Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

Nghiên cứu thành ngữ tiếng việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.47 KB, 194 trang )

MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Trong ngôn ngữ của một dân tộc, thành ngữ là một đơn vị đặc trưng và
thành ngữ tiếng Việt cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vì, thành ngữ không chỉ
là một phần quan trọng trong từ vựng của mỗi một ngôn ngữ, mà còn là một
nguồn tư liệu quý báu lưu giữ những tri thức văn hóa của dân tộc sở hữu nó.
Nói một cách khác, thành ngữ chính là những đơn vị ngôn ngữ kết tinh nét
văn hóa của dân tộc rõ nhất và là công cụ phản ánh đặc điểm văn hóa xã hội
điển hình nhất của dân tộc. Chính vì vậy, không chỉ các nhà ngôn ngữ học,
mà cả các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, những nhà nghiên
cứu văn hóa nói chung thường rất quan tâm đối tượng này.
Với lượng tri thức phong phú mà kho tàng thành ngữ lưu giữ, người ta
có thể tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau, bằng những phương pháp khác
nhau. Vì thế, khi có một cách tiếp cận mới, người ta có thể sẽ tìm ra thêm
được những vấn đề mới. Một trong những cách tiếp cận mới chưa được tiến
hành ở bất cứ công trình nào ở Việt Nam, đó là hướng tiếp cận thành ngữ
tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng.
Ngôn ngữ học nhân chủng là một khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ
đã được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Những nước có môi trường
ngôn ngữ đa dân tộc như Mỹ, Trung Quốc hay có truyền thống nghiên cứu
ngôn ngữ học xã hội như Anh, Pháp v,v từ lâu đã quan tâm đến hướng nghiên
cứu này. Ở nước ta, đây là một hướng nghiên cứu còn rất mới mẻ chưa được
nhiều người lưu ý. Vì thế tiếp cận ngôn ngữ học từ bình diện nhân chủng sẽ
góp phần làm phong phú những khuynh hướng nghiên cứu khác nhau về ngôn
ngữ học ở nước ta hiện nay. Từ cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi lựa chọn
đề tài “Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân
chủng” cho luận án của mình với mong muốn khai thác một vấn đề không
1
mới bằng một cách tiếp cận được cho là mới, góp phần làm phong phú thêm
những khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ học ở nước ta hiện nay.
0.2. Mục đích của luận án


Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hướng tới những mục đích
sau đây:
Thứ nhất, ứng dụng một số tri thức của ngôn ngữ học nhân chủng vào
nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Do đó, có thể coi đây là một cách tiếp cận
mới về thành ngữ, góp phần bổ sung thêm lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ ở
Việt Nam. Cách làm này sẽ giúp chúng tôi thu nhận được một cơ sở lý luận
quan trọng để từ đó có thể gợi mở những vấn đề khác trong ngôn ngữ học
nhằm tiến hành nghiên cứu thêm trên những nguồn tư liệu khác nữa của tiếng
Việt.
Thứ hai, từ cách tiếp cận của ngôn ngữ học nhân chủng, luận án hy
vọng góp phần làm nổi bật những đặc điểm văn hóa xã hội của người Việt
được phản ánh trong đơn vị ngôn ngữ đặc biệt là thành ngữ. Qua đó luận án
góp phần chỉ ra những vấn đề liên quan đến thành ngữ mà những cách tiếp
cận trước đây chưa chú ý hoặc chưa chỉ ra một cách tường minh, cụ thể.
0.3. Nhiệm vụ của luận án
Xuất phát từ mục đích nói trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
Một là, trình bày những cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài gồm một
vài vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học nhân chủng, những quan điểm nhận
diện và nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt cũng như các hướng tiếp cận
thành ngữ trước đây. Trên cơ sở đó xác định cho mình những nội dung cụ thể
trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng.
Hai là, khảo sát một vài vấn đề liên quan đến đặc điểm văn hóa xã hội
trong thành ngữ tiếng Việt. Đương nhiên, khi thực hiện việc khảo sát này luận
án sẽ xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng để nhằm chắt lọc ra
2
một số nội dung mà những cách tiếp cận trước đây chưa chú ý đúng mức. Qua
đó, luận án sẽ bước đầu nêu ra những đặc điểm đặc trưng về nội dung này của
thành ngữ tiếng Việt.
Ba là, qua việc phân tích ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt, luận án
sẽ làm rõ thêm tính ẩn dụ (metaphoricality) thể hiện qua mối quan hệ giữa ý

niệm nguồn (source) và ý niệm đích (target) của thành ngữ tiếng Việt. Qua đó
thể hiện cách nhìn nhận thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng của
luận án.
0.4. Ý nghĩa của luận án
Về mặt lý luận, luận án được thực hiện trên cơ sở kế thừa và vận dụng
một vài nội dung liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Vì vậy,
luận án sẽ góp phần vào làm đa dạng hóa các cách tiếp cận khác nhau trong
việc nghiên cứu một vấn đề của ngôn ngữ học. Ở đây, thành ngữ tiếng Việt sẽ
được nhìn nhận từ một cách tiếp cận mới và do đó, những đặc điểm văn hóa
xã hội của thành ngữ sẽ có điều kiện được tập trung làm rõ thêm hơn.
Về mặt thực tiễn, luận án sẽ góp phần hữu ích vào việc hiểu và giải
thích thành ngữ tiếng Việt. Việc hiểu rõ về thành ngữ tiếng Việt không chỉ có
ích đối với mỗi người Việt Nam nói chung, mà còn có ích đối với các bạn học
sinh, sinh viên, đặc biệt là với những sinh viên nước ngoài học tiếng Việt nói
riêng. Từ đó, phần nào giúp cho mọi người có thể hiểu thêm về các vấn đề
văn hóa xã hội của Việt Nam, hiểu rõ thêm đặc trưng văn hóa của người Việt
được thể hiện trong ngôn ngữ.
0.5. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
Như vậy, đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là thành ngữ
tiếng Việt. Hiện nay, đã có rất nhiều từ điển thành ngữ tiếng Việt được xuất
bản. Căn cứ vào tính chất của những cuốn từ điển ấy và để thuận tiện cho việc
xử lý, tư liệu mà chúng tôi dùng trong luận án sẽ được tổng hợp từ những
nguồn sau đây:
3
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung - Vũ Thúy Anh
- Vũ Quang Hào (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995).
- Từ điển thành ngữ Việt Nam do Nguyễn Như Ý chủ biên (NXB Văn
hóa, Hà Nội 1993).
- Phần “Sưu tập và phân loại thành ngữ” tiếng Việt trong cuốn Thành
ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội

2004).
Tổng số thành ngữ tiếng Việt được chúng tôi thu thập để tiến hành
khảo sát là 8.780 đơn vị. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thành ngữ
của các ngôn ngữ khác làm dẫn chứng minh họa và so sánh. Những tư liệu
nước ngoài này được trích dẫn từ các sách, từ điển hay luận án đã được nêu ra
trong phần tài liệu tham khảo.
0.6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được tiến hành nghiên cứu dựa trên các phương pháp nghiên
cứu cơ bản của ngôn ngữ học, trong đó chủ yếu là phương pháp miêu tả, phần
nào là phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, các thủ pháp nghiên cứu
như thống kê và phân loại tư liệu, phân tích v.v cũng sẽ được áp dụng để phục
vụ mục tiêu nghiên cứu.
0.7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của
tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm có ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài. Chương viết này sẽ làm rõ một
vài vấn đề liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng và những vấn đề
lý thuyết đã có về thành ngữ. Từ đó luận án sẽ xác định hướng nghiên cứu cụ
thể mà ngôn ngữ học nhân chủng có thể áp dụng để nghiên cứu thành ngữ
tiếng Việt.
- Chương 2: Một vài đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ tiếng Việt
nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chương này sẽ trình bày khái
4
quát một vài nội dung trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ
học nhân chủng nhằm làm rõ những vấn đề mà các cách tiếp cận khác còn
chưa có điều kiện chỉ ra.
- Chương 3: Tính ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện
ngôn ngữ học nhân chủng. Chương này lựa chọn vấn đề ẩn dụ như là một
trong những nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng để qua đó
góp phần chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong thành ngữ. Và

đó cũng chính là cách để làm sáng tỏ những đặc điểm của tính ẩn dụ có trong
thành ngữ tiếng Việt. Cách giải thích ấy đến lượt mình cho chúng ta biết ngôn
ngữ và văn hóa tác động qua lại lẫn nhau như thế nào và chính sự hiểu biết
đó chỉ ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ học nhân chủng với các phân ngành
khoa học khác.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Dẫn nhập
Trong xu thế phát triển hiện nay, ngày càng có nhiều hướng nghiên cứu
mới với những phạm vi nghiên cứu giáp ranh giữa các ngành khoa học. Ở đó,
các đối tượng nghiên cứu được xem xét từ nhiều góc độ có thể nói là toàn
diện hơn nhờ những cách tiếp cận liên ngành. Ngôn ngữ học nhân chủng là
một ngành khoa học liên ngành ra đời trong xu thế đó. Ở nhiều nước trên thế
giới, ngôn ngữ học nhân chủng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu ở Bắc Mỹ như Mỹ, Canada và tiếp
đó là các học giả ở Anh, Úc, Pháp, Trung Quốc
Ở Việt Nam hiện nay, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào
như sách chuyên luận hay giáo trình đại học về ngôn ngữ học nhân chủng
được công bố. Vì thế, luận án này có thể được coi như là một sự cố gắng bước
đầu ứng dụng những kết quả lý luận của ngôn ngữ học nhân chủng vào việc
nghiên cứu tiếng Việt. Trong tình hình như vậy, ở chương này, chúng tôi sẽ
giới thiệu về ngôn ngữ học nhân chủng nhằm cung cấp một cái nhìn cơ bản
nhất về chuyên ngành ngôn ngữ học này phục vụ cho nhiệm vụ của luận án.
Việc giới thiệu ở đây là chỉ nhằm nêu ra những vấn đề có thể ứng dụng
cách tiếp cận của chuyên ngành ngôn ngữ học này trong nghiên cứu thành
ngữ tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi không có hy vọng làm thỏa mãn những hiểu
biết đầy đủ về ngôn ngữ học nhân chủng. Việc giới thiệu của chúng tôi một
mặt là cơ sở lý luận cho các chương tiếp theo của luận án, mặt khác trong một
chừng mực nào đó có thể góp phần vào việc phát triển lý luận về ngôn ngữ

học nhân chủng giúp ích cho việc nghiên cứu những đối tượng ngôn ngữ khác
ở Việt Nam.
6
1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học nhân chủng.
1.2.1. Việc sử dụng thuật ngữ trong luận án
Về mặt thuật ngữ, hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa việc dịch
sang tiếng Việt và sử dụng hai thuật ngữ tiếng Anh anthropological
linguistics và linguistic anthropology. Sự giống nhau giữa hai thuật ngữ này
là ở chỗ, cả hai đều dùng để gọi tên một lĩnh vực liên ngành được hình thành
từ hai ngành anthropology - “nhân học” hay “nhân chủng học” và linguistics -
“ngôn ngữ học”.
Trong các tài liệu ở Việt Nam, thuật ngữ anthropological linguistics có
thể được dịch là “ngôn ngữ học nhân học” hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng”,
hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng học” và linguistic anthropology có thể được
dịch là “nhân học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ”, “nhân chủng học
ngôn ngữ học”. Trong luận án này, chúng tôi lựa chọn cách dịch
anthropological linguistics là “ngôn ngữ học nhân chủng” và linguistic
anthropology là “nhân chủng học ngôn ngữ” với hai lý do sau đây:
(1) Chúng tôi nghĩ rằng trong một thuật ngữ khoa học không nên có hai
chữ học đồng thời có mặt. Vì vậy, cách gọi “nhân học ngôn ngữ học”, “ngôn
ngữ học nhân học”, “ngôn ngữ học nhân chủng học” khiến cho thuật ngữ bị
lặp một cách chưa hợp lý.
(2) Cách chuyển dịch “ngôn ngữ học nhân chủng” sẽ mang tính hệ
thống của thuật ngữ hơn trong mối tương quan với các chuyên ngành ngôn
ngữ học khác như “ngôn ngữ học ứng dụng”, “ngôn ngữ học xã hội”, “ngôn
ngữ học tâm lý”, “ngôn ngữ học tri nhận” v.v. Theo đó, yếu tố “ngôn ngữ
học” chỉ ra rằng đây là chuyên ngành nghiên cứu về ngôn ngữ và yếu tố
“nhân chủng” chỉ ra hướng tiếp cận ngôn ngữ từ bình diện nhân chủng.
Tương ứng với thuật ngữ tiếng Việt “ngôn ngữ học nhân chủng”, thuật ngữ
tiếng Anh linguistic anthropology được chúng tôi dịch là “nhân chủng học

7
ngôn ngữ” và ở đây được hiểu nó là chuyên ngành nhân chủng học tiếp cận từ
bình diện ngôn ngữ.
1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ học nhân chủng
Ngôn ngữ học nhân chủng là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành có
liên quan đến hai chuyên ngành độc lập là nhân chủng học và ngôn ngữ học.
Do đều là khoa học nghiên cứu về con người, bản thân nhân chủng học và
ngôn ngữ học vừa có sự đan xen lẫn nhau, vừa có sự trùng lặp về đối tượng
hay khách thể nghiên cứu, do đó vừa có tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn
nhau. Nói như vậy là vì, tư liệu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ với tư cách là
phương tiện giao tiếp và công cụ của tư duy. Đó là thứ phương tiện và công
cụ mà chỉ có con người mới có đặc quyền sở hữu với tư cách là một thành
viên của một cộng đồng xã hội gắn liền với một nền văn hóa nhất định nào
đó.
Trong khi đó, đối tượng nghiên cứu của nhân chủng học là con người,
bao gồm tất cả các đặc điểm sinh lý, các đặc điểm tâm lý, tình cảm, tư duy
v.v, tức là các hoạt động đặc trưng của con người. Trong các hoạt động đặc
trưng ấy, hoạt động ngôn ngữ được coi là đặc hoạt động phức tạp nhất và
cũng là điển hình nhất của loài động vật cao cấp này. Hơn thế nữa, ngôn ngữ
còn được xem như một tiêu chí quan trọng để xác định và phân biệt một tộc
người và đặc trưng văn hóa của tộc người đó. Cho nên, ngôn ngữ là một phần
quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu nhân chủng học.
Về mặt lịch sử, trước khi ngôn ngữ học nhân chủng ra đời, người ta
thường quen dùng thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ. Có thể nói, thuật ngữ
nhân chủng học ngôn ngữ gắn liền với nhân chủng học văn hóa - một trong
bốn lĩnh vực truyền thống của nhân chủng học, bên cạnh nhân chủng học hình
thể, khảo cổ học, dân tộc học. Trong giai đoạn đầu phát triển, nhân chủng học
ngôn ngữ được xem là một phần của nhân chủng học văn hóa. Khi đó, các
8
nhà nghiên cứu điền dã nhân chủng học trong quá trình nghiên cứu các tộc

người đã nhận thấy vai trò của ngôn ngữ là hết sức quan trọng đối với nghiên
cứu dân tộc học. Và vì vậy, ngôn ngữ được các nhà nhân chủng học quan tâm
nghiên cứu như là một ánh phản của văn hóa tộc người. Cho nên, nhân chủng
học coi ngôn ngữ, và vì thế cả ngôn ngữ học, là nền tảng của một khoa học về
con người, bởi vì nó cung cấp một sự hiểu biết về mối liên hệ giữa cấp độ
sinh học và văn hóa xã hội.
Tuy nhiên, chỉ đến khi “Một số người thấy trong phương pháp luận
ngôn ngữ học hiện đại có một mô hình hay mầm mống của một phương pháp
luận chung cho việc nghiên cứu cấu trúc hành vi của con người” (D.Hymes –
trích từ [63,143]) thì từ đó, ngôn ngữ và các hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học
không thể được xem là một bộ phận trong nhân chủng học văn hóa nữa. Bởi
vậy, thuật ngữ ngôn ngữ học nhân chủng ra đời. Nó nhằm khẳng định vai trò
của ngôn ngữ và các lý thuyết ngôn ngữ học đối với việc nghiên cứu nhân
chủng.
Các nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng nhấn mạnh vai trò quan
trọng của ngôn ngữ trong việc tạo nên nền tảng văn hóa xã hội của con người,
trong việc đồng thời góp phần tạo nên tính đa dạng và tính chỉnh thể cho các
hệ thống văn hóa xã hội đó. Do đó, ngôn ngữ học nhân chủng là hướng
nghiên cứu ngôn ngữ thông qua các yếu tố thuộc về con người, mà cụ thể là
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và tư duy, giữa ngôn
ngữ và xã hội. Nói một cách khác, ngôn ngữ học nhân chủng có thể được hiểu
như là một chuyên ngành nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ của loài người dựa
vào các dữ liệu văn hóa xã hội và xử lý những dữ liệu ấy bằng các phương
pháp của ngôn ngữ học.
Như chúng ta đều biết, những mối quan hệ vừa kể ở trên cũng là sự
quan tâm của rất nhiều phân ngành ngôn ngữ học khác như ngôn ngữ học tri
9
nhận, ngôn ngữ học tâm lý v.v và người anh em gần gũi với ngôn ngữ học
nhân chủng là ngôn ngữ học xã hội. Chính bởi vậy, ngôn ngữ học nhân chủng
dường như có phạm vi nghiên cứu bao trùm và thậm chí, nó còn có xu hướng

tích hợp nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác.
Khi nói về đối tượng nghiên cứu truyền thống của ngôn ngữ học nhân
chủng, các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ thường chỉ chú trọng đến những ngôn ngữ
không phải là ngôn ngữ phương Tây. Nói một cách khác, họ đặc biệt quan
tâm đến các ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ, nhất là các ngôn ngữ không có chữ
viết hay còn gọi là các ngôn ngữ tiền văn tự. Điều này là do ngôn ngữ học
nhân chủng ra đời bắt nguồn từ những công trình nghiên cứu ngôn ngữ thổ
dân châu Mỹ của Boas, Sapir và Whorf. Đây là những người được coi là sáng
lập ra ngành ngôn ngữ học này. Trong các công trình nghiên cứu của họ, đối
tượng nghiên cứu chính là các ngôn ngữ còn được lưu giữ trong những bộ tộc
thổ dân mà ít người biết đến.
Sau này, cùng với xu hướng phát triển rộng khắp trên nhiều nước, đối
tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng được mở rộng. Và vì vậy, nó
không còn giới hạn ở các ngôn ngữ thổ dân nữa mà là ngôn ngữ loài người
nói chung. Việc mở rộng đối tượng nghiên cứu cũng là bước phát triển về
chất của ngôn ngữ học nhân chủng.
Về mặt phương pháp, ngôn ngữ học nhân chủng kế thừa và vận dụng
các phương pháp của cả ngôn ngữ học và nhân chủng học. Các phương pháp
nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học mà ngôn ngữ học nhân chủng thường sử
dụng là phương pháp phân tích miêu tả, phương pháp so sánh - lịch sử,
phương pháp so sánh đối chiếu; còn phương pháp nghiên cứu cơ bản của
nhân chủng học hay được sử dụng là phương pháp quan sát tham dự, phương
pháp khảo tả dân tộc học. “Vốn đã là một lĩnh vực liên ngành, nó dựa vào và
mở rộng các phương pháp đã có trong các ngành khác, đặc biệt là ngôn ngữ
10
học và nhân chủng học, với mục tiêu chung là cung cấp hiểu biết dưới nhiều
phương diện phong phú về ngôn ngữ với tư cách là một tập hợp các thói quen
văn hóa, đó là, như một hệ thống giao tiếp cho phép các các nhân hay từng
cá nhân trình bày về trật tự xã hội và giúp việc giao tiếp trở thành các hành
vi xã hội cơ bản” [158,3].

Trong nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng truyền thống, bên cạnh
phương pháp khảo tả dân tộc học, các nhà nghiên cứu rất chú trọng đến
phương pháp quan sát tham dự. Bởi vì, đối tượng của ngôn ngữ học nhân
chủng là ngôn ngữ nhưng không phải là ngôn ngữ trong sự phân biệt với lời
nói mà ngôn ngữ ở đây được hiểu là bao gồm cả lời nói. Vì vậy phương pháp
quan sát các diễn ngôn tự nhiên là rất quan trọng. Điều này liên quan đến lịch
sử nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng. Chuyên ngành này ra đời bắt nguồn
từ các nghiên cứu điền dã của các nhà dân tộc học, do đó phương pháp nghiên
cứu tham dự là phương pháp cơ bản điển hình và hệ quả là tư liệu thu được
cũng là những quan sát rất tự nhiên.
Mặc dù các diễn ngôn cần được ghi lại một cách càng tự nhiên càng tốt,
nhưng không hẳn chỉ là các diễn ngôn bất kỳ không được chọn lọc. Các nhà
nghiên cứu đã “chỉ trích việc sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ như là các “dữ
liệu thô” của các nhà nhân chủng học văn hóa” [157,67]. Bởi vậy, họ đặc
biệt tin tưởng vào các “văn bản” – có nghĩa là các diễn ngôn đã được ghi chép
lại. Điều này cho phép loại trừ các yếu tố nhiễu không mang lại kết quả
nghiên cứu như mong đợi. Cụ thể hơn nữa, hầu hết các học giả trong lĩnh vực
này đều thấy rằng tư liệu căn bản của họ có thể được tìm thấy trong ngôn ngữ
được thu nhận từ quá trình quan sát các ngữ cảnh tự nhiên, trong những cuộc
phỏng vấn tương đối tự do và cả trong các thí nghiệm. Mối quan tâm của họ
là “các cách nói” được quan sát như vậy có thể tiết lộ điều gì về biểu hiện
kiến thức văn hóa trong nhiều lĩnh vực của một cộng đồng; sau đó những biểu
11
hiện ấy được tổ chức như thế nào, chúng được triển khai và tái tạo lại ra sao
và cái gì là cái có thể giới hạn cho sự đa dạng văn hóa ở một cộng đồng. Tính
chất quan sát tự nhiên nhưng được “lựa chọn” là như vậy.
1.2.3. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng
Trong cuốn “Bách khoa thư quốc tế về ngôn ngữ học” [157,65], tác giả
Jane.H.Hill cho rằng mối quan tâm chính của các nhà ngôn ngữ học nhân
chủng là “nhấn mạnh vào nghiên cứu cuộc thoại tự nhiên, và cùng công nhận

tầm quan trọng của sự đa dạng liên văn hóa trong các chức năng của ngôn
ngữ. Họ cũng được liên kết lại với nhau qua việc khẳng định rằng ngôn ngữ
gắn chặt với văn hóa và xã hội loài người, và ở mức độ cao là tạo thành nên
văn hóa và xã hội loài người”. Qua phát biểu trên, có thể nói một cách khái
quát rằng, nội dung chính của ngôn ngữ học nhân chủng là nghiên cứu mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội.
1.2.3.1. Đôi nét về lịch sử vấn đề
Trên thực tế, ngôn ngữ học nhân chủng đã trải qua một quá trình “dao
động” trước khi xác định được cho mình những nội dung nghiên cứu đặc thù
ấy. Để xác định được nội dung nghiên cứu nói trên, ngôn ngữ học nhân chủng
đã phải cùng các ngành khác trải qua một tiến trình nhận thức về mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Chúng tôi tạm thời phân
chia tiến trình nhận thức ấy thành các giai đoạn như sau.
(1) Trước hết, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đã là đề tài truyền
thống được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, bản thân ngôn ngữ,
văn hóa và xã hội đều là những sản phẩm cơ bản mang tính đặc trưng chỉ có ở
loài người. Có thể nhận thấy rằng trong thực tế luôn tồn tại một mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. “Là một thành tố của
nền văn hóa tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ
là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt
12
động của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những
thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa nào” [139,21]. Rõ ràng, tư
cách là những yếu tố trong cùng một hệ thống đã nói rõ mối quan hệ giữa
ngôn ngữ, văn hóa và xã hội.
(2) Mặc dù ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ tương cận rõ ràng như
vậy, song việc nhìn nhận và xem xét nó như một vấn đề nghiên cứu cụ thể thì
phải đến đầu thế kỷ XIX mới được nêu lên. Chính vì vậy, khi bàn về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, những tư tưởng
của Humboldt có thể coi là những đóng góp đầu tiên. Ông cho rằng về

phương diện xã hội, mỗi ngôn ngữ phản ánh những cách tư duy của dân tộc
sử dụng nó, đồng thời nó cũng tác động đến tư duy đó. Ngôn ngữ là công cụ
tổ chức và hướng dẫn thế giới quan của người nói. Không những chỉ ra sự tồn
tại của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy như thế, Humboldt còn nhấn
mạnh rằng “ngôn ngữ và tư duy của một dân tộc không tách rời nhau… Ngôn
ngữ và tư duy dựa vào nhau không thể phân tách. Vì thế sự khác nhau giữa
các ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt trong cách lý giải hay giải thích về thế
giới khách quan…những người không nói những ngôn ngữ giống nhau sống
ở những địa bàn khác nhau sẽ có hệ thống tư duy khác nhau” [112,97-98].
Quan điểm này sau đó đã ảnh hưởng nhiều đối với giả thuyết về tính tương
đối của ngôn ngữ mà Sapir và Whorf chủ trương.
Cùng với Humboldt, các nhà tư tưởng thuộc trào lưu triết học Khai
sáng Đức như Immanuent Kant, Johann Gottfried Heider v.v (cũng có thể coi
họ như là những người đầu tiên đề cập đến vấn đề ngôn ngữ gắn chặt với tư
duy) đã có một quan niệm tương tự như vậy. Trong số đó, Heider cho rằng
ngôn ngữ là tài sản riêng biệt của một dân tộc sản sinh ra nó. Người ta nói
rằng với quan niệm đó, ông là người gieo mầm cho tư tưởng hoàn chỉnh của
13
Humboldt. Như vậy, tư tưởng được coi là chủ đạo tuy là do Humboldt phát
biểu nhung thực chất là bắt nguồn từ trào lưu triết học Khai sáng Đức.
Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ
và xã hội, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những thông tin mang tính gợi
mở. Trong cuốn “Bách khoa thư quốc tế về ngôn ngữ học” [157], tác giả
Jane.H.Hill cho rằng việc xác định “ông tổ” của lĩnh vực đa dạng này rất phức
tạp. Nó có thể bao gồm cả các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa chức năng của
trường phái Praha, theo chủ nghĩa cấu trúc Mỹ “Bloomfield mới”, các nhà
nghiên cứu thổ ngữ học và tâm lý học xã hội. Nhưng thông qua việc xác định
này, người ta sẽ hiểu rõ hơn mối quan hệ như là nội dung nghiên cứu của
ngôn ngữ học nhân chủng.
Cũng có thể kể ra một số công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu

Anh như các công trình của Malinowski về chức năng các ngôn ngữ “nguyên
thủy”, nghiên cứu của Bloch về các bài diễn thuyết chính trị trong các xã hội
truyền thống, nghiên cứu xuyên văn hóa của Goody về ảnh hưởng của kỹ
năng đọc viết.
Ở Pháp, người ta có thể kể đến công trình của Claude Lévi Strauss về
phân tích cấu trúc huyền thoại, các nghiên cứu về ngôn ngữ Dogon ở Tây Phi
của Calame –Griaule, nhân chủng học tri nhận của Sperber. Bên cạnh đó, có
thể coi lý thuyết xã hội của các học giả Pháp ít nhiều có liên quan đến nội
dung này, ví dụ như đề xuất của Pierre Bourdieu rằng các dạng thức ngôn ngữ
có thể tạo thành một dạng “vốn ký hiệu” hay như quan niệm của Michel
Foucault về các giới hạn diễn đạt được tạo thành thống qua những dạng thức
cấu tạo được gọi là “trật tự diễn ngôn” [157,65].
Ngoài ra, người được coi là cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại
Ferdinand de Saussure cũng đã có những đóng góp to lớn cho ngôn ngữ học
hậu cấu trúc, trong đó có ngôn ngữ học nhân chủng. F. Saussure đã khá cực
14
đoan khi quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống siêu hình đóng kín, bao gồm
các quan hệ thuần tuý phi vật chất. Thế nhưng, trong đó, ông vẫn thể hiện ra
những tư tưởng gieo mầm cho một hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học mới khi
ông “thừa nhận: "Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và
mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân
tộc" [107,47]. Cuốn sách “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” cũng đã thể
hiện những ý kiến của ông về vai trò của "ngôn ngữ học ngoại tại" và về tầm
quan trọng của "tài liệu ngôn ngữ đối với nhân loại học và tiền sử học”.
1.2.3.2. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng
Mặc dù có nhiều học giả quan tâm như vậy, nhưng phải nhờ đến những
cống hiến của Boas và các học trò của ông là Sapir và Whorf, việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa mới thực sự bắt đầu. Và chính họ đã
tạo ra một trường phái trong ngôn ngữ học có tên gọi là “Trường phái tương
đối ngôn ngữ học” với “Nguyên lý tương đối ngôn ngữ học” hay còn gọi là

“Giả thuyết Sapir-Whorf”. Khi nói về giả thuyết này, cần phải điểm qua ba
tên tuổi sau.
(1) Franz Boas (1858-1942). Tất cả các tài liệu ngôn ngữ học nhân
chủng đều thừa nhận rằng, ông được xem là người có công đặt nền móng cho
sự ra đời của nhân chủng học nói chung và ngôn ngữ học nhân chủng nói
riêng. Khác với các nhà nghiên cứu châu Âu đương thời, Boas tập trung
nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau. Các kết
quả nghiên cứu điền dã ngôn ngữ đã giúp ông nhận ra rằng có một sự khác
biệt rất lớn trong văn hóa và các phạm trù của đời sống phản ánh trong văn
hóa của họ. Từ đó, ông đã rút ra nhận xét rằng, người ta không thể thực sự
hiểu một nền văn hóa nếu không tiếp cận trực tiếp với ngôn ngữ của nền văn
hóa ấy. Và vì thế, thực sự cần thiết phải có những nghiên cứu ngôn ngữ học
và đó không chỉ là một yêu cầu mang tính lý thuyết mà còn là một yêu cầu
thực tế bởi chính mối liên hệ gần gũi giữa văn hóa và ngôn ngữ.
15
(2) Edward Sapir (1884-1939). Những đóng góp của Sapir không chỉ là
về các ngôn ngữ của thổ dân da đỏ châu Mỹ mà là đối với cả nghiên cứu ngôn
ngữ nói chung. Darnell cho rằng Sapir có thể được coi như là học giả nổi
tiếng nhất của ngôn ngữ học nhân chủng [158]. Theo đó, Sapir là người kế
thừa và mở rộng nghiên cứu của Boas. Chính ông dành nhiều sự chú ý đối với
cấu trúc ngôn ngữ và nhấn mạnh cách mỗi ngôn ngữ tự mình trở thành một hệ
thống hoàn chỉnh và hoàn hảo mà nếu muốn hiểu được nó phải sử dụng chính
những “thuật ngữ” của nó. Nói một cách khác, cái mà ông đi tìm chính là
lôgic nội tại của ngôn ngữ.
(3) Benjamin Lee Whorf (1897-1941). Đóng góp nổi tiếng nhất của ông
đối với lý thuyết ngôn ngữ học là chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa
- tư duy và quan điểm nhìn nhận thế giới (worldview). “Đối với Sapir, mối
quan hệ giữa tư duy, văn hóa và ngôn ngữ chỉ là một trong những quan tâm
của ông. Nhưng đối với Whorf thì đó là tất cả sự nghiệp ngôn ngữ học của
ông. Ông không những làm nổi rõ những tư tưởng của Sapir về cả mặt nội

dung cũng như về cả phương diện các ngữ liệu cụ thể minh họa, mà hơn nữa
ông còn phát triển chúng thành một hệ quan điểm học thuật độc đáo, và điều
chủ yếu nhất là những kết luận hết sức lôgic được rút ra từ đó” [115,25].
Luận điểm xuất phát của Whorf đã nêu ra vấn đề mối quan hệ tương đối giữa
ngôn ngữ - tư duy - văn hóa, và chính mối quan hệ này cũng là mối quan tâm
của ngôn ngữ học nhân chủng sau này. Bởi vậy, người ta mới nói rằng, giả
thuyết Sapir - Whorf chính là nền tảng căn bản để xây dựng lý thuyết ngôn
ngữ học nhân chủng.
Nội dung chính của giả thuyết Sapir - Whorf được phản ánh qua trích
dẫn quan trọng sau đây: “Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới
khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt
động xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn
16
ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hội của họ. Sẽ chỉ là ảo
tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không
cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện
thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự
thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được hình thành một
cách vô thức trên nền những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng. Chúng ta
nghe, thấy, hay nói cách khác là trải nghiệm như thế chủ yếu là do những
thói quen ngôn ngữ của cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa
chọn như thế” [Edward Sapir – trích từ [63,11].
Tư tưởng trên của Sapir được B.Whorf phát triển thêm trong bài viết
“Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ trong ngôn ngữ (The Relation
of Habitual Thought and Behavior to Language)”. Bài viết của ông bao gồm
hàng loạt các ví dụ để trả lời cho các câu hỏi chẳng hạn như tên gọi tình
huống ảnh hưởng đến hành vi như thế nào, hay các mô hình ngữ pháp trong
vai trò lý giải kinh nghiệm ra sao, và đặc biệt trong bài viết có rất nhiều ví dụ
từ các ngôn ngữ Sae và Hopi như: số nhiều và phạm trù số đếm, danh từ chỉ
số lượng vật thể, các giai đoạn của chu kỳ, hình thức diễn đạt của động từ v.v.

Tư tưởng của Whorf phản ánh đầy đủ và có thể nói là đậm đặc thông
qua các ví dụ. Song, do cách viết của ông không hề đơn giản và dễ hiểu, nên
rất khó tìm được một trích dẫn tiêu biểu. Nhưng dù vậy, bất kỳ ai đọc bài báo
của ông cũng đều nhận thấy rằng, điều mà Whorf muốn nói là ngôn ngữ có
ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của người sử dụng nó. Mỗi một người nói một
thứ ngôn ngữ khác nhau sẽ có những thói quen suy nghĩ khác nhau, hay ngôn
ngữ sẽ quyết định cách tư duy của người nói thứ ngôn ngữ đó. Vậy là “Ngôn
ngữ được phú cho một quyền năng thực bao trùm tuyệt đối: nó xác lập các
tập quán (chuẩn mực) của tư duy và của hành vi, nó chi phối sự hình thành
các phạm trù lô gíc, nó kèm cặp và dẫn dắt con người trong mọi hoạt động xã
17
hội và cá nhân…Các quá trình tư duy khái niệm luôn luôn diễn ra trong hình
thức ngôn ngữ, vậy mà các cấu trúc ngôn ngữ thì khác nhau, cho nên điều
này tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ là tạo ra ở những người nói các ngôn ngữ khác
nhau những chuẩn mực tư duy khác nhau” [115,26].
Chính bởi khẳng định vai trò tuyệt đối của ngôn ngữ trong việc quyết
định sự hình thành tư duy của mỗi một cộng đồng mà giả thuyết Sapir -
Whorf còn được gọi là “Giả thuyết về tính tương đối của ngôn ngữ” hay
“Ngôn ngữ quyết định luận”. Cách nhìn nhận như vậy đã mang lại một bước
tiến mới đối với nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa
ngôn ngữ và xã hội. Trước đấy, người ta chỉ nhận thấy giữa ngôn ngữ, văn
hóa và tư duy có quan hệ với nhau. Giả thuyết Sapir Whorf đã tiến thêm một
bước là chỉ ra sự tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ ấy.
Bước sang nửa cuối của thế kỷ XX, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội mới dành được sự quan tâm đặc biệt. Người ta
gọi đó là cuộc “Cách mạng ngôn ngữ học nửa sau thế kỷ XX” [25]. Sở dĩ
được gọi là cuộc cách mạng là vì có sự đổi mới trong nghiên cứu ngôn ngữ,
mà cụ thể là là do việc đổi mới trong quan niệm về ngôn ngữ. Thời kỳ này, sự
đa dạng của ngôn ngữ vốn bị các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thuần túy như
Saussure gạt ra khỏi đối tượng nghiên cứu của mình thì nay lại trở thành mối

quan tâm chính của ngôn ngữ học. Trong cuộc Cách mạng cuối thế kỷ XX đó,
có các công trình nổi tiếng. Ví dụ như công trình của Micheal Silverstein lý
giải cách thức ngôn ngữ liên hệ với văn hóa. Hay như nghiên cứu của Erving
Goffman về việc sử dụng ngôn từ để diễn tả thể diện (face). Hoặc như nghiên
cứu của Gumperz về ứng xử ngôn từ trong các cộng đồng giao tiếp v.v.
Vào thời điểm này, giả thuyết Sapir - Whorf không phải được tất cả các
nhà ngôn ngữ học công nhận và tán đồng. Nhiều công trình đã được tiến hành
nhằm kiểm chứng lại giả thuyết của hai ông và cho đến nay, dường như cuộc
tranh luận vẫn chưa ngã ngũ.
18
Công trình mang tính thực nghiệm của John Lucy trên cứ liệu tiếng
Anh và tiếng Yucatec Maya ở Mexico nhằm làm sáng tỏ quan điểm thường bị
hiểu nhầm của Whorf. Theo Lucy, “Whorf không cho là ngôn ngữ quyết định
nhận thức và văn hóa, Whorf chỉ cho là: cách nghĩ và cách nhìn nhận thế
giới theo thói quen của người nói một thứ ngôn ngữ nhất định nào đó dẫn họ
đến cách phân loại các sự việc, hiện tượng trên thế giới theo những kiểu nhất
định. Do đó, người nghiên cứu cần học các cách nhận thức cơ bản về thế giới
khách quan của một dân tộc nếu muốn hiểu đúng về dân tộc đó” [25,198].
Ngoài ra, còn có thể kể ra các công trình đã được tiến hành nhằm kiểm
chứng giả thiết này như: Nghiên cứu mối tương quan giữa từ chỉ màu sắc và
khả năng ghi nhớ và phân loại màu của người nói trên cứ liệu tiếng Anh và
tiếng Zuni của Lenneberg và Robert; nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự tri
nhận màu sắc của con người và ngôn ngữ của Berlin và Kay trên cứ liệu 20
ngôn ngữ khác nhau, của Kay và Kempton trên cứ liệu tiến Anh và tiếng
Tarahumara; nghiên cứu về mối tương quan giữa cấu trúc câu giả định và sự
tri nhận tính chân ngụy của câu giả định trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Hán
của Bloom; … [131,41-43]. Đặc biệt, sự tham gia của các nhà ngôn ngữ học
tri nhận như Lakoff hay ngôn ngữ học tạo sinh như Chomsky trong việc kiểm
chứng giả thuyết Sapir – Whorf càng chứng tỏ ảnh hưởng của giả thuyết này
đối với ngôn ngữ học đương đại.

Nhắc đến cuộc cách mạng ngôn ngữ học đó, hầu hết các tài liệu đều
nói đến bước tiến lý thuyết quan trọng là Khảo tả dân tộc học lời nói (The
ethnography of speaking) do Dell H. Hymes đề xuất, và sau đó là John
Gumperz và các học trò của ông tiếp nối. Các nhà nghiên cứu theo hướng
này chú trọng việc quan sát tham dự các diễn ngôn diễn ra tự nhiên trong
ngữ cảnh văn hóa để từ đó đánh giá năng lực giao tiếp, kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ. Theo họ, các kỹ năng ấy không đơn thuần là các tri thức ngữ
19
pháp trừu tượng của người nói, mà nó phản ánh trật tự xã hội của cộng
đồng sở hữu ngôn ngữ đó.
Trong bài viết Khảo tả dân tộc học (1968), Dell H. Hymes mở đầu
bằng việc nhấn mạnh vai trò của lời nói trong hành vi của con người. Theo
ông, vai trò quan trọng của lời nói trong quá trình tri nhận và biểu cảm phụ
thuộc vào cá nhân và nhóm xã hội gắn liền với những cảnh huống cụ thể bản
địa, hay ông gọi nó là bối cảnh dân tộc học của lời nói. Về mặt phương pháp,
phương pháp khảo tả dân tộc học lời nói là một mô hình phân tích miêu tả lời
nói bao gồm việc xem xét sự kiện lời nói, các nhân tố cấu thành của sự kiện
lời nói và các chức năng của lời nói và sau đó cả ba được đặt trong khung
phân tích khảo tả dân tộc học lời nói nhằm gắn các tri thức trừu tượng của
ngôn ngữ vào các tri thức về văn hóa. Có thể nói, “nếu các bậc tiền bối coi
ngôn ngữ và văn hóa của một cộng đồng xã hội là những thực thể tương đối
thuần nhất được các thành viên trong cộng đồng chia sẻ thì các nhà nhân học
ngôn ngữ
1
thế hệ “cách mạng ngôn ngữ học” lại quan tâm nhiều hơn đến sự
đa dạng của các thành tố của sự kiện ngôn từ trong các bối cảnh giao tiếp cụ
thể, tức là ứng xử ngôn từ của những con người mang các đặc tính văn hóa
xã hội nhất định trong các hoàn cảnh nói năng cụ thể” [25,200]. Từ đó mối
quan hệ giữa những người giao tiếp với nhau cũng như mối quan hệ giữa họ
với các thành tố khác của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ trở thành mối quan

tâm của các nhà ngôn ngữ học nhân chủng. Chính vì lẽ đó, khi xác định đối
tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng, người ta nói rằng, không chỉ
ngôn ngữ mà người nói cũng là đối tượng cần được nghiên cứu. Hymes đã
đóng góp nhiều khái niệm quan trọng như cộng đồng nói năng, sự kiện lời
nói, hành động ngôn từ v.v cho ngôn ngữ học nhân chủng.
1
Tức “Ngôn ngữ học nhân chủng” theo cách dịch của chúng tôi
20
Như vậy, từ nhận thức giản đơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội bắt nguồn từ những tư tưởng mang tính hàn lâm
của các nhà triết học Đức thế kỷ XIX, tiếp đến những tư tưởng mang tính gợi
mở của Boaz rồi đến Sapir và Whorf, trải qua gần một thế kỷ, đến nay giới
nghiên cứu đã có những bước đi đáng kể trong nghiên cứu mối quan hệ phức
tạp này.
Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học
nhân chủng, như vậy, không phải chỉ đề cập đơn thuần đến mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội mà nó còn là việc xem
xét cách gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố ngôn ngữ, văn hóa và xã hội
trong mối liên hệ ấy. Có thể nói, việc chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng như việc đồng thời chỉ ra
cách thức gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố đó chính là nhiệm vụ hay
nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng hiện nay.
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học nhân chủng và một số chuyên
ngành ngôn ngữ học khác
Ngôn ngữ học nhân chủng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chuyên
ngành ngôn ngữ học khác. Nói một cách chính xác hơn là nó kế thừa rất nhiều
những khái niệm, thuật ngữ, kết quả nghiên cứu, thậm chí cả một số nội dung
nghiên cứu của các chuyên ngành khác theo cách riêng của mình. Đồng thời,
do là một phân ngành ngôn ngữ học, nó cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chung của ngôn ngữ học như những phân ngành khác.

Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng quan tâm đến
các diễn ngôn diễn ra trong bối cảnh tự nhiên, nên phân tích diễn ngôn và các
vấn đề liên quan đến phân tích diễn ngôn cũng nằm trong mối quan tâm của
họ. Ngoài ra họ còn quan tâm đến các vấn đề liên quan đến giao tiếp, hội
thoại như phân tích hội thoại, chiến lược giao tiếp, chiến lược diễn ngôn. Hay
21
như những vấn đề ngữ dụng như lý thuyết hành động ngôn từ, hàm ngôn hàm
ý.v.v. và những vấn đề liên quan đến loại hình học như phổ niệm cũng được
các nhà nghiên này chú ý đến.
Là một phân ngành mới nằm trong sự giao thoa giữa những phân ngành
đã xuất hiện trước, ngôn ngữ học nhân chủng vì thế không tránh khỏi có
những cái chung với những phân ngành gần gũi với nó. Tuy nhiên, nhìn một
cách tổng thể, người ta vẫn nhận ra sự khác biệt giữa nó với hai chuyên ngành
có mối quan hệ trực tiếp hơn cả là ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học tri
nhận. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt những nét giúp chúng ta nhận
ra sự khác biệt ấy.
1.2.4.1. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội
Ngôn ngữ học nhân chủng, như đã nói ở trên, quan tâm đến mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng như đồng
thời quan tâm đến việc chỉ ra cách thức gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố
đó. Do vậy, nó có đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ dưới và trong tác động
của các nhân tố mang tính con người là văn hóa và xã hội. Trong khi đó, ngôn
ngữ học xã hội mặc dù cũng xem xét các hiện tượng ngôn ngữ dưới tác động
của các nhân tố xã hội, nhưng là xem xét và xử lý các vấn đề ngôn ngữ được
sử dụng ở từng bối cảnh cụ thể. Cho nên, giữa chúng vẫn có những điểm,
những sự khác biệt tương đối để khu biệt thành hai chuyên ngành độc lập.
Về thời điểm, mặc dầu vào đầu thế kỷ XX Boas và các đồng nghiệp -
những người đặt nền móng cho nhân chủng học - đã chính thức xuất hiện
nhưng phải đến những năm 1980, cùng với sự hình thành độc lập hệ thuật ngữ
riêng cho ngôn ngữ học nhân chủng thì chuyên ngành này mới có một chỗ

đứng riêng cho mình ở Bắc Mỹ. Trong khi đó, vào cuối những năm 50, 60 của
thế kỷ XX, hệ thuật ngữ của ngôn ngữ học xã hội đã xuất hiện một cách chính
thức [67,9].
22
Mặt khác, người ta cũng đã từng cố gắng kết hợp ngôn ngữ học nhân
chủng và ngôn ngữ học xã hội lại với nhau. Mà ở đây phải kể đến những nỗ
lực của Gumperz và Hymes (1964) trong việc xác định một lĩnh vực liên
ngành xung quanh vấn đề sử dụng ngôn ngữ như là đối tượng nghiên cứu
[158,13]. Nhưng những cố gắng ấy vẫn chưa thành.
Trong khi đó thực tế các nhà ngôn ngữ học xã hội thì đã, đang và sẽ
tiếp tục nghiên cứu với các vấn đề mang tính đặc trưng như: sự lựa chọn ngôn
ngữ của cộng đồng, sự thay đổi ngôn ngữ dưới tác động của các nhân tố xã
hội, các ngôn ngữ lai tạp pidgin và creole, hay là kế hoạch hóa ngôn ngữ,
chính sách ngôn ngữ, lập pháp ngôn ngữ v.v. Còn những vấn đề như ngôn
ngữ và giới, hành động nói năng, diễn ngôn tự nhiên v.v thì đã, đang và sẽ là
đối tượng của ngôn ngữ học nhân chủng. Như thế, xét ở mặt lĩnh vực ngôn
ngữ là đối tượng nghiên cứu của mỗi phân ngành, chúng có những khác nhau
nhất định.
Tuy vậy, vẫn có những vấn đề và phạm vi nghiên cứu giữa chúng giống
nhau khiến cho ngôn ngữ học nhân chủng đôi khi có thể bị hiểu nhầm là
trùng với đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Nhưng thực tế là tuy
cùng đối tượng nhưng mục tiêu của hai phân ngành này có sự phân biệt nhất
định. Theo đó, ngôn ngữ học nhân chủng xem xét ngôn ngữ thông qua các
đặc điểm văn hóa - xã hôi của cộng đồng, giải thích ngôn ngữ để từ đó làm
sáng tỏ những đặc điểm văn hóa - xã hội đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ,
đằng sau những dạng thức của từ ngữ hay phong cách khác nhau. Đó chính là
một phân ngành lột bỏ lớp vỏ bên ngoài của một ngôn ngữ để tìm ra những
hiểu biết về văn hóa - xã hội ở cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.
Ngôn ngữ học xã hội, ngược lại, xem xét ngôn ngữ với tư cách là một
thể chế xã hội, một trong những thể chế mà trong đó các cá nhân và các nhóm

người thực hiện sự tương tác xã hội. Ngôn ngữ học xã hội tìm cách lý giải các
23
mô hình hành vi ngôn ngữ tương ứng với việc tạo thành các nhóm xã hội và
tạo tương quan giữa những sự khác biệt về hành vi ngôn ngữ với những biến
thể xác định của các nhóm xã hội. Đó chẳng hạn như là vấn đề tuổi tác, giới
tính, giai cấp, chủng tộc, trình độ học vấn v.v. Có thể dẫn ra một ví dụ của
Foley để làm rõ hơn về sự phân biệt này. Trong tiếng Anh running có thể có
hai cách phát âm [r ning] hoặc là [r nin] mà theo cách nói thông thường thì -g
đã bị bỏ đi. Tiếp cận những biến thể này từ góc độ ngôn ngữ học xã hội người
ta sẽ hướng đến mối liên hệ giữa mỗi cách phát âm và các nhóm xã hội nhất
định. Ví dụ đàn ông thì thường dùng biến thể [in] trong khi đó phụ nữ thì
dùng biến thể [ing] nhiều hơn. Hoặc có sự so sánh tương tự giữa những nhóm
người có địa vị cao và địa vị thấp trong xã hội hay giữa những nhóm có học
thức và nhóm có học vấn thấp trong xã hội. Nói một cách khác, mục tiêu của
phân ngành này là chỉ ra sự tương ứng giữa hiện tượng ngôn ngữ với một
vấn đề xã hội cụ thể nào đó. Đây có lẽ chính là cách tiếp cận điển hình của
ngôn ngữ học xã hội.
Đối với ngôn ngữ học nhân chủng, trong khi chú ý đến tất cả những so
sánh kể trên, các nhà nghiên cứu sẽ đặt ra một câu hỏi mang tính khác biệt
hay căn bản hơn: Liệu những người nói có ngụ ý gì khi họ sử dụng biến thể
[in] đối lập với [ing]?. Câu trả lời có thể là: đàn ông và tầng lớp lao động sử
dụng biến thể [in] nhiều hơn như là một cách để khẳng định bản sắc nam giới
mạnh mẽ của mình chẳng hạn [160,4]. Sự khác biệt ở đây là một bên - ngôn
ngữ học xã hội - có thể đã thỏa khi chỉ ra mối liên hệ, còn bên kia - ngôn ngữ
học nhân chủng - chỉ thực sự thỏa mãn khi chỉ ra được “nguyên do” của mối
liên hệ ấy. Rõ ràng, đối tượng là như nhau nhưng mục tiêu là khác nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng, ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học
xã hội là hai cách tiếp cận đối tượng ngôn ngữ nhằm vào hai mục đích khác
nhau. Ngôn ngữ học nhân chủng hướng đến việc phản ánh thế giới khách
24

quan bao gồm các đặc trưng văn hóa xã hội đã tác động đến ngôn ngữ, trong
khi ngôn ngữ học xã hội chú trọng các tương tác xã hội đã tác động để tạo ra
những biến thể ngôn ngữ và việc lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ.
Tóm lại, giữa ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội tuy có
một vài phạm vi nghiên cứu là chung nhau nhưng với việc khác biệt về thời
điểm ra đời, đặc biệt là sự khác biệt về mục tiêu giải thích hay cách tiếp cận
vấn đề, chúng rõ ràng phải được coi là những phân ngành độc lập của ngôn
ngữ học.
1.2.4.2. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XX ở Mỹ.
Theo như Trần Văn Cơ “Lý thuyết này nghiên cứu cơ chế hiểu lời nói và quá
trình của lời nói: con người nắm bắt được ngôn ngữ như thế nào, quá trình
điều chỉnh sự tri nhận lời nói như thế nào, một nội dung khái niệm, một hiện
tượng được từ ngữ hóa, ngữ pháp hóa ra sao” [14,24]. Nói khác đi, ngôn ngữ
học tri nhận tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ
của một cộng đồng.
Trong khi đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng cũng là
ngôn ngữ của con người, nhưng là ngôn ngữ xét trong bối cảnh văn hóa - xã
hội của một cộng đồng dân tộc thì đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri
nhận là ngôn ngữ tự nhiên của con người trong mối quan hệ với tư duy con
người, tức là nó thực hiện chức năng làm công cụ của tư duy của con người
như thế nào. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của cả hai đều là ngôn ngữ, và
đương nhiên ngôn ngữ gắn liền với nhận thức của con người.
Điểm khác biệt là ở chỗ, trong khi ngôn ngữ học nhân chủng nhấn
mạnh đến việc xem xét tác động của bối cảnh văn hóa xã hội của quá trình
nhận thức thì ngôn ngữ học tri nhận nhấn mạnh bản thân quá trình nhận thức
và chức năng là công cụ của quá trình nhận thức. Nói một cách đơn giản hơn,
ngôn ngữ học tri nhận coi đối tượng nghiên cứu của mình (tức ngôn ngữ) là
25

×