãi suất thế giới. Do vậy: trong ngắn hạn, dưới chế
độ tỷ giá hối đoái thả nổi và vốn chu chuyển hoàn hảo thì chính sách tài chính hoàn toàn
không có hiệu lực trong việc điều tiết tổng cầu của nền kinh tế.
Để giảm sản lượng Y, chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt( giẳm chi tiêu,
tăng thuế).
b. Sự tác động của chính sách tiền tệ.
Khi chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ lỏng bằng việc tăng cung tiền sẽ tạo áp lực làm

tăng tỷ giá hối đoái, đường LM dịch chuyển sang phải. Để giữ cho tỷ giá hối đoái cố định
thì cung tiền phải giảm dẫn đến đường LM dịch chuyển sang trái về vị trí ban đầu. Do vậy,
trong ngắn hạn, với tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách tiền tệ không có hiệu quả.
c. Sự tác động đồng thời của chính sách tài khóa và tiền tệ:
• Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng: làm cho cả đường IS và LM đều
dịch phải
- Khi sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có cùng mức độ làm cho đường IS
và LM dịch chuyển sang phải một đoạn như nhau làm cho lãi suất cân bằng không đổi, sản
lượng cân bằng tăng
IS
O
IS
1
LM
LM
1
i
Y
Y
0
Y
1
i
0
E
0
E
1
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
- Khi chính sách tài khóa lấn át chính sách tiền tệ thì đường IS dịch sang phải nhiều hơn

đường LM làm cho lãi suất cân bằng và sản lượng cân bằng đồng thời tăng
- Khi chính sách tiền tệ lấn át chính sách tài thì đường LM dịch sang phải nhiều hơn đường
IS làm cho lãi suất cân bằng giảm, sản lượng cân bằng tăng.
• Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thắt chặt: Làm cho cả đường IS và LM đều
dịch trái.
IS
O
IS
1
LM
1
Y
Y
0
Y
1
i
0
LM
i
1
E
0
E
1
i
IS
O
IS
1

LM
1
Y
Y
0
Y
1
i
0
LM
i
1
E
0
E
1
i
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
- Khi sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có cùng mức độ làm cho đường IS
và LM dịch chuyển sang trái một đoạn như nhau làm cho lãi suất cân bằng không đổi, sản
lượng cân bằng giảm
- Khi chính sách tài khóa lấn át chính sách tiền tệ thì đường IS dịch sang trái nhiều hơn
đường LM làm cho lãi suất cân bằng và sản lượng cân bằng đồng thời giảm
- Khi chính sách tiền tệ lấn át chính sách tài thì đường LM dịch sang trái nhiều hơn đường
IS làm cho lãi suất cân bằng tăng, sản lượng cân bằng giảm
IS
1
O
IS
LM

Y
Y
1
Y
0
i
0
E
1
E
0
i

LM
1
IS
1
O
IS
LM
Y
Y
1
Y
0
i
0
i
1
E

1
E
0
i

IS
1
O
IS
Y
Y
1
Y
0
i
0
i
1
E
1
E
0
i

LM
1
LM
1
LM
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.

• Chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ mở rộng
- Khi sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có cùng mức độ làm cho đường IS
dịch trái và LM dịch phải một đoạn như nhau làm cho lãi suất cân bằng giảm, sản lượng
cân bằng không đổi
- Khi chính sách tài khóa lấn át chính sách tiền tệ thì đường IS dịch sang trái nhiều hơn
đường LM dịch phải một đoạn làm cho lãi suất cân bằng và sản lượng cân bằng đồng thời
giảm
- Khi chính sách tiền tệ lấn át chính sách tài thì đường LM dịch sang phải nhiều hơn đường
IS dịch trái một đoạn làm cho lãi suất cân bằng giảm, sản lượng cân bằng tăng
IS
1
O
IS
Y
Y
0
i
0
E
1
LM
E
0
LM
1
i
1
IS
1
O

IS
Y
Y
0
i
0
E
1
i
1
i
i
E
0
LM
LM
1
Y
1
IS
1
O
IS
Y
Y
0
i
1
E
1

i
0
i
E
0
LM
Y
1
LM
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
• Chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ thắt chặt
- Khi sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có cùng mức độ làm cho đường IS
dịch phải và đường LM dịch trái một đoạn như nhau làm cho lãi suất cân bằng tăng, sản
lượng cân bằng không đổi
- Khi chính sách tài khóa lấn át chính sách tiền tệ thì đường IS dịch phải nhiều hơn đường
LM dịch trái một đoạn làm cho lãi suất cân bằng và sản lượng cân bằng đồng thời tăng
- Khi chính sách tiền tệ lấn át chính sách tài thì đường LM dịch sang trái nhiều hơn đường
IS dịch phải một đoạn làm cho lãi suất cân bằng tăng, sản lượng cân bằng giảm

IS
O
IS
1
Y
Y
1
i
0
E
0

i
1
i
E
1
LM
Y
0
LM
1
IS
O
IS
1
Y
Y
1
i
0
E
0
i
1
i
E
1
LM
Y
0
IS

O
IS
1
Y
Y
0
i
0
E
1
i
1
i
E
0
LM
LM
1
LM
1
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
II. LIÊN HỆ VÀO VIỆT NAM
1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2006-
2010
Chính trị xã hội ổn định; kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá; thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN gắn với hội nhập kinh tế quốc tế bước đầu hình thành và được vận hành
thông suốt Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, sự tăng trưởng đó vẫn chưa đạt được mục
tiêu kế hoạch đề ra cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cần có giải pháp mới để tiếp tục tăng
trưởng ổn định và cao hơn trong thời gian tới.
Những thành tựu nổi bật…

- Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên chặng
đường phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Sang những năm cuối của
thời kỳ kế hoạch, nhất là từ Quý II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao,
tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không
thuận đến nền kinh tế nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân trong cả
thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể. Điều này
được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn như sau:
- Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP (tính theo giá trị so sánh) năm
2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt
trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu
người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt
qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung
bình. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
- Cấu trúc kinh tế đã có những thay đổi tích cực, hứa hẹn sáng sủa hơn trong tầm nhìn dài
hạn. Giao lưu kinh tế quốc tế phát triển. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010
đạt 56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỉ USD năm 2006 đã
tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA
ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi. Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm
2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt 11,5 tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội,
cao hơn rất nhiều so với năm trước. Năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng
vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỉ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỉ vào năm 2010 (tăng
157,5% so với năm 2006). Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm.
Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm cuối
kỳ kế hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức khoảng 28%
GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia được bảo đảm, ước
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5% GDP. Dư nợ ngoài nước của
quốc gia so GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách tiền tệ điều hành linh hoạt theo

nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng,
ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng thương mại có sự phát triển cả về quy mô và
chất lượng tín dụng; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn
mực quốc tế trên 8%. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu
của kỳ kế hoạch, còn 2 năm cuối (2009-2010) tuy có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá vỡ
cân đối.
- Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua theo giá
hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7% GDP,
gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao, nhiều khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, cụm công nghiệp được ra đời và đi vào hoạt động hiệu
quả, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ở tất cả các vùng, miền trong cả nước.
… Và những hạn chế, yếu kém
Những thành tựu cả nước đạt được nêu trên trong bối cảnh bị tác động bởi kinh tế thế giới
suy thoái là rất đáng ghi nhận. Song nhìn một cách tổng thể so với yêu cầu thì chất lượng
tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kinh tế phát
triển chưa bền vững vẫn ở dưới mức tiềm năng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều
sâu, các cân đối vĩ mô còn hạn hẹp, lợi ích mang lại từ tăng trưởng kinh tế không cao. Thể
hiện:
- Với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 khoảng 6,7%, khả năng tăng
trưởng GDP bình quân cả giai đoạn 5 năm này sẽ chỉ đạt khoảng 7%, thấp hơn mục tiêu kế
hoạch đặt ra là từ 7,5-8%
- Tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác động đầu vào
(vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp (TFP), chủ yếu là
nhân tố khoa học, công nghệ thì rất thấp. Mặt khác, chất lượng các nhân tố tác động vào
mô hình tăng trưởng trong thời kỳ 5 năm 2006 – 2010 vẫn chưa có những đột biến tích cực,
biểu hiện rõ nét nhất là nguồn vốn sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát nhiều, chất
lượng nhân lực còn hạn chế, chưa tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế và năng suất

lao động.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản
trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra
là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Tương tự, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
trong GDP chỉ tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra là
khoảng 2 – 3 điểm phần trăm); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP 5 năm qua cũng chỉ
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
tăng khoảng 0,59 điểm phần trăm. Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, nguyên nhiên liệu cho một
đơn vị sản phẩm trong quy trình sản xuất khá lớn, nhưng sản phẩm làm ra lại đơn điệu, chất
lượng thấp, giá thành cao Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng cách
quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những vùng khác
cùng phát triển. Các thành phần kinh tế chưa được khuyến khích phát triển trên cùng một
mặt bằng về cơ chế chính sách
- Nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng
- Tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu
chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các khoản vay
trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy động vốn để
xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Gánh nặng kinh phí để chi trả
khi các trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán sẽ dễ tạo khả năng bấp bênh trong cân đối
ngân sách, trong khi những cân đối này và các cân đối tiền tệ, tín dụng, xuất nhập khẩu, cán
cân thanh toán quốc tế chưa thật ổn định và còn nhiều yếu tố có thể gây ra tái lạm phát.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài .
- Giá tăng nhanh hơn thu nhập. “Nghịch lý” phát triển hiếm thấy của giai đoạn 2006 -
2010 được Viện trưởng Thiên khái quát là: cơ hội thuận lợi lớn, mức đầu tư cao, thị trường
mở rộng, đà tăng trưởng tốt, nhưng tăng trưởng giảm, lạm phát cao và bất ổn nghiêm trọng.
Con số được ông Thiên đưa ra so sánh để thấy rõ tính “có vấn đề” của giai đoạn vừa qua là
mức trung bình của ba kỳ 5 năm của lạm phát và tăng trưởng. Cụ thể từ 1996 - 2000, CPI
bình quân là 3,4% còn tăng trưởng GDP bình quân là 6,96%. Các con số tương ứng của giai

đoạn 2001 - 2005 là 5,1% và 7,51%; giai đoạn 2006 - 2010 là 11,4% và 7,2%.
Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi
tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%.
- Tăng trưởng xuất khẩu cũng không đạt mục tiêu kế hoạch. Theo ước tính của cơ quan
lập báo cáo, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chỉ đạt khoảng 15,8%, thấp hơn
0,2% so với mức kế hoạch đặt ra, chủ yếu do bị suy giảm mạnh trong năm 2009 (giảm
khoảng 9%).
Liên quan đến chỉ tiêu này, nhập siêu tăng đáng quan ngại từ mức dưới 5 tỷ USD vào năm
2006 đã vọt lên trên 12 tỷ USD năm 2007, khoảng 17,5 tỷ USD vào năm 2008 và giữ ở
mức 12-13 tỷ USD/năm trong 2 năm cuối giai đoạn 5 năm này, chu kỳ khởi động gia nhập
WTO của Việt Nam.
Trong nhiều thời điểm, thâm hụt thương mại, thâm hụt vãng lai đã vượt khỏi khả năng bù
đắp của thặng dư cán cân vốn, làm giảm dự trữ ngoại hối và gây sức ép mất giá đồng nội tệ.
Đây được cho là một trong những rủi ro vĩ mô đáng kể hiện nay.
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
-Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP đạt tỷ lệ 42,7%, cao hơn 2,7% so với mục
tiêu đặt ra. Sự gia tăng đầu tư vượt quá tiết kiệm của nền kinh tế khiến thâm hụt ngân sách
liên tục duy trì ở mức 5% và đỉnh điểm là 6,9% GDP vào năm 2009, buộc Việt Nam phải
sử dụng nguồn vốn bên ngoài để bù đắp.
Hệ quả là nợ nước ngoài quốc gia tăng lên nhanh chóng, tính đến 31/12/2009 đã gấp gần 2
lần so với thời điểm cuối năm 2005, và đạt con số khoảng 28 tỷ USD, tương đương với
39% GDP.
-Tỷ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách nhà nước chiếm tới 28%, cao hơn mức 21-
22% đặt ra trong kế hoạch 5 năm, bất chấp các chính sách miễn, giảm thuế của Chính phủ
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong giai đoạn suy thoái
2. Các chính sách tài khóa, tiền tệ của nhà nước trong thời gian qua
Trong 5 năm 2006 - 2010, trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất
là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, các cấp, các
ngành, các doanh nghiệp và toàn dân đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan
trọng Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện kế hoạch phát triển KT-

XH 5 năm 2006 - 2010 cũng còn một số hạn chế, yếu kém cần được khắc phục như: một số
mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt kế hoạch. Kinh tế phát triển chủ yếu theo
chiều rộng, chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH còn chậm… Những hạn chế yếu kém
trên có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, trong
đó là do việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài gây áp lực lên lạm phát cao.
Tại Việt Nam, việc phối hợp chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) đã
có những chuyển biến tích cực, nhất là trong việc chỉ đạo điều hành giữa Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) và Bộ Tài chính, có sự phối hợp trong việc phát hành tín phiếu
kho bạc, xác định lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ, Luật NHNN cũng đã quy định là
không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, tiền gửi kho bạc phải gửi tại NHNN.
Hàng năm, Quốc hội thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu và khống chế mức thâm
hụt ngân sách trong tỉ lệ nhất định, việc chỉ đạo điều hành của Chính phủ cũng đảm bảo sự
nhất quán giữa mục tiêu CSTT và CSTK.
Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, còn thiếu sự phối hợp trong quá trình điều hành hai
chính sách này, chưa có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với
chính sách lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm được các khoản thu
chi lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động
của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ.
Từ cuối năm 2007, kinh tế thế giới biến động mạnh và bước vào thời kỳ suy thoái, gây ra
những bất ổn khó lường đối với nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính trong nước chao
đảo mạnh, đe dọa tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất và tỉ giá biến động
mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Để ổn định thị trường, NHNN, Bộ Tài chính và các bộ,
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
ngành đã có nhiều biện pháp can thiệp quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả, từng bước giải
quyết các vấn đề phát sinh.
Từ tháng 6/2007 đến tháng 9/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để
chống lạm phát, nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm
phát vì thế không đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy
lùi. Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì CSTK lại nới lỏng, khiến áp lực lạm phát

và lãi suất tăng. Khi đó, CSTK mới bắt đầu điều chỉnh theo hướng giảm tỉ lệ thâm hụt
xuống dưới 3% GDP, cắt giảm 10% chi thường xuyên,
Từ tháng 10/2008, Chính phủ chủ trương nới lỏng CSTT và CSTK để hỗ trợ phục hồi kinh
tế sau khủng hoảng. Đối với CSTT, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản để giảm mặt
bằng lãi suất cho vay, đồng thời tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng
tín dụng trong nền kinh tế. Đối với CSTK, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-
CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo
đảm an sinh xã hội, bao gồm 5 nhóm giải pháp cơ bản, trong đó kích cầu kinh tế là một
trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh khoản 36.000 tỉ đồng trái phiếu Chính
phủ và hàng loạt chính sách an sinh xã hội và phát triển hạ tầng nông thôn, miễn giảm một
số loại thuế, hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước 2009, phát hành trái phiếu
Chính phủ bổ sung, …. Chính phủ đã dùng 1 tỉ USD từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ
giảm 4% lãi suất (thời hạn 8 tháng) và 20.000 tỉ đồng (thời hạn 24 tháng).
Về vấn đề kích cầu, NHNN đã thực hiện đúng nguyên tắc với nhiều giải pháp thích hợp
nhằm hướng các khoản vay đúng đối tượng, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay hỗ trợ lãi suất
và hạn chế rủi ro hệ thống. Nhờ đó, các tổ chức, cá nhân đã tiếp cận được vốn ngân hàng
với chi phí thấp, giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh và việc làm, từng
bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày
26/11/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất là 415.886,92 tỉ đồng.
Tuy nhiên, với mức thâm hụt ngân sách khá cao để nới lỏng CSTT và CSTK, nguồn vốn
trong nền kinh tế dường như đã bị cạn kiệt, có thể ảnh hưởng đến giá trị VND và gây áp lực
tăng lãi suất, nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy động đến sát trần qui định 10%, nhất là
từ cuối tháng 10/2009, buộc NHNN phải quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%, bắt
đầu có hiệu lực từ tháng 12/2009.
Thực trạng CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy, mặc dù hai chính sách này đã được tận
dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở những tác
động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. Điều này cũng do CSTT linh
hoạt hơn so với CSTK, việc thay đổi lượng tiền cung ứng sẽ làm thay đổi mức lãi suất và
NHTW có thể tác động đến đầu tư, xuất khẩu ròng và tiêu dùng trong ngắn hạn. Trong đó,
NHNN có thể sử dụng CSTT để điều chỉnh mức lạm phát, gây tác động lên năng suất lao

động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất khó thay đổi CSTK do
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế hoạch ngân sách hàng năm
do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với CSTT.
Trong điều kiện Việt Nam, áp lực đối với ngân sách nhà nước tồn tại thường xuyên và có
xu hướng tăng, cơ cấu và hiệu quả cũng như khả năng kiểm soát chi tiêu ngân sách nhà
nước thể hiện các dấu hiệu thiếu bền vững do các khoản chi tiêu ngân sách không tạo ra
nguồn thu trong tương lai, thậm chí gây sức ép cho chuỗi bội chi mới. Gói kích cầu trong
thời gian qua đã có tác dụng loại trừ nguy cơ đổ vỡ dây chuyền trong khu vực doanh nghiệp
và nền kinh tế không bị rơi vào suy thoái trầm trọng, nhưng xu hướng mở rộng chi tiêu
công và các biện pháp nới lỏng kiểm soát tiền tệ kéo dài đang gặp phải cản trở lớn là hiệu
quả đầu tư quá thấp với bằng chứng là chỉ số ICOR năm 2008 đã lên con số 8. Trên thực tế,
nền kinh tế đứng trước nguy cơ của vòng xoáy lạm phát, nếu cứ tiếp tục kích cầu và thực
hiện gói kích cầu thứ hai mà không có giải pháp dài hạn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư, đảm bảo nguồn trả nợ trong tương lai.
Trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát đã vượt mục
tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả không mong muốn này,
trong đó sự phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
cũng đã ảnh hưởng tới kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Sự phối
hợp chưa nhịp nhàng giữa hai chính sách vĩ mô quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn là do:
Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ ở Việt Nam. Với mô hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy
khu vực kinh tế nhà nước hiện tại hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và nhờ vào việc bán
tài nguyên, gia công trình độ thấp dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh
chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (hệ số ICOR)
vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn đến quyết định logic về chính sách là để tăng
trưởng cao cần gia tăng đầu tư.
Thứ hai: Kết cục của mô hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi chính sách

tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp
cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công
trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là
246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt
ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3 - 4 lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính
phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng
226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các công trình, dự án sử
dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
đến khả năng vay và trả nợ” Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp lý
số lượng dự án hoàn thành còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba: Chính sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ
lệ đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhất châu Á, sau Trung Quốc. Do nền kinh tế
kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối
giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là
lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép
nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát
tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán (25%) khá tốt năm
2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản của lạm
phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền tệ đang vận
hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một
số mặt hàng như xăng dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu
lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ngay trong tháng 12 năm 2010, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt thông
qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng chính sách tài khóa dù có dấu hiệu thắt chặt hơn nhưng
nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng.
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 ước tính

ICOR 5 4,75 6,95 8,23 6,18
Nợ công (5 trên GDP) 42,9 45,6 43,9 52,6 56,7
Nợ nước ngoài (tỉ USD, tính đến cuối năm) 19,1 23,2 29,4 36,6 41,7
Đầu tư (%, so với GDP) 40,96 40,4 43,1 42,8 44,2
Tính toán dựa trên nguồn từ Tổng cục Thống kê
Thứ năm: Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị trường
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để huy động vốn cho gia
tăng đầu tư công, Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất ở
một số thời điểm lên tới 11 - 12%/năm, cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín
dụng, sau một thời gian, mức lãi suất huy động trái phiếu đã giảm xuống 9,6% năm, nhưng
vẫn cao hơn so với mức rủi ro của công cụ tài chính này. Các ngân hàng thương mại với
động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, họ đã sử dụng vốn huy động được trên
thị trường mua trái phiếu chính phủ hấp dẫn hơn là cho các doanh nghiệp vay và mức lãi
suất này vô hình trung đã đẩy mức lãi suất huy động trên thị trường lên cao. Đây là một
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
biểu hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành của chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ
trong thời gian qua.
Thứ sáu: Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về ngắn hạn.
Điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ, cập nhật và
chính xác, thế nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính
công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch
Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mô hình IS-LM. Theo mô
hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm lãi suất trên
thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất vì khi đó cung tiền
giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh CSTT và CSTK, để
có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền kinh tế.
III. KẾT LUẬN:
1. Nhận xét.
• Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng

trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa có tính
độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ điều
hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và kiểm soát
lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn kết sẽ làm giảm
hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể làm trầm trọng, làm cho kinh tế vĩ mô
bất ổn.
• Thực trạng CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy, mặc dù hai chính sách này đã được
tận dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở những
tác động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. Điều này cũng do
CSTT linh hoạt hơn so với CSTK, việc thay đổi lượng tiền cung ứng sẽ làm thay đổi
mức lãi suất và NHTW có thể tác động đến đầu tư, xuất khẩu ròng và tiêu dùng trong
ngắn hạn. Trong đó, NHNN có thể sử dụng CSTT để điều chỉnh mức lạm phát, gây tác
động lên năng suất lao động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên,
rất khó thay đổi CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách,
kế hoạch ngân sách hàng năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với
CSTT.
2. Một số giải pháp:
• Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách này phải
nhất quán về mặt mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá trình
thực thi. Khi bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính
phủ và NHTW mua vào, tạo thêm công cụ để điều tiết thị trường tiền tệ. Trong quá
trình thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và các khoản thu chi lớn của Chính phủ phải
Bài thảo luận kinh tế vĩ mô.
có kế hoạch và được thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được diễn biến
cung tiền để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu quả của CSTT.
• Cần hạn chế tình trạng đảo chiều liên tục trong điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa. Trong quá trình điều hành, các cơ quan chức năng cần tính đến độ trễ để
xác định thời điểm, liều lượng và mức độ tác động hợp lý. Đặc biệt là chính sách tiền tệ
luôn có độ trễ khoảng 4 - 6 tháng, nhưng lại luôn phải điều chỉnh theo thị trường và

chịu áp lực phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP. Đồng thời, tránh hiện tượng tác động
quá liều nhằm đạt mục tiêu ngắn hạn, nhưng có tác động tiêu cực trong tương lai.
• Chính sách tiền tệ cần kiên trì theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát trong dài hạn.
NHNN tránh nới lỏng tiền tệ quá sớm, phải giữ được lạm phát ở mức độ thấp ít nhất
trong vòng 6 tháng, nhằm tạo lập niềm tin của thị trường vào các cam kết ổn định kinh
tế vĩ mô. NHNN cũng cần có những cam kết mạnh mẽ trong việc chống lạm phát,
không chỉ khi lạm phát cao mà còn ngay khi lạm phát đang khá thấp và ổn định. Để duy
trì lạm phát ở mức độ hợp lý, NHNN cần xác định một cách khoa học mức tăng tổng
phương tiện thanh toán (M2), trên cơ sở mức lạm phát mục tiêu, tốc độ tăng trưởng
GDP và các yếu tố khác. Đồng thời, chủ động sử dụng các công cụ để kiểm soát mức
cung tiền, có thể chuyển chỉ tiêu kiểm soát từ M2 sang lãi suất thị trường.
• Việc phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cần thực hiện quyết liệt
hơn trong điều kiện kinh tế vĩ mô biến động, đặc biệt là trong vấn đề giảm chi tiêu
công. Tránh tình trạng chính sách tài khóa điều chỉnh hạn chế, trong khi chính sách tiền
tệ liên tục đảo chiều ở mức độ cao theo những biến động của nền kinh tế. Mặt khác, cần
tăng cường trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành chức năng, đặc biệt là NHNN và Bộ
Tài chính, song song với việc thiết kế các mối quan hệ liên tục và thường xuyên trong
việc đưa ra và thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ. Trong đó, việc phối hợp thực
hiện dự toán ngân sách nhà nước, xác định quy mô của nhu cầu, thâm hụt ngân sách hỗ
trợ tài chính, vay vốn trong nước và xem xét vay vốn nước ngoài… là rất quan trọng.
• Cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, có biện
pháp giảm thất thoát trong chi tiêu đối với các dự án và công trình lớn nhưng không
hiệu quả, đảm bảo yêu cầu kiểm soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm mục tiêu kiểm
soát việc chấp hành chế độ. Có biện pháp quyết liệt về cải cách doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là
vốn ngân sách nhà nước. Rà soát lại hệ thống DNNN, xử lý kiên quyết các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ. Cần tính đến ảnh hưởng tiêu cực của chính sách vay nợ nước
ngoài liên quan đến tỉ giá, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại, không để ảnh
hưởng xấu đến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán.

×