ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
-------------------
BÁO CÁO KHOA HỌC SINH VIÊN
ĐỀ TÀI:
NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI VIỆC CHUẨN BỊ LÝ LUẬN CHO
CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUA BA TÁC PHẨM
1.BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP ( 1925 )
2.TUẦN BÁO THANH NIÊN ( 1925 )
3. ĐƯỜNG KÁCH MỆNH ( 1927 )
1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời – chính đảng duy nhất của
giai cấp công nhân Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng kéo dài về đường lối
cách mạng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là kết quả tất yếu cuả
cuộc đấu tránh dân tộc và đẫu tranh giai cấp ở Việt Nam thời đại mới. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói : Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp
Chủ nghiac Mác- L êNin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
Đảng ra đời được vũ trang bởi hệ thống học thuyết chính trị tiến bộ nhất
của nhân loại là Chủ nghĩa Mác- L êNin . Nhờ đó mà Đảng đã lôi kéo , kêu gọi
được đông đảo quần chúng nhân dân lao khổ tập trung dưới ngọn cờ “ Độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”.
Đánh giá về vai trò của lý luận, sinh thời LêNin đã từng nói:
“Không có lý luận cách mệnh thì không có lý luận vận động....Chỉ có theo
lý luận cách mệnh tiên phong , Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiên phong”.
Có thể nói quá trình chuẩn bị về tư tưởng lý luận tiến tới thành lập
Đảng cộng sản gắn liền với những hoạt động yêu nước của Nguyễn ái Quốc,
đó là quá trình tìm đường cứu nước, tìm đến với chủ nghĩa Mác, là quá
trình học tập, nghiên cứu không mệt mỏi và truyền bá Chủ nghĩa Mác vào
Việt Nam.
Không có tham vọng lớn muốn trình bày toàn bộ quá trình chuẩn bị về tư
tưởng lý luận của Nguyễn ái quốc tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
do sự hạn hẹp về hiểu biết và tài liệu tham khảo, tôi chỉ xin phép trình bày
những hiểu biết giới hạn của mình về quá trình chuẩn bị vế lý luận trên phương
diện sách báo, chủ yếu ở ba tác phẩm:
1. Bản án chế độ Thực dân Pháp
2. Tuần báo Thanh Niên
3. Đương kách mệnh
2
Bài viết chắc chắn còn nhiều hạn chế , mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trình bày sự hiểu biết của mình về quá trình tìm đường cứu nước, tìm đến
với Chủ nghĩa Mác và lĩnh hội một cách sáng tạo của Nguyễn ái Quốc.
Nghiên cứu quá trình chuẩn bị về tư tưởng , lý luận cách mạng trong các
tác phẩm ( như đã trích ở trên ) của Nguyễn ái Quốc góp phần truyền bá Chủ
nghĩa Mác vào Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu
Sưu tầm tài liệu có liên quan đến những nội dung sẽ trình bày
Đối chiếu, so sánh giữa các tài liệu. Đứng trên lập trường của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh ...để
từ đó xem xét, đánh giá, nhìn nhận các sự kiện một cách đúng đắn, toàn diện, chỉ
ra được sự phát triển về nhận thức qua các trình tự thời gian.
4. Bố cục của đề tài
CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ
“Lịch sử tạo ra những yêu cầu thì chính lịch sử lại tạo ra những điều kiện
vật chất để giải quyết nó” (Theo PGS.TS Phạm Xanh trong tác phẩm “Nguyễn
ái Quốc với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác- LeeNin vào Việt Nam (1921-1930)”
CHƯƠNG II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Sức sống mãnh liệt của các tác phẩm:
1. Bản án chế độ Thực dân Pháp
2. Tuần báo Thanh Niên
3. Đương kách mệnh
A. Những đóng góp của tác phẩm “ Bản án chế độ Thực dân Pháp”:
I. Gía trị của tác phẩm
I.I “ Bản án chế độ Thực dân Pháp” là bản cáo trạng đanh thép
I.II “ Bản án chế độ Thực dân Pháp” còn vạch rõ kẻ thù của quần chúng
lao động và các dân tộc bị áp bức.
3
I.III “ Bản án chế độ Thực dân Pháp” xác định nhiệm vụ cách mạng,lực
lượng cách mạng , chỉ ra mối quân hệ , sự gắn bó giữa sự nghiệp giảI phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc với phong trào vô sản ở chính quốc và
trên toàn thế giới .
I.IV “ Bản án chế độ Thực dân Pháp” đã mở ra một tương lai tươI sáng
trogn đêm tối của cuộc đời lầm than đau khổ.
II. Ý nghĩa
B. Những đóng góp của hai tác phẩm:
1. Tuần báo Thanh Niên
2. Đương kách mệnh
I - Đặt vấn đề
“Sự vĩ đại của tác phẩm nảy sinh ngay trong thời đại sản sinh ra nó”.
II – Giá trị của hai tác phẩm:
II.I Quan niệm về cách mạng
II.II Quan niệm về Đảng cách mạng, về Đảng cộng sản
III. ý nghĩa
ChươngIII
Kết luận
Phần nội dung
4
CHƯƠNG I
Lịch sử tạo ra những yêu cầu thì chính lịch sử tạo ra những điều kiện vật
chất để giải quyết nó
Sáng 1/9/1858 Thực dân Pháp nổ súng chính thức xâm lược nước ta ở Đà
Nẵng . Đến năm 1896 về cơ bản chúng đã bình định và đặt xong bộ máy cai trị ở
Đông Dương trong đó có Việt Nam rồi từng bước tiến hành khai thác thuộc địa
với quy mô lớn. Sự bóc lột hết sức tàn ác, dã man của bọn tư bản độc quyền
Pháp cộng với sự bóc lột của lực lượng mà chúng dung dưỡng đó là bọn địa chủ
phong kiến làm cho đời sống của nhân dân ta vô cùng điêu đứng và cực khổ.
Nước mất, nhà tan, đời sống bần cùng, không có con đường nào khác
nhân dân ta đứng dậy đấu tranh.Trong mấy chục năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX, các phong trào yêu nước cuồn cuộn dấy lên khắp từ Nam chí Bắc.Tầng
tầng, lớp lớp thợ thuyền, dân cày, dân nghèo thành thị, trí thức, học sinh, sinh
viên… kết hợp thành những đợt sóng đấu tranh liên tiếp, mạnh mẽ, tiêu biểu là
các phong trào: Phong trào Cần Vương ( 1885- 1896); Khởi nghĩa Yên Thế
(1885-1913), Phong trào Đông Du (1905-1908); Phong trào Duy Tân…nhằm
chống lại đế quốc, chống sự tham nhũng ,hà khắc của bọn quan lại, bọn đại địa
chủ – tay chân tích cực của bọn thực dân đồng thời thể hiện ý chí đấu tranh
giành độc lập, tự do của dân tộc ta.
Dù chưa đạt đựơc mục tiêu song các phong trào yêu nước lúc này về
khách quan đã hình thành mặc dù là tự phát những yếu tố, những đường viền
của một mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn bao gồm nhiều tầng lớp xã hội.
Bên cạnh đó lịch sử giai đoạn này cũng chứng kiến sự ra đời và nhanh
chóng phát triển của giai cấp mà sau này chính là lực lượng lĩnh sứ mệnh quan
trọng nhất của lịch sử, của cách mạng Việt Nam – giai cấp công nhân Việt
Nam.Mặc dù mangtrong mình những phẩm chất giai cấp cao quý đại diện cho
lực lượng sản xuất tiến bộ nhưng trong thời kì này giai cấp công nhân Việt Nam
chưa có đường nối đúng đắn , đấu tranh mới chỉ mang tính “Tự mình” với
những khẩu hiệu về kinh tế…nên chưa có vai trò đáng kể cho cách mạng nước
ta trong thời kì này.
5
Chính do những hạn chế mang tính thời đại mà các phong trào yêu nước
cũng như phong trào công nhân thời kì này đều đi đến những thất bại. Hạn chế
đó nằm ở những người cầm đầu các phong trào chư phân biệt được Địch- Ta,
Bạn-Thù, chưa nhận thức đươc rằng Đế quốc Pháp xâm lựoc việt Nam không
phải là hiện tượng riêng lẻ mà là vấn đề thời đại gắn liền với cả giai đoạn lịch sử
của Chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới;họ chưa nhận thấy rõ nhiệm vụ của cách
mạng việt Nam lúc này là phải đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập, tự do, đánh
đổ phong kiến địa chủ giành quyền dân chủ cho nhân dân , giành ruộng đất cho
nông dân - điều mà sau này ngay khi Đảng ta mới thành lập đã giương cao ngọn
cờ “ Độc lập dân tộc” và “ Ruộng đất dân cày”; họ càng không thấy được lực
lượng cách mạng chủ yếu là Công- Nông trong đó giai cấp công nhân là lực
lượng lãnh đạo. Đồng thời những thất bại đó đã thể hiện sự bất lực của hệ tư
tưởng phong kiến cũng như hệ tư tưởng dân chủ tư sản đã lỗi thời không còn đủ
sức mạnh để phá vỡ thế lực kìm kẹp nó, đòi hỏi phong trào cách mạng càn được
trang bị bởi một hệ tư tưởng khác, tiến bộ hơn, đáp ứng nhu cầu của thời đại.
Do những hạn chế đó , lại bị những đòn roi tấn công rất ác liệt , man rợ
của kẻ thù nên các phong trào dần bị thất bại. ách áp bức của kẻ thù càng thêm
nặng nề, nỗi thống khổ của quần chúng càng thêmchồng chất, tiền đồ của dân
tộc ngày càng mù mịt.
Nhưng tất yếu là, càng bị đàn áp , càng thất bại , càng thống khổ thì quần
chúng càng thêm nung nấu lòng căm thù và ý chí chiến đấu, càng khát khao tìm
cách thoát khỏi kiếp sống trâu ngựa.Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu mà lịch sử đặt
ra là phải có những con người ưu tú nhất , tiến bộ nhất trong đội ngũ những
người Việt nam yêu nước có khả năng vượt lên trên những hạn chế của lịch sử
để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Rõ ràng, đúng như Lê-Nin lúc sinh thời đã từng nói:
“ Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có
thể giải quyết được, vì khi xét kĩ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân
nhiệm vụ ấychỉ nảy sinh khi những điều kiện để giải quyết nhiệm vụ đó đã có
rồi hay ít ra cũng đang ở quá trình hình thành.”
2
6
Giữa tình thế nóng bỏng đó, Nguyễn Tất Thành xuất hiện như một vị cứu
tinh của dân tộc. Vượt lên trên hạn chế của thời đại, người con trai thứ của cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - người thanh niên giàu lòng yêu nước đã nhận lấy
trách nhiệm nặng nề và vô cùng gian khổ trước lịch sử, Nguời quyết tâm ra đi
tìm đường cứu nước vào ngày 5/6/1911.
Xuất thân trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên giữa quê hương
giàu tình thương và tinh thần quật khởi, từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành
đã được hấp thụ một nền giáo dục truyền thống phong phú, hiểu biết sâu sắc về
lịch sử và những giá trị văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó Người còn được trang bị
những kiến thức về văn hoá và khoa học kĩ thuật phương Tây khi còn đang học
ở trường Quốc học Huế. Đặc biệt Nguyễn Tất Thành đã sớm hoà mình vào cuộc
sống của quần chúng lao khổ và tham gia vào phong trào yêu nước. Quê hương,
gia đình và sự nhập cuộc sớm của bản thân đã sớm làm nảy nở trong người
thanh niên trẻ tuổi ấy tấm lòng yêu nước , thương dân tha thiết :
“Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ
của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng
bào”
3
.
Kính trọng những bậc tiền bối đi trước nhưng Nguyễn Tất Thành không
tán thành đường đi nước bước của những người đi trước, Người không muốn
đitheo vết mòn của lịch sử.
Trước Nguyễn Tất Thành đã có những ngời Việt Nam xuất dương cứu
nước.Chỗ khác nhau giữa Nguyễn Tất Thành và những người Việt nam khác
không phải là hành động xuất dương mà trước hết ở mục đích của hành động đó.
Nếu những chuyến đi của Tôn Thất Thuyết hay của những nhân vật lãnh
đạo phong trào Đông Du hay phong trào Duy Tân chủ yếu là tìm ngoại viện thì
chuyến đi của Nguyễn Tất Thành lại hoàn toàn khác. Người ra đi là “ xem nước
Pháp và những nước khác. Sau khi tôixem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về
giúp đồng bào ta”
4.
Sau này Người cũng đã kể lại:
7
“Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh tôi lúc này thường tự hỏi
nhau rằng: ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người
này thì nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người khác nữâ nghĩ là Mỹ. Tôi
thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”
5
.
Như vậy hơn hẳn những bậc tiền bối đi trước, Nguyễn Tất Thành đã xác
định được một cách rõ ràng:
“Cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách
đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng hay nói cách khác là lý luận cách mạng và
phương pháp cách mạng”
6
.
Và Người đã tìm được hướng đi cho riêng mình , đó là đi về phương
Tây.Về phương Tây không phải vì Người bị thu hút và khuất phục bởi nước sơn
hào nhoáng cảu nền văn minh Tư bản chủ nghĩa. Nền văn minh đó đã tấn công ,
làm rung chuyển và buộc phải nhuợng bộ cho nó cái vương quốc phongkiến lâu
đời và hùng mạnh nhất châu á- Trung Quốc. Sự kiện này đã tác động và làm
lung lạc đến tư tưởng, ý thức của những nhân vật tiêu biểu cho giới thượng lưu
trí thức Trung Quốc dưới triều Mãn Thanh như Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu… Chính nước sơn hào nhoáng của nền văn minh ấy cũng đã làm cho nhiều
sĩ phu yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX đã đi chệch đường trong việc tìm
kiếm bạn đồng minh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng lí do mà Nguyễn
Tất Thành đã chọn con đường đi cho riêng mình mà sau này Người đã tâm sự :
“ Vào trạc tuổi 13 lần đầu tiên tôi được nghe những tiếng Pháp : Tự do ,
bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là
người Pháp – thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì
ẩn giấu đằng sau những từ ấy”
7
.
Nguyễn Tất Thành quyết định đi về phương tây vì mục đích cách mạng và
do sự nhạy cảm cách mạng khiến Người thấy chỉ có ở đó mới có thể phát hiện
ra cái nguồn gốc của mọi thảm hoạ đã trút lên đầu lên cổ dân tộc mình và tìm
ra cái đầu mối cho sự nghiệp giải phóng đồng bào mình.
“Rõ ràng, trước khi bước chân xuống tàu rời Tổ Quốc, Nguyễn Tất Thành
đã chuẩn bị cho mình những tiền đề tư tưởng bao gồm việc phê phán những
8
con đường cứu nước của các bậc cha chú , lựa chọn hướng đ i và điểm tới của
mình”
8
.
Nhưng để đến với Chủ nghĩa cộng sản thì những chuẩn bị về tiền đề tư
tưởng sẽ là không đủ nếu như không có quá trình hoạt động thực tiễn phong
phú kết hợp với hoạt động tư duy khoa học của Người. Nguyễn Tất Thành đã đ
i khắp năm châu bốn bể, bàn chân Người từng in dấu trên nhiều nước thuộc
nhiều châu lục khác nhau, đặc biệt là Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở ba
nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp. ở đâu Người cũng chịu mọi
gian khổ, hoà mình vào cuộc sống lao khổ của người lao động. Qua nhiều trả i
nghiệm , Người đã rút ra được một kết luận rất sâu sắc : ở đâu bọ Đế quốc ,
Thực dân cũng tàn bạo , độc ác, ở đaau những người lao động cũng bị áp bức ,
bóc lột nặng nề và “ Dù có màu da khác nhau , trên đời này chỉ có hai giống
người : giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ một mối tình
hữu áilà thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”
9
Từ đó ở Người sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành
sự đồng
cảm với nhân dân lao động quốc tế anh em.Đồng thời Người cũng nhận
biết sâu sắc hơn, toàn diện hơn về diện mạo kẻ thù của dân tộc ta không chỉ là
Thực dân Pháp và bè lũ tay sai mà còn là Chủ nghĩa đế quốc nói chung.
Sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã bộc lộ đầy đủ
bản chất bóc lột tàn ác , dã man đồng thời củng thể hiện sự suy yếu của Chủ
nghĩa đế quốc. Mặt khác, cuộc chiến tranh chính là cơ hội để Chủ nghĩa đế quốc
tăng cường bóc lột giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, đẩy người lao độg
vào cảnh bần cùng.
Chính sự kiện đó đã tác động sâu sắc và làm bừng sáng lên trong nhận
thức của người thanh niên yêu nước rằng : Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa thực
dân là cội nguồn của mọi sự khổ đau của quần chúng và ở đâu quần chúng lao
khổ cũng là người chung số phận, chung chiến tuyến với dân mình. Những nhận
biết căn bản , đúng đắn đó càng giục giã Người quyết tâm tìm con đường giải
phóng mà Người đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ Quốc.
9
Chính trong quá trình đó, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công
năm1917 – một nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới mà ở đó nhân dân lao
động được làm chủ đất nước, mọi gia cấp xã hội được giải phóng. Sự ra đời của
nhà nước Xô viết đầu tiên đitheo Chủ nghĩa xã hội giữa vòng vây của bọn đế
quốc chủ nghĩa đã ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến nhận thức của
Người về lựa chọn con đường cách mạng.
Tháng 7/1920, báo L
/
Humahité số ra hai ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920
đã đăng toàn bộ văn bản “ Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” cảu V.I.LêNin. Luận cương ngay lập tức đã thu hút được sự
chú ý của Người :
“ Trong luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đ
i đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của
LêNin làm cho tôI rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đoạ đày gian khổ ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta , đây là con đường giải phóng chúng ta”
10
.
Như vậy từ chủ nghĩa yêu nước chân chính Nguyễn ái Quốc đã tìm
thấy con đường đúng đắn để giảiphóng dân tộc , đó là đi theo Chủ nghĩa
Mác- LêNin, theo Quốc tế vô sản, theo con đường Cách mạng vô sản.
Cũng từ đó Nguyễn ái Quốc say mê học tập, nghiên cứu và hoạt động
nhàm xúc iến việc truyền bá Chủ nghĩa Mác- LêNin vào Việt Nam.Quá trình
truyền bá chủ nghĩa Mác cảu Người diễn ra liên tục từ năm 1921 đến1930 khi
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là đánh dấu sự chiến thắng bước đầu của tư
tưởng Cộng sản chủ nghĩa trong lịch sử tư tưởng nước ta.Và “ Sự truyền bá tư
tưởng cách mạng vô sản của Người không phải là một hiệntượng nhất thời tự
phát mà là một quá trình không đứt đoạn, đi từ thấp đến cao, có chủ đích”
11
.
Quá trình hoạt động cách mạng của Người được chia thành nhiều thời kì
tương ứng với địa bàn hoạt động của Người.ở mỗi thời kì tuỳ điều kiện cụ thể
mà Người sử dụng những phương tiện đấu tranh, truyền bá Chủ nghĩa Mác khác
nhau , trong đó có thể nói xuất bản báo chí được Người sử dụng một cách triệt
10
để như là một thứ vũ khí vô cùng lợi hại nhằm tấn công trục diện kẻ thù đồng
thời rất có hiệu quả trong quá trình truyền bá lý luận, từng bước giác ngộ Chủ
nghiã Mác cho quần chúng đồng bào ta tiến tới thành lập những tổ chức lãnh
đạo cách mạng đứng đầu là thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Trong
các tác phẩm của Người thời kì này cần phảI kể đến những đóng góp hết sức to
lớn có giá trị đặt nền tảng tư tưởng chiến lược và sách lược chỉ đạo cách mạng
Việt Nam của ba tác phẩm:
Bản án chế độ Thực dân Pháp ( 1925 – ở Pháp)
Tuần báo Thanh Niên ( 1925 – ở Trung Quốc)
Đường Kách Mệnh ( 1927 - ở Trung Quốc)
Mặc dù ra đời ở các thời kì hoạt động khác nhau của Nguyễn ái Quốc, ở
các thời điểm lịch sử khác nhau nhưng cả ba tác phẩm đều thể hiện bước chuẩn
bị, hoàn thiện và phát triển cao độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác- LêNincủa
Nguyễn ái Quốc. Quá trình đó được thể hiện ở sự kế thừa, bổ sung và ngày càng
hoàn bị những tư tưởng chỉ đạo mạng tính chất chiến lược cho cách mạng Việt
Nam như mục tiêu đấu tranh, lực lượng cách mạng, phương pháp cách
mạng...trong các tác phẩm. Sự ra đời của các tác phẩm có ý nghĩa vô cùng lớn
lao, nhờ đó mà cách mạng Việt Nam đã tìm được con đường cách mạng đúng
đắn để giảiphóng dân tộc, cách mạng Việt Nam lúc này đã thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng về đường lối cũng như về tổ chức và từng bứơc có những đóng
góp lớn lao cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và cho sự nghiệp đấu tranh chung
của loài người tiến bộ trên thế giới.
11
CHƯƠNG II
Sức sống mãnh liệt của các tác phẩm
1. Bản án chế độ Thực dân Pháp
2. Tuần báo Thanh Niên
3. Đương Kách Mệnh
A. Những đóng góp của tác phẩm “Bản án chế độ Thực dân Pháp”
Thời kì Nguyễn ái Quốc hoạt động ở PaRi (Pháp), Người hoạt động ở
Đảng Cộng Sản Pháp, ở các tổ chức cách mạng và trong “Hội liên hiệp thuộc
địa” do Người sáng lập cùng những người bị áp bức dưới chế độ thực dân Pháp
và đang hoạt động cách mạng ở Pháp. Thời kì này Người đã viết nhiều sách báo
tấn công vào Chủ nghĩa đế quốc, kêu gọi , thức tỉnh quần chúng lao khổ đấu
tranh, vạch phương hướng cho quần chúng ở các nước thuôc đia và phụ thuộc
đấu tranh.
Đây cũng là thời kì mà Người đã viết cuốn sách nổi tiếng “ Bản án chế độ
Thực dân Pháp”.
I. Giá trị của tác phẩm
Bản án chế độ Thực dân Pháp được coi là sản phẩm tổng hoà của tất cả
các tri thức : chính trị, triết học, xã hội , lịch sử...cùng với những kinh nghiệm
thực tiễn được tiếp thu và bồi bổ , phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng
gió của Người.
Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp và những năm 1921- 1925 và được
xuất bản lần đầu tại Pari năm 1925. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã được
lan truyền đi rất nhanh và đay là lần đầu tiên một cuốn sách chính trị viết bằng
tiếng nước ngoài được đưa về nước hoàn toàn bí mật.
Sự vị đại của tác phẩm bắt nguồn từ trong chính tính chất vĩ đại của thời
đại dã sản sinh ra nó, bởi nó chứa đựng những ước mong, nhưng hoài bão
chung, phổ biến của cả một cộng đồng người đang sống ngột ngạt dưới sức ép
của một thế lực vô cùng phản động đó là Thực dân Pháp.
Hun đúc trong đấu tranh cách mạng, Bản án chế độ Thực dân Pháp ra đời
như một luồng ánh sáng mới , xé toang đám mây mù đang che phủ trên khắp đất
12
nước Việt Nam và nhiều nước thuộc địa. Nó thoả mãn cả lý trí và tình cảm của
hàng triệu quần chúng cách mạng đang ngưỡng vọng và khao khát một chân trời
mới ; nó thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều lớp người tiến bộ đang mơ hồ,
băn khoăn về một con đường giải phóng đúng đắn.
Sức thu hút mạnh mẽ hầu như thôi miên của tác phẩm, bởi lẽ:
Thứ nhất, tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh mà mâu thuẫn của Chủ nghĩa
đế quốc đặc biệt là mâu thuẫn giũa các dân tộc bị áp bức với Chủ nghĩa đế quốc,
mâu thuẫn giữa dân tộc ta với Thực dân Pháp ngày càng thêm sâu sắc và đã đạt
đến điểm bùng nổ, tinh thần và ý chí chống đế quốc của nhân dân ta và các dân
tộc bị áp bức, đòi hỏi một ngọn cờ hướng đạo đúng đắn để đi vào một cuộc
chiến đấu quyết định vận mệnh của cả dân tộc.
Thứ hai, tác phẩm đã đề cạp đến những người thật , việc thật, những
chuyện xảy ra hàng ngày ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, những việc mắt
thấy tai nghe ở những hoàn cảnh cụ thể nhưng có quan hệ thiết thân đến vặn
mệnhcủa hàng chục triệu con người trong cái địa ngục trần gian gọi là xứ thuộc
địa và lí giải một cách khoa học theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- quan điểm
tiến bộ nhất của thời đại.
Thứ ba, tác phẩm có sức hấp dẫn như vậy bởi đây là lần đầu tiên những
người cách mạng và nhân dân ta biết đến Chủ nghĩa cộng sản một cách rõ ràng
và đúng đắn. Trước đó người ta cũng nghe nói, biết và bàn tán về Chủ nghĩa
cộng sản như một học thuyết cách mạng nhất . Đối với những người bị áp bức
thì không mong muốn gì hơn là tìm được một lối thoát cho cuộc đời tối tăm tủi
nhục của mình, học thuyết ấy tất nhiên đã nhen nhói lên một niềm hi vọng.Song
vì một phần do chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo, một phần vì báo chí phản động
tuyên truyền chống cộng ráo riết, phần nữa vì trong đầu óc của nhiều người xuất
thân từ tầng lớp Tiểu tư sản còn nhiều tàn dư của hệ ý thức cũ nên trong quan
niệm về Chủ nghĩa cộng sản còn nhiêù điểm mơ hồ, lộn xộn.
Chính vì vậy mà Bản án chế độ Thực dân Pháp có vai trò rất lớn
trong quá trình giác ngộ, chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho những người
13
cách mạng và cho quần chúng nhân dân lao động đặc biệt là tầng lớp thanh
niên ở nước ta.
Đánh giá vai trò của tác phẩm đối với nhân dân Việt Nam nói chung và
đối với thanh niên Việt Nam nói riêng, đồng chí Phạm Hùng kể lại rằng:
“Hồi ấy quyển “Bản án chế độ Thực dân Pháp” có một tác dụng rất lớn
đối với thanh niên, học sinh.
Hầu hết các trường trung học đều có tủ sách riêng cho học sinh tự tổ chức
hàng nghìn cuốn sách và tủ sách nào cũng có quyển “Bản án chế độ thực dân
Pháp”. Phong trào thanh niên, học sinh lúc bấy giờ lan rộng và khá mạnh mẽ.
Lập trường giai cấp tuy chưa rõ rệt lắm nhưng ý thức chống đế quốc rất cao, rất
sôi nổi nên tập Bản án chế độ Thực dân Pháp đã trả lời đúng vào ý nghĩ, nguyện
vọng và tâm tính thế hệ thánh niên úuc bấy giờ”.
12
Tác động to lớn của tác phẩm đã làm cho bọn Thực dân Pháp phải lo ngại:
“ Bằng chứng rõ ràng nhất về tuyên truyền cộng sản ở thuộc địa đang lan
rộng và nếu chúng ta không phản ứng thì có thể rồi đây noa sẽ lan rộng trên
khắp lãnh thổ hải ngoại rộng lớn của chúng ta...Chúng ta không thể và không
được để như vậy. Phải thực sự lo lắng trước khi đám cháy xảy ra”
13
.
I.I “ Bản án chế độ Thực dân Pháp “ là một bản cáo trạng đanh thép.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất , tuy Pháp là một nước thắng trận nhưng
lại chịu thiệt hại nặng nề. Để bù đắp những tổn thất đó, Thực dân pháp một mặt
tăng cường bóc lột nhân trong nước , mặt khác ra sức khai thác triệt để, áp bức
tàn tệ ở thuộc địa.
Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã lên án , tố
cáo bon thực dân không chỉ ở Đông Dương, ở Việt Nam mà còn ở nhiều thuộc
địa khác như Angieri, Tuynidi, Tây phi...
Trên thế tấn công, “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã lột mặt nạ của
chủ nghĩa đế quốc bằng những chứng cớ, tang vật không thể chối cãi được.
Và như những quan toà thường xử những phạm nhân trọng tội, tác phẩm
đã lôi bọ hung thủ là những kẻ cướp nước ra trước vành móng ngựa, ra
trước ánh sáng của công lý và bắt chúng phải trả lời , diễn giải những tội ác
14
của chúng. Bằng những lý lẽ đanh thép, tác phẩm đã bóc trần bản chất bóc
lột, tàn ác, dã man , phản động của Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa thực dân.
Đó là việc bóc lột bằng “ Thuế máu” - đày đoạ những con người bản xứ
mà chúng phongcho cái danh hiệu tối cao là “ chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”
và đẩy họ vào “ cuộc chiến tranh vui tươi”
Đó là việc đầu độc người bản xứ bằngthuốc phiện và rượu cồn để làm suy
đồi nòi giống và trí tuệ dân tộc ta để dễ bề cai trị:
“ Cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng
cũng trong số 1000 làng ấy chỉ có vẻn ven 10 trường học...Hàng năm người ta
đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ
con”
14
.
Đó là việc giáng vào người bản xứ những sưu thuế, những phu phen, tạp
dịch...nặng nề, vô lý..
“Bản án chế độ thực dân Pháp” còn chỉ mặt gọi tên những kẻ đại diện
cho “nước mẹ”, cho “tự do, công lý”, cho “ sự nghiệp khai hoá”...đang ra tay
hoành hành khắp các thuộc địa. Người Việt Nam phải è cổ ra mà chịu công ơn
bảo hộ của nước Pháp. Để che đậy cho bản chất xấu xa của bọn bóc lột “ Chủ
nghĩa tư bản luôn luôn trang điểm cho cái huy chương mục nát của nó bằng
những châm ngôn lý tưởng : Bác ái, bình đẳng....”
15
.
Và cái công lý , bình đẳng mà bọn Thực dân Pháp nghêu ngao đã bị
Nguyễn ái Quốc vạch trần bằng giọng điệu châm biếm:
“Công lý được tượng trưng bằng một bà đầm, một tay cầm cân , một tay
cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới
đó, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những
chai rượu ty, nên bà đầm công lý tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém
giết. Bà chém giết cả người vô tội và nhất là người vô tội”
16
.
Sức tố cáo của tác phẩm càng thêm mạnh mẽ khi mô tả nỗi thống khổ của
những người phụ nữ bản xứ....
Tóm lại dưới nanh vuốt của bọn thực dân , mọi tầng lớp người bản
xứ đều bị coi là đám người nô lệ. Từ những nỗi thống khổ mà người bản xứ
15