Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐỀ CƯƠNG-Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.66 KB, 23 trang )

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
1

ĐỀ CƯƠNG

Đề tài: Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.

Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Khái niệm chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta
1.2.2. Mục tiêu và phương hướng thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta
1.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam

Phần 2: PHẦN NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công ngiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay

2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
2.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta phục vụ quá trình công nghiệp hoá,


hiện đại hoá

2.2.1. Cơ cấu lao động
2.2.2. Số lượng nguồn nhân lực
2.2.3. Chất lượng nguồn nhân lực
2.2.4. Những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng phát huy nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

2.3. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

2.3.1. Quan điểm, chính sách phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
2.3.2. Thực hiện các chính sách về giáo dục
2.3.3. Thực hiện các chính sách về xã hội
2.3.4. Thực hiện đồng bộ chiến lược phát triển nguồn nhân lực với phát triển kinh tế


Phần 3: PHẦN KẾT LUẬN

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
2

Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Khái niệm chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá

“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ

công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

1.1.2. Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang tính chất tự
nhiên sang một nền kinh tế thị trường có nghĩa là chúng ta đang trong quá trình thực hiện
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ sang một nền kinh tế sản
xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ cấu cơ sở hạ
tầng và những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo lập ra những cơ sở vật chất kỹ
thuật đó thì theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọi quốc gia đều phải tiến hành quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Cơ sở kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp
với trình độ kỹ thuật công nghiệp thích ứng của nó mà lực lượng lao động xã hội sử dụng
để sản xuất ra của cải vật chất.

Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản
xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách
quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ
thuật công nghệ ngày càng hiện đại và không ngừng hoàn thiện.

Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cơ khí hoá các tư liệu sản xuất mà còn ngày càng
hiện đại hoá ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới. Đây là một nhiệm
vụ khó khăn và mang tính chất quyết định đối với sự sống còn của mỗi quốc gia. Chỉ có
tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại mới có thể làm thay đổi căn bản
đời sống vật chất cũng như tinh thần của xã hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển tăng năng
xuất lao động, ngày càng thoả mãn và đáp ứng nhu cầu cuả nhân dân. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật đó.


Công nghiệp hoá hiện đại hoá được hiểu là “Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
3

phương tiện và phương pháp tiêu biểu hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và
tiến bộ khoa học cồng nghệ tạo ra năng xuất lao động cao”.

Như vậy, trong điều kiện thế giới đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang hậu
công nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường “công nghiệp hoá đuổi kịp để nhanh
chóng hoà nhập vào nền văn minh hiện đại, biến những vùng nghèo nàn lạc hậu trước
đây thành những xã hội hiện đại” Các nước này đã tạo nên những kinh nghiệm bổ ích,
thiết thực cho các nước đang phát triển trong đó có nước ta.

Ở các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng công nghiệp hoá là điều
cấp bách sống còn.Công nghiệp hoá là chìa khoá của sự phát triển đặc biệt gắn chặt với
sự phát triển đặc biệt gắn chặt với sự tăng trưởng bởi vì “công nghiệp hoá chẳng phải là
cái gì khác ngoài một phương tiện đặc biệt mạnh mẽ để tăng năng xuất của con người qua
đó mà tăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng và số lượng sản phẩm. Các nước gọi là phát
triển khác hẳn các nước khác chính là ở chỗ là công nghiệp hoá”.

Công nghiệp hoá tạo nên nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất
cao, cơ cấu sản suất đa dạng, công ăn việc làm phong phú hơn nhiều so với một nền kinh
tế chưa công nghiệp hoá.

Để đạt được hiệu quả cao thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp
với những bước tiến tuần tự về công nghệ vận dụng phắt triển chiều rộng, tạo nhiều công

ăn việc làm cho đội ngũ đông đảo lao động hiện nay. Với việc tranh thủ với bước đi tắt
đón đầu phát triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ phất triển của khoa
học và công nghệ trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của
hiện đại hoá, nhưng hiện đại hoá có nội dung sâu sắc và rộng lớn hơn nhiều, bao gồm các
mặt kinh tế, chính trị và văn hoá.

Hiện đại hoá là quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố xã hội của họ
nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội chính trị văn minh tiên tiến . Công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước con người những vấn đề nan giải cả trong quan hệ giữa con
người với con người và con người với thiên nhiên. Để giải quyết những vấn đề này chúng
ta phải thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ và hành động của mình. Nắm bắt được tư
tưởng đó, Đảng ta đã xác định thực chất của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá
trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội là quá
trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng quá trình tái sản xuất mở rộng. Đường lối
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xác định là ưu tiên cho phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Như vậy,
không còn như trước kia coi công nghiệp nặng là công nghiệp hàng đầu tuyệt đối.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
4

Công nghiệp hóa và hiện đại hoá có những nét riêng đối vơí từng nước nhưng đó chỉ
là sự vận dụng một quá trình chuyển đổi có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là quá trình rộng lớn và
phức tạp, bản chất của quá trình này bao gồm các mặt sau:

- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế.
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý.


Thực hiện tốt công nghiệp hoá và hiện đại hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn: làm thay
đổi lực lượng sản xuất thay đổi căn bản công nghệ kỹ thuật, công nghệ sản xuất tăng
năng xuất lao động tạo ra tốc độ phát triển cao, thực hiện xã hội hoá về mặt khoa học kỹ
thuật. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa các ngành là
rất phức tạp và đa dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều tiết vĩ
mô của nhà nước, tạo khả năng tích luỹ vốn. Tất cả chỉ có thể thực hiện nhờ quá trình
công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chỉ có công nghiệp hóa và hiện đại hoá mới có khả
năng thực tế để quan tâm phát triển tự do toàn diện của yếu tố con người tạo khả năng mở
rộng hợp tác quốc tế và củng cố quốc phòng.

Nắm bắt được tầm quan trọng vấn đề, sự bức bách phải công nghiệp hóa hiện đại hoá
để xử lý nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, không phải bây giờ mà ngay từ đại hội VIII
(tháng 9-1996), Đảng ta đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi đó là nhiệm vụ xuyên
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Trong những năm đất nước có chiến tranh Đảng và nhà nước ta vẫn kiên trì đường lối
công nghiệp hoá hiện đại hoá để từ đó tạo ra sức mạnh cho đất nước. Ngày nay trong
công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng XHCN, các nghị quyết Đại hội Đảng (từ đại hội
VI đến đại hội VIII) đều kiên định đường lối đổi mới và đề ra những nội dung cụ thể
thích hợp cho từng thời kỳ.

Đại hội Đảng VIII đã nêu rõ: “ Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng
của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”.

Với tất cả ý nghĩa to lớn trên, công nghiệp hoá và hiện đại hoá là tất yếu và mang
tính khách quan là nội dung và con đường duy nhất đúng đắn để dựa trên kinh tế xã hội
nước ta phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.


1.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
5

 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.

Nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa
học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết phải tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành
nền kinh tế công nghiệp văn minh.

Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển toàn bộ nền sản xuất xã hội từ
lao động thủ công là chính sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có
năng suất cao.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế, chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước
hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
không lệ thuộc vào những điều kiện kinh tế - chính trị do người khác áp đặt, đồng thời có
tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế…có năng
lực nội sinh về khoa học và công nghệ; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng,
tài chính, môi trường… Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từ đó phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

 Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo quy luật chung nhất về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thì bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, cũng đều là kết
quả tất yếu sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong suốt cả quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú
trọng ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, nhiều ngành kinh tế được đầu tư, từng bước
hiện đại. Mặt khác, chúng ta cũng không coi nhẹ việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới phù hợp. Thực tế những năm vừa qua, trong nông nghiệp, nông thôn, sự thích
ứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất mới đã tạo ra
những bước phát triển quan trọng trong khu vực kinh tế này.

 Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
6

Trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải phát huy cao
độ nội lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồn ngoại lực, tranh
thủ nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý…được xem là nguồn bổ
sung quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách chênh lệch
với các nước trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi trong việc mở rộng thị trường tiêu

thụ hàng hoá trong nước (những mặt hàng có lợi thế). Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, điều này cần phải được quán triệt trong tất
cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, cả trước mắt cũng như lâu dài.

 Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường.

Khái niệm phát triển ngày nay được nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
Ngoài chỉ số về tăng trưởng kinh tế (thu nhập bình quân đầu người), phát triển còn bao
hàm nhiều chỉ số quan trọng khác về những giá trị văn hoá và nhân văn.

Đối với nước ta, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao dân
trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và cải thiện môi trường; khuyến
khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xoá đói, giảm nghèo…phải được thực hiện ngay
trong từng bước đi của quá trình phát triển.

 Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng
đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, điều đó được quán triệt trong việc kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh.

Kinh tế phát triển tạo cơ sở để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Quốc
phòng, an ninh mạnh tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền
vững.

Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch chống chủ nghĩa xã hội vẫn không
ngừng chạy đua vũ trang. Hoà bình, ổn định đối với từng quốc gia luôn luôn bị đe doạ. Vì
vậy, chúng ta phải không ngừng nâng cao cảnh giác, cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn
hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh.


1.2.2. Mục tiêu và phương hướng thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta

Mục tiêu

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
7

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, công nghiệp hoá không phải chỉ là phát triển nền
công nghiệp, mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh
tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao động, kỹ năng sản
xuất…

Hiện đại hoá cũng không có nghĩa chỉ là đưa khoa học - công nghệ - kỹ thuật thông
tin - vi điện tử hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, mà là quá trình vận dựng tất
cả những phương tiện đó vào tổng thể hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, nó đòi hỏi phải
thực hiện cách mạng công nghệ trong các cơ cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý, cân
đối, tạo lập cơ chế quản lý xã hội ở trình độ chuyên môn cao với phương pháp quản lý
hiện đại.

Trước năm 2010 mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa của Việt Nam là phấn đấu
đến năm 2010, Việt Nam cơ bản trở thành một nước "công nghiệp với tỷ trọng trong
GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%, dịch vụ chiếm 42-
43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và dịch vụ là
50%, nông nghiệp là 50%. Chúng ta phần nào cũng đã hoàn thành được mục tiêu đã đề

ra. Trong giai đoạn 2010-2020 : mục tiêu của Việt Nam là ra sức phấn đấu để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt
trội hơn các ngành khác.

Phương hướng thực hiện:

 Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các nghành
công nghiệp và dịch vụ
 Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định, bền vững
 Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hóa các nghành kinh tế
 Phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về chất lượng và số lượng phục vụ cho tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
 Xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
 Phát triển nhanh các nghành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và
công nghệ…

1.2.3. Những cơ hội và thách thức đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam

Thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN là con
đường phát triển của đất nước ta trong giai đoạn mới.
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
8


Trong cuộc hành trình đi đến tương lai chúng ta không quên rằng đất nước mình còn
nghèo nàn, lạc hậu, khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước quanh ta còn khác
xa, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách đố gay gắt. Một số thế lực vẫn muốn
âm mưu diễn biến hoà bình để chống phá cách mạng nước ta. Trong khi đó nạn quan liêu

tham nhũng vẫn còn là nguy cơ lớn.

Tuy nhiên, chúng ta có những điều kiện và những khả năng để thực hiện thắng lợi
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Những yếu tố thuận lợi do môi trường
quốc tế đem lại cùng những bước chuyển mạnh mẽ do chúng ta tạo ra đã trở thành nguồn
lực tổng hợp để đưa đất nước đi lên.

Cơ hội

Môi trường quốc tế hiện nay có nhiều biểu hiện tích cực rất thuận lợi cho sự phát
triển. Đó là xu hướng quốc tế hóa với việc phân công lao động không ngừng phát triển là
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ, đặc biệt là xu thế hoà bình, hợp tác
trong khu vực và trên toàn thế giới. Bối cảnh chung đó giúp những nước đi sau như nước
ta có điều kiện để nhìn trước trông sau, tìm ra cho mình những nhân tố hợp lý, rút ra cho
mình những bài học thành công của các nước đi trước về nhiều lĩnh vực, từ quản lý kinh
tế vĩ mô thúc đẩy doanh nghiệp đến bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang quốc tế hoá và khu vực hoá xu thế hoà bình
và hợp tác đang phát triển. Chúng ta có thể tranh thủ được những khả năng về vốn, thị
truờng, công nghệ và quản lý thế giới. Đặc biệt là trong những năm tới những thuận lợi
đó đang phát triển theo hướng thuận lợi hơn nữa cho chúng ta, đó là những thành tựu của
công cuộc đổi mới mở rộng quan hệ đối ngoại của chúng trong những năm gần đây (gia
nhập ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ký hiệp định chung với EU) cũng
như những diễn biến trên thế giới tạo cho chúng ta những thụân lợi mới, tình hình chính
trị, xã hội nước ta ổn định. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
ASEAN ngày 28/7/1975 và lệnh cấm vận của Mỹ ở Việt Nam bãi bỏ ngày 3/2/1994 mở
ra một hướng phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thêm điều kiện thuận
lợi để hội nhập với khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào quá trình phân công lao
động hợp tác quốc tế.


Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện, tình hình kinh tế xã hội trong nước ổn định…., cũng là những yếu
tố góp phần tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút nguồn đầu tư từ các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam. Một thế lợi nữa mà chúng
ta phải kể đến đó là nguồn tài nguyên Việt Nam. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng có vùng biển và thềm lục địa rộng lớn với chiều dài bờ biển 3.260km, diện
tích vùng biển, thềm lục địa thuộc quyền tài phán quốc gia rộng lớn gấp 8 lần diện tích
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
9

đất liền gắn với một tiềm năng phát triển tổng hợp được đánh giá là to lớn và đa dạng.
Thực tiễn cho thấy, những nước biết tận dụng và khai thác lợi thế tiềm năng một mặt của
biển đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao. Những “Con rồng” Châu Á đều là những
quốc gia lãnh thổ hải đảo hoặc bán đảo của các ngành kinh tế biển luôn đóng vai trò mũi
nhọn trong phát triển.

Thách thức

Về yếu tố thị trường, chúng ta đang phải đối mặt với những điều kiện cạnh tranh gay
gắt hơn so với giai đoạn thập niên 1960-1970. Thị trường Việt Nam ra đời còn quá non
trẻ, một mặt còn thiếu nhiều yếu tố thị trường như thị trường tiền tệ, thị trường lao động
bất động sản kể cả thị trường chất xám…mặt khác cơ chế thị trường vận động còn những
trục trặc chưa thật thông suốt. Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam có nhiều
lợi thế hơn về trình độ công nghệ, kinh nghiệm buôn bán quốc tế.

Có thể nói rằng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình lâu dài đầy khó khăn gian
khổ đòi hỏi chúng ta phải hết sức nỗ lực phấn đấu. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
chiến lược này, chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách nhưng chúng ta cũng
có đủ những điều kiện và khả năng để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá

hiện đại hoá đất nước mà toàn Đảng, toàn dân ta đã đề ra quyết tâm thực hiện.

Phần 2: PHẦN NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công ngiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực

Khái niệm

Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển linh tế
như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn
lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài
nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con
người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể
đạt được sự phát triển như mong muốn.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội
nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền
thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
10

nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Vậy nguồn nhân lực là gì?


Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp Quốc thì
“Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng
tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.

Ngân hàng thế giới cho rằng: “Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể
lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân”. Như vậy, ở đây nguồn lực con
người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên.

Theo tổ chức lao động quốc tế thì: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”.

Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát
triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo
nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham
gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình
lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao
động.

Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy
định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số
lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà
nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và
trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao
động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động
hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số
lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực
nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng

không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm,
những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…

Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu:
“Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã
hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo
của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước”.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
11

Trên cơ sở đó, một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực hay nguồn
lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao
động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có
nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh
trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động.

Tiêu chí đánh giá

Chất lượng nguồn nhân lực: là yếu tố tổng hợp của nhiều tiêu chí như : trí tuệ, trình
độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, thẩm mỹ, … của người lao động . Trong đó
thì 2 yếu tố trí lực và thể lực là 2 yếu tố quan trọng nhất trong việc đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực.

Cơ cấu nguồn nhân lực: là yếu tố không thể thiếu khi đánh giá về nguồn nhân lực. Cơ
cấu nhân lực thể hiện các phương diện khác nhau như: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính,
độ tuổi … Cơ cấu nguồn nhân lực nói chung của 1 quốc gia được quyết định bởi cơ cấu
đào tạo và cơ cấu kinh tế.


Tóm lại, nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố chất lượng, số
lượng, và cơ cấu phát triển nguồn nhân lực nói chung ở cả hiện tại cũng như trong tương
lai của 1 tổ chức, địa phương, quốc gia, 1 khu vực hay cả thế giới.

Phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng
với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái
quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn
diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.

Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề
chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động
cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể
theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại
học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề).

2.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực

Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn
đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển
kinh tế.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
12

Theo nhà kinh tế người Anh William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ
của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản

xuất. Trong truyền thống VN xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Nhà tương
lai Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta "Tiền bạc tiêu
mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không
những không mất đi mà còn lớn lên" (Power Shift - Thăng trầm quyền lực - Avill Toffer).

Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố
quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.

Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa
học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám
có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp
lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy
được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người
với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản
xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế -
xã hội.

Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không
mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội
đủ bốn điều kiện :

 Quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
 Quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
 Quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
 Quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.

Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định

sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công
là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công
nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.

Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút
ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó
yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
13

thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển bền vững.
Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách
tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước nhằm phát triển bền vững
Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta phục vụ quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
2.2.1. Cơ cấu lao động

Cơ cấu NNL theo tuổi


Nước ta là một nước thuộc loại dân số trẻ. Số lao động trong độ tuổi từ 15-44 chiếm
gần 80% lao động độ tuổi trên 60 chiếm khoảng 3% tổng lao động của cả nước. Nguồn
nhân lực của nước ta rất dồi dào và đang ngày càng tăng nhanh. Tỷ lệ lao động trong độ
tuổi 15-34 và độ tuổi trên 60 thì có xu hướng giảm còn độ tuổi từ 35-59 lại có xu hướng
tăng lên. Tuy nhiên, sự thay đổi này là rất nhỏ không đáng kể. Từ năm 2007, cơ cấu dân
số (DS) nước ta bước vào giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" với tỷ lệ DS trong độ tuổi lao
động đạt giá trị cực đại và tỷ lệ DS phụ thuộc dưới 50%. Giai đoạn "cơ cấu DS vàng" dự
báo kéo dài 15 năm, từ 2007 đến 2012, đây là khoảng thời gian ngắn so với nhiều nước
trên thế giới. Đến năm 2015, tỷ lệ DS trong độ tuổi lao động đạt giá trị cực đại, chiếm tới
68,2% DS, theo đó có 63,4 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 94,3 triệu dân.

Đồng thời, số người bước vào tuổi lao động mỗi năm là 1,6 triệu người khiến nhu
cầu về giải quyết việc làm tăng. Do vậy, giải quyết việc làm và sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động dồi dào sẽ là một thách thức đối với nền kinh tế nước ta trong những năm
tới.

Như vậy ta có thể thấy là nguồn nhân lực của nước ta có nhu cầu đào tạo rất lớn do
số lượng lao động đông tỷ lệ trong độ tuổi lao động cao và số lượng lao động nông thôn
cũng rất lớn. Mặt khác thì hiện nay trình độ của lực lượng lao động nước ta rất thấp, một
khối lượng lớn người lao động chưa được giáo dục đào tạo. Do đó, muốn đáp ứng được
nhu cầu hiện nay thì lao động cần phải được đào tạo, trang bị và nâng cao trình độ
chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay nghề.

Cơ cấu NNL theo giới tính

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
14


Đến nay, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc làm đã
tăng lên và có khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch. Theo Điều tra lao động - việc làm ngày
1/8/2007 của Tổng cục Thống kê, năm 2005, lao động nữ chiếm khoảng 21,14 triệu
người trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc dân (48,6% so với 43,45 triệu lao
động), đến 8/2007 đã tăng lên khoảng 22,77 triệu người (49,4% so với tổng số trên 46,11
triệu lao động).

Chênh lệch lao động sau 2 năm 2006 – 2007 tương ứng với số lao động được giải
quyết việc làm mới là 2,76 triệu người (trong đó, lao động nam là 1,08 triệu người và lao
động nữ là trên 1,67 triệu người), bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1,33
triệu người, trong đó, lao động nữ là 835 nghìn người.

Theo đánh giá tổng quan, nếu mức độ ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu là
thấp, khả năng đến cuối năm 2010, lao động nữ sẽ đạt và vượt chỉ tiêu 50% lực lượng lao
động của cả nước. Tuy nhiên, vấn đề quan tâm hiện nay là chất lượng công việc của lao
động nữ vì chủ yếu các chị em vẫn chiếm số đông ở những lĩnh vực không đòi hỏi
chuyên môn kỹ thuật cao, có thu nhập thấp và việc làm bấp bênh, độ rủi ro cao. Trong
các ngành nghề đã có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu lao động, nhưng vẫn thể hiện sự bất
bình đẳng về giới, thể hiện qua tỷ lệ lao động nữ trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp
dù có chiều hướng giảm nhưng xét về cơ cấu giới thì vẫn còn rất cao.

Khu vực nông thôn tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế cao hơn thành thị (81,3% ở
nông thôn so với 67,3% ở khu vực thành thị). Điều này cho thấy ở nông thôn chủ yếu là
lao động nông nghiệp nên thu hút nhiều lao động nữ hơn khu vực thành thị.

Lao động nữ chiếm tỷ lệ tương đương với lao động nam trong lực lượng lao động của
cả nước. Tuy nhiên, thì tỷ lệ lao động nữ tham gia vào hoạt đông kinh tế lại ít hơn so với
lao động nam (77,4% so với 81,9%) và nhất là ở khu vực thành thị thì khoảng cách chênh
lệch tỷ lệ này là rất cao (tỷlệ nữ tham gia hoạt động kinh tế là 67,3% trong khi tỷ lệ nam
là 76,6%).


Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, thời gian qua tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành
thị đã giảm được đáng kể từ 4,82% năm 2006, xuống còn 4,64% năm 2007 và ước năm
2008 là 4,65%. Tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 5,25% năm 2006
xuống còn 5,1% năm 2007 và năm 2008. Như vậy để có thể phát huy hết nguồn lực phát
triển đất nước thì cần phải có giải pháp để tăng tỷ lệ lao động nữ tham gia vào hoạt động
kinh tế, và giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ cũng như tỷ lệ thất nghiệp chung của
lao động cả nước nhằm tận dụng hết nguồn lực bên trong, phát triển đất nước.

Cơ cấu NNL theo trình độ học vấn

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
15

Trình độ học vấn và dân trí của nước ta hiện nay là khá cao nhờ phát triển mạnh nền
giáo dục và coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đây là chìa khoá quan trọng để tiếp thu
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Quy mô giáo dục vẫn không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Số lượng
trường cấp II và cấp III tăng nhanh theo thời gian, cùng với sự gia tăng của trường công
lập thì số lượng trường ngoài công lập cũng không ngừng tăng lên. Cho thấy là nước ta
đã hình thành được một hệ thống trường học đa dạng về hình thức nhằm đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, cũng như đã khai thác được triệt để hơn các
nguồn lực trong nhân dân, phục vụ cho công tác đào tạo nước ta ngày càng tốt hơn.
Không chỉ quy mô hệ thống trường học tăng lên mà quy mô học sinh trong các cấp học
cũng không ngừng tăng lên, phản ánh nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân.
Trong đó thì số học sinh nữ cũng tăng qua các thời kỳ cho thấy sự bình đẳng giới trong
xã hội đã được quan tâm, chú ý nhiều hơn vào việc đào tạo lao động nữ. Tổng số học sinh
tốt nghiệp cũng tăng qua các năm làm cho lượng lao động có trình độ học vấn ngày càng

tăng lên.

Trình độ học vấn: đến năm 2008, tỷ lệ lao động chưa biết chữ là 4%, chưa tốt nghiệp
tiểu học là 12,01%, tốt nghiệp tiểu học là 28,34%, tốt nghiệp THCS là 32,08% và tốt
nghiệp THPT là 23,56%.

Tuy nhiên tỷ lệ tốt nghiệp này là chưa cao chỉ khoảng 28% trong tổng số học sinh.
Như vậy có thể thấy là chất lượng giáo dục vẫn chưa cao, phương pháp giảng dạy vẫn
chưa được tốt nên học sinh ít chú trọng vào việc học tập, và chất lượng quá trình học tập
cũng không được cao. Do đó tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ học vấn vẫn còn rất hạn
chế. Vì vậy để nâng cao chất lượng giảng dạy thì cần phải có biện pháp nhằm làm cho
học sinh chú tâm nhiều hơn vào việc học, thích thú hơn với việc học tập và quan trọng
nhất là phải giáo dục cho họ ý thức được tầm quan trọng của việc học tập rồi từ đó mà tự
giác học tập. Có vậy mới nâng cao được chất lượng giáo dục đào tạo.

Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật

Trình độ chuyên môn kỹ thuật là chỉ tiêu thể hiện chất lượng nguồn nhân lực và tiềm
năng to lớn của nguồn nhân lực. Do đó để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì phải
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.

Theo số liệu thống kê, cả nước hiện nay có 322 trường đại học và cao đẳng, trong đó
khoảng 1/10 là dân lập (nghĩa là trường tư). Như thế là số trường quá nhiều so với tỷ lệ
dân số và mức thu nhập quốc dân thu nhập – cao hơn Trung Quốc 15% mà mức thu nhập
của nước ta chỉ bằng 1/2 của Trung Quốc. Quy mô một số trường của nước ta quá lớn:
“…Đại học Quốc gia TPHCM 81 ngàn, Đại học kinh tế TPHCM 34 ngàn, Đại học Huế
81 ngàn, Đại học Đà Nẵng 52 ngàn, Đại học mở Hà Nội 46 ngàn, Đại học Thái Nguyên
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
16


34 ngàn Đây là những đại học vào hàng khổng lồ nhất thế giới. Ở Mỹ, đại học lớn nhất
là Arizona State cũng chỉ có khoảng 52 ngàn sinh viên. Các đại học hàng đầu của Mỹ chỉ
khoảng 15 ngàn.

Số lượng giáo viên giảng dạy trong các trường ngoài công lập cũng ngày càng tăng
lên nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của người dân. Tỷ lệ giáo viên được đào tạo đạt chuẩn đối với trung học chuyên
nghiệp là 86,3%, đại học – cao đẳng có 45% giáo viên đạt trình độ thạc sĩ trở lên. Cùng
với sự phát triển ngày càng nhanh của hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo thì quy mô tuyển
sinh vào các trường đại học, cao đẳng và các trường trung học chuyên nghiệp cũng không
ngừng tăng lên. Trong tổng số sinh viên tuyển mới vào các trường đại học và cao đẳng
thì số sinh viên vào các trường đại học là chủ yếu, trong đó phần lớn là vào các trường
công lập. Cho thấy nhu cầu đào tạo đại học là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với các loại
hình khác. Đây vừa là điểm tốt vừa là điểm không tốt. Tốt vì nó cho thấy được nhu cầu
đào tạo đại học, cao đẳng của nhân dân ngày càng tăng, làm cho số dân có trình độ cao
ngày càng tăng. Tuy nhiên đây cũng lại là thách thức lớn đối với công tác giáo dục, đào
tạo của đất nước. Do nền kinh tế còn yếu kém nên đầu tư cho giáo dục đào tạo còn nhiều
hạn chế, do đó không thể đáp ứng tốt được nhu cầu của người dân và chất lượng đào tạo
cũng không được cao, gây lãng phí rất lớn nguồn nhân lực.

2.2.2. Số lượng nguồn lao động

Các kết quả suy rộng mẫu chủ yếu của cuộc Điều tra mẫu Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009 vừa chính thức được Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung
ương công bố. Theo đó, Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà
nhóm dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ
thuộc.

Kết quả điều tra cho thấy, so với kết quả của cuộc Tổng điều tra năm 1999, tỷ

trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999 xuống còn 25% trong năm 2009.
Trong khi đó, tỷ trọng dân số của nhóm 15-59 tuổi tăng từ 58% năm 1999 lên 66%. Còn
nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 8% lên 9% tương ứng trong hai cuộc tổng điều tra.

Được biết, tính đến thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2009, cả nước có 43,8 triệu người
trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số. Trong đó, thành thị có 11,9
triệu người (chiếm 27%), nông thôn có 31,9 triệu người (73%). Lao động nữ chiếm
46,6% tổng lực lượng lao động.

Với số lượng người bước vào độ tuổi lao động đạt mức kỷ lục như hiện nay, cùng
với hàng chục vạn lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, 2 thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ 21 sẽ tạo ra áp lực rất lớn về việc làm và nguồn vốn đang căng thẳng với
tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (một số lao động thất nghiệp rơi vào nhóm lao động trẻ được
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
17

đào tạo, gây ra nhiều hậu quả cả về kinh tế xã hội. Bên cạnh đó còn có hàng triệu người
già tuy tuổi cao nhưng vẫn còn khả năng và mong muốn được làm việc).

Trên phạm vi cả nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý và tình hình kinh tế - xã hội khác nhau giữa
các vùng miền, nên ở các tỉnh đồng bằng do mức sinh sống thấp trong nhiều năm qua và
"cơ cấu dân số vàng" đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách thức lớn về việc
làm cho địa phương vốn đất chật người đông. Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, miền núi
Tây Bắc, do mức sinh ở những vùng này vẫn còn cao nên cấu trúc dân số còn trẻ. Luồng
di cư tự phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền núi đến các thành phố, Tây Nguyên
và vùng Đông Nam Bộ. Trong một số doanh nghiệp ở các vùng này, số lao động ngoại
tỉnh chiếm đến 80%.


2.2.3. Chất lượng nguồn lao động

Trong những năm gần đây chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) của Việt Nam đã
được cải thiện 114/179 nước (năm 2008), tuy nhiên chỉ số đó con khá khiêm tốn so với
các nước trong khu vực như singapore (thứ 27), Malaysia (thứ 63), Thái Lan (thứ 77).

Những nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng trong nhiều năm qua đã chứng minh,
chiều cao của người Việt Nam đang được cải thiện. Nạn đói và chiến tranh đã ảnh hưởng
đến tầm vóc của người Việt Nam; chiều cao trung bình của người Việt Nam trong thời
gian từ năm 1938-1985 hầu như không thay đổi (nam cao 160cm, nữ cao 150cm). Tuy
nhiên, trong hơn 10 năm qua , tầm vóc của người Việt Nam đã khá hơn, chiều cao trung
bình người trưởng thành nam hiện nay là 163,7cm. Theo Chương trình Nâng cao tầm vóc
và thể trạng người Việt Nam, kết thúc giai đoạn I (đến năm 2010), chiều cao thân thể
trung bình của nam thanh niên 18 tuổi sẽ đạt từ 165cm-166cm, nữ đạt 154cm-155cm.
Theo phân tích của các nhà chuyên môn, hiện tại chiều cao của nam thanh niên Việt Nam
là 1,65m, nữ 1,53m. Sau 25 năm chiều cao trung bình của người Việt Nam đã tăng
6,14cm ở nam và 4,88cm ở nữ. Tính trung bình mỗi năm chiều cao tăng ở nam là
0,24cm, ở nữ là 0,20cm. .Trong khi đó xu hướng chung ở các nước phát triển là chiều cao
trung bình của nam thanh niên cứ sau 10 năm sẽ tăng 1 cm và tuổi thọ bình quân của Việt
Nam cũng tăng lên. Sau 10 năm (kể từ Tổng điều tra 1999) tuổi thọ đã đạt 72,8 tuổi đối
với nam (tăng 3,7 tuổi) và 75,6 tuổi với nữ (tăng 5,5 tuổi). Đó là dấu hiệu đáng mừng,
đáng khích lệ trong công tác chăm sóc sức khỏe của nước ta.

Số lượng người lao động tuy tăng và dư thừa, nhưng lại yếu về sức khỏe, trình
độ tay nghề hạn chế lao động khu vực thành thị ở Hà Nội thừa khoảng 7,5% và ở thành
phố Hồ Chí Minh là 6,5% (đó là chưa kể hàng chục van lao động dôi dư do sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước). Tại khu vực nông thôn còn dư thừa 26% quỹ thời gian lao
động, tương đương khoảng 9 triệu người, nhưng 95,5% lao động không có tay nghề,
nhưng theo dự báo trong 10 năm tới, số lượng này sẽ tăng lên mức cao nhất là 1,8 triệu
Nhóm 08 - 1113RLCP0111

Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
18

người, do đó việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện tại
cũng như cho số thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động sẽ thách thức vô cùng lớn.

Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua còn rất bất hợp lý. Tại
các nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một thầy chỉ có
0,95 thợ. Đây chính là tình trạng "thầy nhiều hơn thợ". Trong khi số sinh viên đại học
tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật giảm dần. Đến năm 2010, mỗi năm cần khoảng 20
ngàn lao động kỹ thuật, nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng 12.000 người/năm.
Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu như không được đáp ứng đầy đủ, trong khi
lao động phổ thông lại dư thừa quá nhiều.

Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: NNL Việt Nam về chất
lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:

- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp
và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là
100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ
khoảng gấp đôi của nước ta.

Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng
con người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, có
nhiều ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng.

2.2.4. Những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng phát huy nguồn
nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá


Thứ nhất là cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Tính
đến hết năm 2007, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (29,6%),
số lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao
động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số. Những chỉ số này cho thấy đây là
một trong những nguyên nhân cơ bản đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay.

Thứ hai là thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm
qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc
xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát triển
và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn
nhiều chồng chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến
hiện nay là vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương.

Thứ ba đến là sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp dạy và học của chúng ta hiện nay thường tạo
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
19

ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do
đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học thường ít vận dụng
được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người học phải chấp nhận qua
một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian
đối với người học

2.3. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
2.3.1. Quan điểm, chính sách phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay


Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 đã đề ra các quan điểm lớn về chính sách
phát triển nguồn nhân lực, tập trung vào các điểm sau:

 Phát triển nguồn nhân lực thực chất là phát triển nguồn vốn con người nên
phải được quan tâm từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời
của một cá nhân về các mặt trí lực, tâm lực, thể lực, các phẩm chất đạo đức,
nhân cách công dân, trình độ học vấn, chuyên môn và văn hoá,…
 Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu lao động kỹ thuật ngoài xã hội
của thị trường lao động cả nước, quốc tế cũng như của từng ngành, từng vùng
địa lý kinh tế.
 Phát triển các hình thức đào tạo kết hợp giữa các trường chuyên nghiệp với
các cơ sở sản xuất – dịch vụ, các doanh nghiệp.
 Giáo dục đại học cần tiếp tục phát triển cả về quy mô và nâng cao chất lượng,
hiệu quả đào tạo, song cần định rõ 2 nhu cầu cơ bản: nhu cầu của xã hội về
học vấn đại học và nhu cầu của cả nước, của các tổ chức kinh tế - xã hội về
nhân lực lao động kỹ thuật cao cấp.
 Phát triển nguồn nhân lực là chính sách quan trọng của Nhà nước với việc đề
ra các chính sách quản lý nhà nước vĩ mô về nguồn nhân lực, xây dựng các
chiến lược và các kế hoạch phát triển nhân lực trong phạm vi cả nước, cũng
như ở các ngành, các địa phương.
 Cơ cấu lại hệ thống đào tạo nhân lực theo hướng đa dạng hoá, phát triển các
loại hình đào tạo nhân lực chất lượng cao. Triển khai hệ thống kiểm định chất
lượng đào tạo nhân lực.

2.3.2. Thực hiện các chính sách về giáo dục

Mở rộng quy mô giáo dục đào tạo mọi ngành, các cấp học từ mẫu giáo, các cấp phổ
thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đến việc xúc tiến các trung tâm dạy
nghề, hướng nghiệp Ngoài ra để nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở các vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng, giảm học phí cho học
sinh, sinh viên nghèo vượt khó.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
20

Yếu tố quan trọng quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới nội dung,
chương trình và phương pháp đào tạo. Ngoài giáo dục đào tạo văn hóa chuyên môn,
nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kỷ luật,
tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng và khả năng thích ứng với nền kinh tế
thị trường.

Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về
cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn.

Cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động một cao
trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải
quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người. Song song với vấn
đề giáo dục, đào tạo con người, chúng ta cần quan tâm đến vấn đề dân số, sức khỏe như
tăng cường chú trọng đến các chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng
chống suy dinh dưỡng các vùng miền, vùng sâu, vùng xa.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN không thể không
xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam
toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân

ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối
với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và
chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn
hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa
và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát
triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ
tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh
mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.

2.3.3. Thực hiện các chính sách về xã hội

Trong thời gian gần đây, việc “chảy máu chất xám”, di chuyển các nhân tài từ
doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng gia tăng. Đặc biệt, trong thời gian tới, khi nền kinh tế được phục
hồi và trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng hoàn thiện, cạnh tranh nguồn nhân
lực sẽ tiếp tục gắt gao hơn. Do đó, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần xây dựng
chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nguồn nhân lực theo mức độ cống hiến và khả năng
phát triển tương lai. Trước hết, chính sách tiền lương cần được xây dựng và thực hiện
một cách linh hoạt theo tiêu chí tài năng. Đồng thời, cần xây dựng chế độ chính sách ưu
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
21

đãi đối với nhân lực chất lượng cao để tạo động lực thu hút nhân tài trong và ngoài nước
vào làm việc tại các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách để họ có điều
kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình. Các chính sách này không chỉ dừng
lại ở lương hay cổ phần mà còn là các phương thức khác như cung cấp nhà ở, hỗ trợ dịch
vụ bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, tạo điều kiện, môi trường làm việc
thuận lợi, hỗ trợ phương tiện truyền thông và đi lại, tín dụng cho nhân viên, du lịch và
đào tạo tại nước ngoài, hỗ trợ dịch vụ gia đình cho nhân viên. Nhà nước và doanh nghiệp

cũng cần có chính sách để thu hút nguồn nhân lực có trình độ kiến thức cao là Việt kiều
đang sinh sống tại nước ngoài về đầu tư tiền bạc và chất xám cho công cuộc xây dựng
kinh tế đất nước.

 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý phát triển và sử
dụng nhân lực phù hợp với cơ chế và thể chế kinh tế thị trường.

 Đổi mới căn bản và toàn diện chính sách về sử dụng nhân lực trong khu vực
nhà nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, gồm từ khâu tuyển dụng, bố
trí công việc, trả công lao động, thăng tiến nghề nghiệp và không ngừng cải
thiện điều kiện, môi trường lao động để tạo động lực, kích thích, khuyến khích
làm việc sáng tạo và có hiệu quả cao. Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh
giá nhân lực dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao
động thực tế và đãi ngộ tương xứng với trình độ năng lực và kết quả công
việc.

2.3.4. Thực hiện đồng bộ chiến lược phát triển nguồn nhân lực với phát triển
kinh tế

Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên với việc bắt
đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân lực. Điều
này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trong tư duy giáo dục, tuy nhiên nhìn ở
tầm vĩ mô thì sự hợp tác này còn manh mún, các thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực
quốc gia chưa được thu thập đầy đủ.

Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa
các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối quan hệ này
thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu nguồn nhân lực
(số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan lập chiến lược phát triển nhân lực phải
coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các chiến lược phát triển nguồn

nhân lực.

Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài th

o lu

n môn
Đư

ng l

i CM c

a Đ

ng CSVN


Hình 1 Chiến lược nhân lực với thông tin đầu vào từ các chiến lược kinh tế

Nguyên tắc là như vậy, tuy nhiên làm thế nào để áp dụng vào thực tế trong khi sự
liên kết giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các Bộ ngành khác trong công tác phát triển
nguồn nhân lực chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này sự phối hợp đa ngành
đóng một vai trò quan trọng, do đó cần thiết phải thành lập một cơ quan lập kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực quốc gia (Human Resource Development Planning Center -
HRDPC) trực thuộc Chính phủ, để tạo sự liên kết ngang hàng giữa các Bộ, ngành, địa
phương với Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Để mô hình này hoạt động có hiệu quả, HRDPC phải là cơ quan có quyền lực đủ

lớn, do đó người đứng đầu nhất thiết phải là Thủ tướng Chính phủ, các thành viên thường
trực bao gồm các đại diện các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo lớn trên toàn
quốc.

Các quốc gia trên thế giới như Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết
lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực. Đây
được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa học kỹ
thuật của các quốc gia này. Đã đến lúc Việt Nam đặt vấn đề lấy sự phát triển nguồn nhân
lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chăt chẽ các chiến lược
phát triển kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Phần 3: PHẦN KẾT LUẬN

Trong bất kỳ một xã hội nào, một đất nước nào, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng
đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Nguồn nhân lực đó được đào tạo một cách có chất
lượng tốt, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực thì lực lượng sản xuất mới có thể phát
triển mạnh được, trình độ lực lượng sản xuất mới có thể nâng cao hơn, bởi lẽ lực lượng
sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và con người. Con người là nguồn nhân lực, lực lượng
sản xuất phản ánh mối quan hệ, sự tác động kích thích của con người vào tư liệu sản xuất,
con người có được đào tạo, được trang bị thì mới có thể có trình độ để sử dụng tư liệu sản
xuất một cách hiệu quả. Điều này càng quan trọng càng trở nên cấp thiết khi tư liệu sản
xuất ở đây lại là máy móc, công nghệ khoa học kỹ thuật, tư liệu sản xuất này đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực có đầy đủ trình độ thì mới có thể thực hiện có hiệu quả được. Vấn đề
công nghiệp hoá, hiện đại hoá quả thực là vấn đề không dễ thực hiện được vì thực hiện
Nhóm 08 - 1113RLCP0111
Bài thảo luận môn Đường lối CM của Đảng CSVN
23

được vấn đề này có nghĩa là chuyển đổi từ lực lượng sản xuất thấp kém sang một lực
lượng sản xuất có trình độ cao, hiện đại. Điều này càng trở nên khó khăn đối với những

nước có nền kinh tế kém phát triển thậm chí cả với những nước đang phát triển, những
nước có nền kinh tế cơ bản là nông nghiệp, có nguồn vốn ít ỏi và khoa học thấp kém.

Nước ta là một nước đang phát triển và cũng đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và những khó khăn kể ở trên nước ta đều có cả, song dựa vào đâu mà Đảng và
nhà nước ta đã quyết định thực hiện chiến lược này. Điều đó đã được Đảng và nhà nước
ta thông qua thực trạng nguồn nhân lực của nước ta thấy được những thuận lợi và lợi thế
mà nước ta hoàn toàn có khả năng thực hiện được sự nghiệp này. Nước ta có dân số lớn,
có nguồn lao động dồi dào đặc biệt là lực lượng lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 14-35 nhóm
có ưu thế về sức khoẻ, sức vươn lên, năng động và sáng tạo. Đường lối đổi mới của Đảng
đã mở ra khả năng phát triển nền kinh tế, quản lý nhà nước về nguồn nhân lực ngày càng
được quan tâm. Chúng ta có rất nhiều lợi thế khác, bên cạnh đó có hạn chế khó khăn và
thách thức, song phân tích được thực trạng Đảng và nhà nước ta đã có giải pháp khắc
phục giải quyết hợp lý đảm bảo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ đi đến thắng
lợi. Điều quan trọng nhất là chúng ta bởi lẽ chúng ta có truyền thống là dân tộc anh hùng,
đoàn kết và có lòng yêu nước cao cả, sự thông minh vốn có chắc chắn chúng ta sẽ là một
nước phát triển trong tương lai sẽ tạo ra được nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.








×