Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA “LỐI SỐNG MỸ” ĐẾN MIỀN NAM VIỆT NAM (1954 - 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.25 KB, 44 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA “LỐI SỐNG MỸ”
ĐẾN MIỀN NAM VIỆT NAM (1954 - 1975)
(NIÊN LUẬN, CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN HIỆN ĐẠI)
1
LỜI CẢM ƠN
Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình
của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử và sự giúp đỡ nhiệt tình của
các bạn trong tập thẻ lớp K48 - Sư phạm Sử.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc tới thầy cô và các
bạn. Đặc biệt em xin chân thành cám ơn Thạc sĩ: Trần Viết nghĩa, người
đã hướng dẫn tận tình trong quá trình thực hiện bài viết này.
Do trình độ nhận thức còn hạn chế, nên bài viết này khó tránh khỏi
những khuyết điểm, sai sót. Vì vậy, em mong nhận được sự chỉ bảo, đóng
góp của thầy, để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
MỞ ĐẦU
Thực hiện chiến tranh xâm lược, đế quốc nào cũng phải lấy việc đầu
độc về tư tưởng và văn học để bổ sung cho sự xâm lược về quân sự và nô
dịch về chính trị. Trong cuộc chiến mà Mỹ tiến hành trên lãnh thổ Việt
Nam (1954 - 1975), Mỹ đã thực hiện điều này một cách tích cực và đặc
biệt quán triệt. Bởi vì, một mặt đó là một bộ phận của chiến lược Mỹ. Mặt
khác, vì Mỹ đứng trước một nhân dân đã được thức tỉnh mạnh mẽ về ý
thức giải phóng dân tộc theo lập trường vô sản, không chấp nhận chế độ
“thực dân mới” của Mỹ, nên bên cạnh việc huỷ diệt đồng bào miền Nam
bằngbom đạn, Mỹ càng ngày càng phải đưa “chiêu bài văn học, tư tưởng”
để xoá mờ ý thức dân tộc và giai cấp, gieo rắc mơ hồ giữa ta và địch, làm
tê liệt ý chí chống Mỹ.
Mỹ tiến hành cuộc “xâm lăng văn học” một cách kiên trì và công
phu. Một mặt, Mỹ cho du nhập vào miền Nam Việt Nam tất cả các trào
lưu văn học, các vật chất hiện đại phương Tây. Mặt khác, Mỹ cũng có một


chính sách “chinh phục tinh thần” theo cách riêng của Mỹ để mà tác động
đến đông đảo quần chúng, mục đích nhằm mua chuộc quần chúng, đầu
độc họ biến họ thành thứ “nô lệ tự nguyện” của “văn học Mỹ” lối sống
Mỹ, đồng thời tạo bàn đạp cho mặt trận quân sự tiến đến xâm lược hoàn
toàn Việt Nam.
Quá trình du nhập “lối sống Mỹ”, “văn học Mỹ” vào miền nam Việt
Nam gây nên sự “xáo trộn” mạnh mẽ về văn hoá. Những tệ nạn cùng với
một vài yếu tố tích cực đã làm khung cảnh xã hội miền Nam Việt Nam có
những biến đổi nhất định.
Mục đích của bài viết này nhằm tìm hiểu sâu hơn về thứ “lối sống
Mỹ”, “văn học Mỹ” mà Mỹ đã du nhập vào Việt Nam trong chiến tranh,
phân tích tác động và đưa ra những đánh giá khách quan nhất về “công”
và “tội” của Mỹ trong “vấn đề văn học” mà Mỹ và chính quyền Việt Nam
cộng hoà đã thực hiện ở miền Nam Việt Nam.
3
Do mặt nhận thức còn hạn chết, bài viết này còn nhiều thiếu sót.
Mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và bạn đọc.
* Cấu trúc bài gồm 3 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung:
1. Đặc trưng “lối sống Mỹ” trong những năm 1954-1975.
2. Con đường du nhập “lối sống Mỹ” vào miền Nam Việt Nam.
3. Phương tiện du nhập “lối sống Mỹ”.
4. Tác động của “lối sống Mỹ” đến miền Nam Việt Nam.
Phần 3: Kết luận.
4
NỘI DUNG
1. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA “LỐI SỐNG MỸ” NHỮNG
NĂM 1954-1975
Theo P.N Phê-đô-xê-ép (Liên Xô) thì lối sống là: “Toàn bộ những

hình thức, cách thức hoạt động của các cá nhân nhằm thoả mãn và phát
triển, trong những điều kiện của hình thái kinh tế xã hội nhất định, các
nhu cầu vật chất và tinh thần của họ, tính cách giao tiếp và định hướng xã
hội học của cá nhân thuộc một nhóm xã hội, một giai cấp, một xã hội nào
đó”
1
. Nói một cách khác, đó là hình thức mà con người triển khai hoạt
động có các tính chất sống của mình và thoả mãn các nhu cầu của mình.
Theocách hiểu nhưvậy về lối sống thì trên thế giới trong những năm
1954 - 1975 đã hình thành nên hai hệ tía trị sống tương ứng với hai hệ
thống chính trị đối lập: Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Khi đó,
giới ngôn luận thế giới đã hình thành nên một khái niệm quen thuộc “lối
sống Mỹ”, lối sống được coi là đặc trưng cho xã hội tư bản với hệ giá trị
riêng của nó.
“Lối sống Mỹ” giống như mọi hiện tượng khác, có nội dụng lịch sử
cụ thể, sản phẩm của một xã hội tư bản có điều kiện vật chất phát triển.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ trở thành nước giàu mạnh nhất,
chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới Tư bản chủ nghĩa về :
quân sự, kinh tế, chính trị, lĩnh vực kinh tế, Mỹ có một ưu thế lớn trong
những năm đầu sau chiến tranh nhờ có nền công nghiệp, nông nghiệp phát
triển. Nền kinh tế Mỹ có trình độ, tập trung sx và tư bản cao. Trong những
năm 1954- 1975, Mỹ xuất hiện những công ty đặc quyền có quy mô lớn về
kết cấu phức tạp. Về quy mô, các công ty khổng lồ tập trung hàng vạn
công nhân, doanh thu hàng chục tỷ đô la: Công ty GM (gênral Motor) có
doanh thu 27 tỷ USD/năm, với 70 vạn công nhân; GM có cơ sở ở 42 nước
trên thế giới. Về kết cấu, các công ty của Mỹ bao gồm nhiều xí nghiệp
liên hiệp, kinh doanh nhiều mạt hàng, bao gồm nhiều ngành, từ sản xuất
1
Phong Hiên, “Chủnghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam (góc độ văn
hoá tư tưởng 1954-1975), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1984.tr 127

5
đến thương nghiệp, ngân hàng, giao thông vận tải v.v… Trở thành tổng
thể kinh tế lớn (gọi là những công lênêrát). Ví dụ: Côngty I.T.T liên lạc
viễn thông, nhưng dần dần do thôn tính các công ty khác nó đã kinh
doanh đầy đủ các ngành từ sản phẩm nông nghiệp, khai thác nguyên liệu
đến quân sự, hàng không vũ trụ (sản xuất những thành phần cho tàu Apôlô
đổ bộ xuống mặt trăng), thậm chí cả kinh doanh khách sạn, sản xuất bánh
mỳ…
2
.
Nền kinh tế đồ sộ, dòng lưu thông tiền tệ lớn, sức sản xuất - tiêu
dùng diễn ra sôi động; Quá trình “tự động hoá dây chuyển sản xuất” đã
tạo ra lượng hàng hoá lớn với sức tiêu dùng khổng lồ. “Lối sống Mỹ” hình
thành trong điều kiện kinh tế như vậy, cũng được gọi là “lối sống tiêu
dùng”, còn bản thân xã hội Mỹ được gọi là “xã hội tiêu dùng”. Điều đặc
biệt là tiêu dùng trong xã hội Mỹ không chỉ mang “tính chất tư sản” mà có
“tính chất nhân dân”. Lượng hàng hoá phong phú, chất lượngtốt, giá rẻ
đsản phẩm ứng được nhu cầu tiêu dùng của người lao động, do đó người
dân có cơ hội sử dụng các vật dụng hiện đại: ô tô, máy điều hoà, điện
thoại, tủ lạnh… phục vụ cuộc sống của mình.
Trong những năm 1954 - 1975, Mỹ là nước đứng vị trí số 1 thế giới
về trình độ công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật. Trong chiến tranh
thế giới II nhiều nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới đã định cư ở Mỹ, vì ở
đây có điều kiện hoà bình và những phương tiện đầy đủ nhất để làm việc.
Vì vậy, Mỹ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2
của toàn nhân loại, diễn ravào giữa năm 40 của thế kỷ XX. Mỹ cũng là
một trong số ít nước đạt được những thành tựu kỳ diệu nhất trong tất cả
các lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Những sáng chế mới: máy tính, máy tự
động, vật liệu tổng hợp với những thuộc tính mà thiên nhiên không có
(chất dẻo, Polime); cách mạng giao thông vận tải, thông tin liên lạc… đã

thúc đẩy nên kinh tế Mỹ phát triển nhanh chóng; đời sống vật chất tinh
thần của người dân có nhiều thay đổi. Có thể nói xã hội Mỹ lúc đó là xã
2
Theo Nguyễn Anh Thái, “Lịch sử thế giới hiện đại”, Nxb Giáo dục, tr286.
6
hội của thông tin, kỹ thuật hiện đại. Người dân Mỹ được hưởng thụ một
cuộc sống vật chất đầy đủ và tiện nghi. Tất nhiên, không phải tuyệt đối
dân Mỹ đều có cuộc sống như vậy.
Nước Mỹ có nền văn học đa dạng. Trong quá trình hình thành, phát
triển của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Mỹ trở thành nơi gặp gỡ, giao thoa của
nhiều luồng văn học trên thế giới. Nói một cách chính xác thì Mỹ không
có một đặc trưng văn học nao của riêng mình. Các nhà văn học học thế
giới nhận định rằng: Mỹ có “nền văn học hỗn tạp”, nó giống một “nồi
lẩu” mà trong đó chứa nhiều thứ khác nhau. Trong xã hội Mỹ đương thời,
có sự xuất hiện những trào lưu văn học mới: trào lưu điện ảnh, báo chí,
nghệ thuật, trào lưu Hippi v.v…
Một mặt thể hiện sự tiến bộ của một nước Mỹ văn minh, song mặt
khác cũng chứa tất cả những gì là hạn chế, tiêu cực, cặn bã nhất của nền
kinh tế Tư bản chủ nghĩa.
Sự no đủ vật chất dần hình thành lối sống “phóng khoáng”, “tự do”
(theo cách nói của người Mỹ) và tự tôn nhân quyền. Đặc điểm này thoả
mãn sự tự do phát triển cá nhân, cá nhân có quyền thực hiện những ham
muốn, những sở thích.
Một phần nó tạo động lực tích cực để phát triển xã hội, nhưng chính
đặc tính này cũng làm nảy sinh nhiều tệ nạn trong lòng xã hội Mỹ: tự do
tình dục, tự do bạo động, tự do tiêu dùng, tự do ngôn luận v.v… Một cách
quá khích làm băng hoại giá trị gia đình và xã hội ở chính nước Mỹ và các
nước mà Mỹ áp đặt ảnh hưởng.
Mỹ là nước tư bản, bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị
thặng dư, thông qua bóc lột sức lao động của người làm thuê. Nhờ sự bóc

lột này, Mỹ đã tạo ra lượng hàng hoá vô cùng lớn, thế nhưng số hàng hoá
lớn này lại mâu thuẫn trực tiếp với khả năng tiêu thụ hạn chế, bởilượng
dân số chính quốc có hạn, hơn nữa đồng lương không quá dư thừa của
người lao động. Để tiêu thụ hàng hoá, chính quyền Mỹ ra sắc lệnh về “trợ
cấp xã hội” (giúp đỡ người nghèo trong nước Mỹ) và “viện trợ” (cho nhân
7
dân các nước thuộc địa của Mỹ) bằng hàng hoá và thiết bị kĩ thuật. Mưu
đồ “viện trợ Mỹ” nhằm dùng vật chất để mua chuộc, nô dịch người lao
động, biến họ lệ thuộc và kinh tế Mỹ, ảnh hưởng của lối sống kiểu Mỹ, từ
bỏ đấu tranh giai cấp (đấu tranh chốgn nên chính trị Mỹ) mà có đấu tranh
thì chỉ là đấu tranh kinh tế nhằm thoả mãn nhu cầu và quyền lợi vật chất.
Nói cho cùng, đây là sự tính toán lấy “văn học Mỹ” và vật chất để kéo dài
sự bóc lột tư bản của mình.
Nền kinh tế phát triển đã tạo nên mạng lưới dịch vụ với đủ loại hình
phục vụ hoạt động giải trí của con người: thời trang, điện ảnh, âm nhạc,
quán bar, vũ trường, rạp chiếu phim, sòng bạc v.v… Hoạt động dịch vụ
dựa trên việc đsản phẩm ứng nhu cầu giải trí và tiêudùng của con người,
đã tạo nguồn thu nhập lớn cho những ông chủ tư bản bởi món lợi nhuận
mà nó đẻ ra. Nhưng chính những lĩnh vực hoạt động đa dạng đó đã trở
thành nơi sản sinh của những thói quen, những lối sống, những trào lưu xã
hội xấu… mà ngay cả Mỹ cũng không thể giải quyết được: Nạn mại dâm;
mua bán sử dụng chất kích thích; tình trạng bạo lực, khủng bố; đảng
phái… gây bất ổn nền chính trị nước Mỹ.
Xã hội nước Mỹ, “văn học nước Mỹ” tạo dựng nên một “lối sống
Mỹ” cũng rất đặc trưng, rất đa dạng. Một phần “lối sống Mỹ” là biểu hiện
những gì tiến bộ, hiện đại, văn minh, kết tinh tinh hoa thế giới; những
nguyên tắc, cách thức sống, giá trị chuẩn mực của những con người lịch
sự, học thức trong xã hội Mỹ. Một phần “lối sống Mỹ” cũng thể hiện
những tệ nạn, những mặt tiêu cực, xấu xa nhất dưới đáy xã hội Mỹ. Đó là
sản phẩm của nền đại công nghiệp, là những “căn bệnh” không chữa trị

được mà nước Mỹ và xã hội tư bản đã lai tạo ra.
“Lối sống Mỹ”, “văn học Mỹ” khác, thậm chí chứa những mặt đối
lập hoàn toàn với hệ giảtị xã hội của những nước mà Mỹ tiến hành chiến
tranh xâm lược. Giá trị xã hội ở những quốc gia thuộc địa của Mỹ là thứ
“văn học truyền thống”, “văn học bản địa” đã gắn bó bền chặt cuộc sống
của người dân. Đó là những lối sống, những thói quen kho thay đổi, xuất
8
phát từ một nền kinh tế - kỹ thuật lạc hậu. Tất nhiên, đây không phải là sự
so sánh “lối sống” càng không phải so sánh về “văn học”, bởi văn học là
thứ mà người ta chỉ có thể xem xét nó ở những mặt khác biệt. Tuy nhiên,
còn nhận định rằng: “lối sống Mỹ” và “văn học Mỹ” hàm chứa những yếu
tố xa lạ và khó chấp nhận với hệ giá trị của các nước thuộc địa, đặc biệt là
những quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, “lối sống Mỹ” được du
nhập vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau và nhiều con đường
khác nhau. Ở Việt Nam, có những thời điểm “lối sống Mỹ” trở thành công
cụ đắc lực hỗ trợ cho cuọc “chiến tranh chống nổi dây”, “chiến tranh
không súng đạn” mà Mỹ đề ra đầu những năm 60, thế kỷ XX tại Việt
Nam. Bên cạnh những tác động làm nền kinh tế, văn học niềm Nam có
bước tiến bộ mới thì những hậu quả tiêu cực nó gây ra cho xã hội miền
Nam khi đó đã phá hoại các giá trị cổ truyền của một nước nông nghiệp
lạc hậu.
2. CON ĐƯỜNG DU NHẬP “LỐI SỐNG MỸ” VÀO MIỀN
NAM VIỆT NAM 1954 - 1975
2.1. “Lối sống Mỹ” vào Việt Nam một cách tự nhiên chủ yếu qua
lính Mĩ và trí thức du học
- Trước hết cần phải thấy rằng bộ phận trí thức du học ở Mĩ không
phải là nhỏ “theo một số tài liệu của AID ở Mashing Tơn thì 1954 đến
1961 trong số 1875 người đi du học và tu nghiệp nước ngoài thì đã có
1065 người đi Hoa Kì, nếu tính đến 1968 con số người đi học bên Mĩ đã

tăng tới 4809”
3
. Con số trí thức Tây học rất lớn, họ được đưa sang Mĩ đào
tạo với ý đồ phục vụ cho quân đội Mĩ. Số trí thức này đến Mĩ ít nhiều sẽ
chịu ảnh hưởng của “lối sống Mỹ” và khi về nước họ mang theo cái lối
sống ây về Việt Nam một cách rất tự nhiên.
- Nhưng tự nhiên hơn cả là bọn lính Mĩ giàu có, dâm dật và man rợ.
3
Tạp chi “Bách khoa toàn thư Sài Gòn” số 385, ra ngày 19-1-1974.
9
Số lính Mỹ vào Việt Nam lên tới 700.000 tên (1968) mang theo “lối
sống Mỹ” du nhập vào Việt Nam. Để nói về lính Mĩ ở miền Nam Việt
Nam chỉ cần ngắn gọn trong ba từ là đủ: giàu có, dfâm dật, man rợ. Bóng
dáng cao lớn của bọn viễn chinh đổ dài xuống khắp nơi, không phải chỉ ở
trên trời, ở mặt biển, ở nông thôn, rừng núi để giết hại tàn phá, mà còn
tràn ngập các đường phố, len lỏi cả vào những cóm lao động chen chúc
nữa. Ở đâu chúng cũng có những hành vi thô bạo và kì quái. Ở các căn cứ
quân sự của chung, chúng hay giở trò sàm sỡ với những phụ nữ đi làm
thuê cho chúng và khi không được thoả mãn, chúng đã sẵn sáng đuổi theo
để trả thù. Ở những xóm lao động, nơi chúng thuê nhà ở, chúng vẫn
thường để ngỏ cửa tồng ngồng mặc quần lót đú đởn với các “me Mĩ” của
chúng, bất chấp xung quanh. Có thể nói hễ ở đâu có lính Mĩ là ở đó có
những cảnh tượng dâm dật, bẩn thỉu. Chúng nnham nhở bất kì lúc nào có
thể nhan nhở, ban ngày, ban đêm, trong giờ làm việc, ngoài giờ làm việc,
tróngở làm, ngoài phố, bất cứ với hạng người nào dù xấu hay đẹp, dù với
những đứa con gái đang tuổi con chúng hay với những người đang tuổi
chị, tuổi mẹ chúng.
Giàu có và dâm dật, dâm dật lại gắn liền với tàn bạo, những điều
thường thấy diễn ra trên những cuốn phim Mĩ lai biểu hiện đầy đủ trong
thực tiễn đời sống của quân đội viễn chinh Mĩ tại miền Nam Việt Nam. Sự

thô lỗ về những thói quen xử sự của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt
Nam đã hoàn toàn xác nhận điều đó. Không một hành vi tàn tệ, man rợ
nào mà chúng không làm từ việc bắn giết, đốt phá, cướp bóc đến xẻo tai
người để đầu xác, hãm hiếp tập thể, đặt chất nổ lên âm hộ đàn bà rồi cho
nổ banh xác.
Tính chất phi nhân trong những hành động như thế không phải xảy
ra một cách tuỳ tiện, trong nhiều trường hợp chúng đã trở thành một thứ
thú vui và giết người lúc đầu là một bài học nhưng dần là một nhu cầu
sinh lí. Giết để bảo vệ tính mạng, nhưng giết cũng chỉ để giết.
10
Người ta hiểu rằng tại sao ở Việt Nam lại xảy ra sự kiện Calley ở
Sơn Mĩ. Trên Trung uý này đã chỉ huy 1 đại đội lĩnh Mĩ trong sư đoàn bộ
binh 20, từ trực thăng nhảy xuống một địa điểm gọi là Mĩ lai 4, trại làng
Sơn Mĩ, tỉnh Quảng Ngãi, 16-3-1968 sau khi đã chi thành ba nhóm, chúng
đã mở màn một cuộc giết người tàn nhẫn. Chúng đâm người bằng lưỡi lê,
ném xuống giếng, tập hợp những đám đông rồi bắn súng máy, ném lựu
đạn cho đến khi không còn một ai sống sót (những người sống sót là
những ngườimay mắn bị các thây ma vùi lấp). Sau ba giờ tàn sát, đại đội
của Calley đã giết chết 567 người Việt Nam. Tất cả những người không
vũ trang là những người đàn bà, những trẻ con, những ông già, trong đó
có cả nhà sư nữa.
Chỉ từng đấy thôi cũng đủ thấy cái “ưu điểm” của một “lối sống”
mà Thomas đã hứa hẹn chứng minh cho nhiều người Việt Nam nghèo khổ
là như thế đấy.
2.2. “Lối sống Mỹ” vào Việt Nam với ý đồlà công cụ nô dịch trong
chế độ thực dân mới
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự sụp đổ hoàn toàn của
chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên phạm vi toàn thế giới. Mĩ ra khỏi cuộc
chiến không sứt mẻ mà thu nhiều lợi lộc béo bở vươn lên giàu mạnh nhất
trong giới tư bản. Sau hai kế hoạch Jacsan và Truman, chủ nghĩa thực dân

mớiđược dựng lên trên qui mô chưa từng có với lí luận khá hoàn chỉnh.
Các khối quân sự thành lập trên khắp toàn cầu trong đó Việt Nam là một
trọng điểm chiến lược trong khu vực chiến lược Đông Nam Á.
Âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành sào huyệt chống “sự tiến
công của chủ nghĩa cộng sản” Làm “còn để ngăn làn sóng đỏ” tràn xuống
Đông Nam Á, với lòng tham không đáy là kéo dài biên giới nước Mĩ tới
vĩ tuyến 17, biến Việt Nam thành bang thứ 52 của Mĩ, làm bàn đạp tấn
công vùng Đông Nam Á, giàu có. Đồng thời, chúng cũng muốn biến nơi
đây thành nguồn cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu dồi dào cho chính quốc,
thành nơi tiêu thụ hàng hoá ế thừa của tư bản trong nước. Dã man hơn,
11
chúng còn biến cả miền Nam thành nơi thí điểm những chính sách quân
sự, những vũ khí diệt chủng tàn bạo để nếu thành công sẽ đem sản phẩm
dụng toàn thế giới. Mĩ đã dốc hết sức cho cuộc chiến tranh huỷ diệt tại
miền Nam Việt Nam.
Khác với chế độ “thực dân cũ” thực hiện chính sách ngu dân, hạn
chế tối đa cho người dân học tập và tiếp xúc với các nền văn học thì chính
sách “thực dân mới” Mĩ lại sử dụng văn học như là một công cụ xâm
lược, một vũ khí chống cộng lợi hại trong đó “lối sống Mỹ” nhưlà một
công cụ nô dịch trong chế độ thực dân mới .
Giôn Xơn, tổng thống Mĩ quyết định đưa quân Mĩ trực tiếp tham
chiến ở miềnNam, đã viết trong hồi kí của mìnhnhw sau: “Một kết quả
của hội nghị Hônôlulu là chính phủ Việt Nam, dưới quyền Thiệu vàKì, đã
cam kết có một nỗ lực toàn diện để giành chiến thắng trong cuộc “chiến
tranh khác” ở đất nước họ. Chúng ta đã cam kết giúp họ trong cuộc chiến
tranh đó”. Cái cuộc “chiến tranh khác” mà Giôn Xơn cam kết với Thiệu
Kì ở đây được tổ chức như là một cuộc chiến tranh chống nghèo đói,
bệnh tật và dốt nát”
4
.

Trước đó thời Kennơdy, nó được gọi là chiến dịch “Tranmh thủ
khối óc và trái tim của dân chunbgs”. Thực chất là một cuộc chiến tranh
nhằm huỷ diệt xã hội, huỷdiệt nhân tính, hỗ trợ cho cuộc chiến tranh diệt
chủng nhằm bắt nhân dân ta phải quì gối.
Phương tiện của cuộc chiến tranh diệt chủng là quân đội Mĩ và bom
đạn Mĩ. Còn phương tiện của cuộc chiến tranh thứ hai này là “lối sống
Mỹ” và “đô la Mĩ” dưới hình thức viện trợ. Tất nhiên, nếu Mĩ bào chữa
cho “cái gậy” của nó là một “bổn phận tinh thần” một sự “thực hiện lời
cam kết”, thì nó cũng tô điểm cho “củ cà rốt” của nó. Một số trí thức Sài
Gòn lúc đó gọi là chính sách chai la-de một màu ắc “vị tha”, “hào hiệp”.
3. Phương tiện du nhập “Lối sống Mỹ”
4
Những tên biệt kích trong mặt trận văn học tư tưởng Mỹ.
12
“Xâm lược văn học”, dùng văn học làm công cụ phục vụ xâm lược
quân sự và chính trị là một chính sách vừa nham hiểm, vừa biểu hiện mưu
đồ trắngtrợn, lộ liẽu của Mỹ. Mỹ coi khối óc và trái tìmcủa con người
cũng là một chiến trường; coi các chiến lược về văn học cũng quan trọng
không kém các căn cứ quân sự; coi việc xuất cảng quân đội, vũ khí không
thay thế được việc xuất cảng “văn học Mỹ” chứa yếu tố cốt lõi “lối sống
Mỹ”. “Có thể trông thấy rất rõ tại miền Nam Việt Nam sự tràn ngập của
phim ảnh, báo chí, ti vi Mỹ, sản phẩm Mỹ, sự mua chuộc các nhà trí thức,
văn nghệ sĩ, ký giả v.v… Sự xâm nhập về các cơ quan giáo dục dưới hình
thứccố vấn cũng là một hình thức “xâm lăng văn học” thô bạo của người
Mĩ ở nơi đây”
5
/
Mỹ và bộ máy chính quyền sở tại mà Mỹ xây dựng nên ởnmv cũng
rất quán triệt chính sách “xâm lược văn học” bằng con đường du nhập
“văn học Mỹ”, “lối sống Mỹ”. Trong buổi lễ trao giải thưởng văn học

nghệ thuật năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu đã jhói: “Thông thường, muốn
đối phó vơi một tình thế đặc biệt của lịch sử, thì quân sự và chính trị mới
chính là những địa hạt then chốt. Tuy nhiên, bằng quân sự và chính trị,
chúng ta chỉ có thể giải quyết vấn đề một cách cấp thời mà thôi. Trái lại,
muốn cho sự chiến thắng được toàn vện và lâu bền hơn, đó là lãnh vực
văn học… lãnh vực văn hoá sẽ đóng vai trò quyết định trong công cuộc
chiến thắng cộng sản”
6
.
Để chỉ đạo tại chỗ cuộc “xâm lược văn học”, cùng với việc thiết lập
cá đoàn cố vấn quân sự; kinh tế, chính trị, Mỹ đã thành lập nhiều tổ chức
văn học trên lãnh thổ Việt Nam. Đây chính là những cơ quan trung gian
du nhập vhn, “lối sống Mỹ” vào Việt Nam giai đoạn này.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Mỹ thành lập những cơ quan chính thức
như: Sở thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S); cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ
5
Phong Hiền , “Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam”, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1984, tr171.
6
Phong Hiền , “Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam”, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1984, tr172.
13
(U.S.A.I.D); trung tâm tình báo Hoa Kỳ(CIA) v.v… Mỗi cơ quan này đều
có chức năng riêng nhằm thực hiện mục tiêu chung là “xâm lăng văn
học”. Nhưng thực tế thì hoạt động của các cơ quan ấy thường vượt ra
ngoài chức năng danh nghĩa củ mình.
Sở Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S) không chỉ làm công tác thông tin
văn học mà còn bảo trợ sự sáng tạo của một số trí thức, văn nghệ sĩ, phụ
trách chương trình trao đổi giữa sinh viên và giáo sư v.v…
Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ(U.S.A.I.D) không chỉ chuyên

trách các vấn đề viện trợ kinh tế mà còn hoạch định chính sách giáo dục,
đào tạo giáo chức chuyên viên.
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ (C.I.A) không chỉ chuyen thu thập các tin
tức tình báo,mà còn đảm nhận cả hoạt động “chiến tranh tâm lý” và những
hoạt động ngầm khác.
Ngoài cơ quan chính thức, mỹ tiến hành thành lập các tổ chức văn
học tưnhân như: trung tâm văn học và các hội Việt Mỹ (ở Sài Sòn; Cần
Thơ, Đà Lạt; Đà Nắng; Nha Trang; Huế); liên vụ thông tin Hoa Kỳ
(T.U.S.PAO) thành lập 5/1965…”
7
.
Nhìn chung, những tổ chức này tuy danh nghĩa khác nhau, nhưng
đều chung một mục tiêu là tìm hiểu đặc điểm tâm lý, tìnhcảm, phong tục;
thị hiếu của người Việt Nam, để truyền bà “văn học Mỹ”, “lối sống Mỹ”
một cách thích hợp. Các cơ quan ấy còn là phương tiện để Mỹ sử dụng
tiền bạc, địa vị, thế lực, văn học và một số thủ đoạn tinh vi khác nhằm du
nhập một lối sống mới mang màu sắc Tư bản chủ nghĩa; xáo trộn văn học
bản địa; làm biến đổi nền văn học đó theo hướng có lợi cho My.
Thực hiện mưu đồ này, bên cạnh các biện pháp văn học khác thìMỹ
đã ra sức du nhập “lối sống Mỹ” vào xã hội miền Nam Việt Nam bằng
nhiều phương tiện ở hàng loạt lĩnh vực khác nhau như: Viện trợ hàng hoá,
sách báo, phim ảnh, giáo dục v.v…
7
Phong Hiền, “Chủ nghĩa thực dân mới kiểu My ở miền Nam Việt Nam”, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1984, tr 174).
14
2.1. Viện trợ Mỹ
Để duy trì cuộc chiến ở Việt Nam và đảm bảo sự thắng lợi của chiến
lược mới “chiến tranh cục bộ”, chính quyền Mỹ đã đầu tư vào chiến
trường Việt Nam số chi phí khổng lồ. Số viện trợ này bao gồm: nguồn

viện trợ trực tiếp bằng tiền (USD) và viện trợ hàng hoá, phương tiện phục
vụ trực tiếp cho mặt trận quân sự và mặt trận văn học.
Đi đối với khối lượng bom đạn, Mỹ đa vào miền Nam Việt Nam
khối lượng của cải rất lớn: “không kể 126 tỷ USD chi tiêu trong mấy năm
xâm lược trực tiếp (nếu tính cả hậu quả lâu dài, con số này lên tới 30 tỷ
USD), Mỹ đã viện trợ cho chính quyền Sài Gòn khoảng 29 tỷ USD trong
20 năm, trong đó 18 tỷ USD là viện trợ quân sự, 7 tỷ USD là viện trợ kinh
tế và 4 tỷ USD là đổi tiền Sài Gòn để chi tiêu tại chỗ cho ác cơ quan quân
sự và dân sự Mỹ”
8
.
Nếu so sánh trong 22 năm, Mỹ chỉ viện trợ cho philipin có 1,9 tỷ
USD, Thái Lan 1,1 tỷ USD, Indônêxia 893 triệu USD sẽ thấy khối lượng
vật chất lớn mà Mỹ đổ vào Việt Nam. Số viện trợ này lớn hơn lượng của
cải mà miền Nam Việt Nam có thể làm ra được trong thời gian đó. Nhờ
vậy chính quyền Sài Gòn có thể nhập cảng hàng năm tới trên dưới 700
triệu USD hàng hoá tiêu dùng
9
.
Chính quyền Mỹ cũng tiến hành xuất cảng trang thiết bị kỹ thuật,
vật dụng tranh ảnh, sách báo, phim truyện… nhằm phục vụ đời sống vật
chất và tinh thần cho lực lượng thân Mỹ. Sản phẩm ôtô, vô tuyến truyền
hình màu, máy quay phim, tủ lạnh, thực phẩm đóng hộp… bắt đầu xuất
hiện trên thị trường miền Nam Việt Nam. Lượng hàng hoá này được bán
ra từ các cửa hàng cung cấp đặc biệt của Mỹ (P.X)(bao gồm vật dụng
phục vụ cho binh lính Mỹ, lượng sản phẩm rất phong phú, phần lớn có
nguồn gốc từ châu Âu. Số lượng hàng hoá này được lưu hành ra bên ngoài
8
Phong Hiền , “Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam”, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1984, tr135.

9
Theo :Trần Độ cùng nhiều tác giả “Văn học văn nghệ miền Nam dưới thời Mỹ-
Ngụy”, T2, Nxb Văn học - Hà Nội, 1979, tr 71.
15
do sự trao đổi của lính Mỹ, gia đình của lính Mỹ tại Việt Nam (lấy vợ
Việt) và một số người thân cận họ).
Lượng hàng hoá lớn màMỹ nhập cảng vào thị trường miền Nam
Việt Nam đã hình thành một “lối tiêu dùng mới” cho người dân bản địa.
Mỹ mang đến những vật phẩm hiện đại
10
. Mà dựa rtrên tiền đề vật chất,
chính trị, xã hội, kinh tế đương thời miền Nam Việt Nam chưa thể có
được. Tất nhiên, không phải mọi người đều có cơ hội tiêu dùng hàng hoá
Mỹ. Đối tượng đầu tiên nằm trong khu vực 5 hay 6 triệu người Mỹ nuôi
dưỡng (gồm hơn 1 triệu ngụy quan, 30 vạn công chức, 12 vạn cảnh sát và
gia đình họ; người làm ở các Sở Mỹ hay sống bằng các dịch vụ Mỹ), thứ
đến là trên 10 triệu người nông dân sống trong các trại tập trung của Mỹ
và chính quyền Việt Nam Cộng hoà (trong những năm 1967 - 1972), nạn
nhân của chính sách “đô thị hoá cưỡng bức”. Một phần số người này có
cơ hội sử dụng hàng hoá hiện đại và có cuộc sống khá sung túc theo lỗi
Mỹ. Phần còn lại cuộc sống khốn khó hơn bao giờ hết
11
.
Quá trình hiện hành của đồng tiền Mỹ (USD) hàng hoá Mỹ tại miền
Nam Việt Nam đã du nhập mạnh mẽ nhưng khía cạnh của văn học thực
dân mới, làm xã hội miền Nam Việt Nam biếnđổi.
2.2. Sách báo và phim ảnh
Để du nhập “lối sống Mỹ” vào miền Nam Việt Nam, các phương
tiện truyền thông đã trở thành thứ vũ khí lợi hại trong tay Mỹ và chính
quyền tay sai Mỹ. Vũ khí lợi hại đó có sức chi phối tinh thần, tư tưởng,

lối sống củanhiều người. Cùng sự xuất hiện lượng đồ sộ những sách báo,
tạp chí thì điện ảnh, vô tuyến truyền hình. Băng nhạc v.v… ra đời, đã tạo
ramột thế giớimới “Thế giới nghe - nhìn”. Thế giới mới này dễ dàng xâm
nhập hơn thế giới sách báo, bởi số đông người không biết chữ dễ tiếp thu
hơn. Khối lượng hình ảnh, âm thanh lớn nầyhngf ngày “đóng gói kiến
10
Những sản phẩm này phần lớn đều lạc hậu, “lỗi mốt” trên thị trường Mỹ.
11
Dựa theo: “Văn học văn nghệ miền Nam dưới thời Mỹ Ngụy” T2, Nxb Văn học Hà
Nội, 1979, tr 74, 75.
16
thức”, “tiết chế” tư tưởng, tình cảm, xâm nhập ồ ạt vào đời sống của
người dân miền Nam Việt Nam.
2.2.1. Sách báo
Ngay sau khi được Mỹ giúp đỡ thành lập chính quyền tay sai ở Sài
Gòn, Ngô Đình diệm, đã tiến hành cuộc càn quét tất cả những báo chí,
sách vở tiến bộ được xuất bản trước đó. Mặtkhác, ngày 17/5/1955, Diệm
đặt dụ 65 quy định kiểm soát đối với các ấn phẩm ngoại quốc nhập cảnh
vào miền Nam Việt Nam (trừ những ấn phẩm của Mỹ). Mục đích của hành
động này nhằm ngăn chặn sachs báo tiến bộ thế giới có nội dung ca ngợi,
ủng hộ cộng sản và phong trào phản đối sự can thiệp chính trị của Mỹ ở
miền Nam Việt Nam; đồng thời tạo “ảnh đất không vật cản” cho sự du
nhập của “lối sống Mỹ” với những tư tưởng thanh trừ cộng sản.
Đây là thời kỳ tràn ngập sách báo bằng tiếng nước ngoài có luận
điệu chống cộng cuồng tín như tờ báo : Esput; Lê monde, Lexpress…
chính quyền Mỹ - Diệm tiến hành cấp giấy phép, cung cấp vốn, chỉ đạo
cho đám bồi bút ra hàng loạt sách báo đủ loại, vì thế “có những thời điểm
miền Nam Việt Nam có tới 200 loại báo với vài ngàn ký giả, trong đó ó
khi có hàng chục báo hàng ngày, hàng chục tờ nguyệt san khác. Riêng Sài
Gòn có hơn 100 nhà xuất bản lớn nhỏ in sách cảu ngót một ngàn tác giả

miền Nam và 200 tác giả nước ngoài dịch ra tiếng Việt”
12
. Một số tờ báo
thu hút lượng công chúng lớn như: Tờ cách mạng quốc gia ; Sài Gòn -
Mai (1961); Tiếng Đàn (1961), Đồng Nai (1961) v.v… Những tờ báo này
tập trung tuyên truyền tư tưởng chống cộng, các học thuyết quân sự của
Mỹ - Nguỵ và một sốt yếu tố không thể bỏ qua là tuyên truyền “văn học
Mỹ”, “lối sống Mỹ”.
Song song với việc mở rộng hệ thống tuyên truyền bằng báo chí,
Mỹ - Nguỵ cũng mở rộng hệ thống tuyên truyền bằng sách vở. Để khống
chế hoạt động xuất bản và lái thị trường xuất bản vào quỹ đạo phục vụ
mục đích xâm lược, Mỹ- Nguỵ đã sử dụng hai biện pháp. Một là kiểm
12
Theo Trần Độ cùng nhiều tác giả “Văn học, văn nghệ miền Nam dưới thời Mỹ-
Nguỵ” T2, Nxb Văn học Hà Nội, 1979, tr 82.
17

×