Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN ĐỊA LÝ 8_ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY MÔN ĐỊA LÍ 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.22 KB, 26 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN HOÀNG MAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY MÔN ĐỊA LÍ 8
TIẾT 14 – BÀI 12: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KHU VỰC ĐÔNG Á
Ở TRƯỜNG THCS
Môn: Địa lí
NĂM HỌC 2014 – 2015

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Việt Nam đang trên con đường hội nhập và phát triển, phấn đấu đến năm
2020 trở thành một nước công nghiệp mà con người là nhân tố quyết định. Để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá cần giáo dục thế hệ
trẻ trở thành những con người “Năng động - Sáng tạo – Có năng lực giải quyết
vấn đề”, những con người tự tin, có trách nhiệm, có những hành động phù hợp
với giá trị nhân văn và công bằng xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế tri thức đòi hỏi việc nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng và phù hợp với xu thế
hội nhập toàn cầu thì đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới chương trình cũng như
phương pháp dạy học mới. Phương pháp dạy học mới này được hiểu là: Học sinh tự
học, tự hiểu, tự rèn kĩ năng nhiều để từ đó có thể phát triển tư suy nhưng phải nhờ vào
sự hướng dẫn của giáo viên. “ Dạy học phải lấy học sinh làm trung tâm”, giáo
viên chỉ là người tổ chức, định hướng và điều khiển giúp học sinh tự tìm ra tri
thức; phải tích cực hoá các hoạt động của học sinh, khơi dậy trong các em tính
khao khát, tìm tòi, nghiên cứu, cố gắng phát huy trí tuệ và nghị lực cao trong
quá trình nắm vững kiến thức.
Trên thực tế hiện nay, toàn ngành giáo dục nói chung và dạy học Địa lí
nói riêng đã và đang nổ lực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh để thực hiện sứ mệnh
chung đó. NQ TW 2 khoá 8 tiếp tục khẳng định “Phải đổi mới phương pháp
giáo dục và đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp


tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp hiện
đại vào quá trình dạy học”.
Môn Địa lí cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về môi trường địa
lí, các hiện tượng địa lí xảy ra trên bề mặt Trái Đất và các hoạt động của con người ở
trên Trái Đất; góp phần hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục tư
tưởng, tình cảm đúng đắn, giúp cho học sinh bước đầu vận dụng những kiến thức địa
lí để ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội xung quanh, với yêu cầu của
đất nước và xu thế thời đại mới.
Các em học sinh được làm quen với những kiến thức Địa lí từ rất sớm, ở
bậc Tiểu học đó là bộ môn Khoa- Sử - Địa nhưng phải lên lớp 6 mới được tách
ra thành một bộ môn riêng: Môn địa lí. Thực tế hiện nay cũng cho thấy không ít
học sinh xem Địa lí là một môn học phụ nên học cho qua loa lấy lệ, chưa thạo kĩ
năng Địa lí, đặc biệt là các em học sinh lớp 6.
Trong những năm gần đây, việc đổi mới chương trình SGK được thực
2/25

hiện đồng bộ. Việc đổi mới nội dung, chương trình khi thay SGK đòi hỏi người
giáo viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp nhằm đáp ứng được
yêu cầu đổi mới đồng thời tạo niềm yêu thích, say mê, hứng thú môn học đối với
học sinh. Và một trong những công cụ hiệu quả cung cấp cho giáo viên phương
tiện làm việc hiện đại đó là công nghệ thông tin. Hiện nay, việc ứng dụng CNTT
vào dạy học đã trở nên rất phổ biến, đại trà. Và một trong những môn học thích
hợp nhất với việc dùng bài giảng điện tử đó chính là môn Địa lí. Việc dùng
những hình ảnh, băng hình chiếu lên màn hình chính là kênh hình trực quan,
sinh động nhất, đánh mạnh vào sự chú ý của các em học sinh, giúp học sinh tiếp
thu bài một cách nhanh chóng và thực sự hiệu quả. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã
yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp
học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”
Ở trường THCS Lĩnh Nam, những năm gần đây, nhà trường đã đầu tư

mua sắm máy chiếu, máy vi tính, bố trí cho giáo viên học ứng dụng phần mềm
power point, violet, E-learning … vào soạn giảng. Đặc biệt, các giáo viên trẻ
còn chủ động tự trang bị cho mình máy tính xách tay. Vì vậy việc ứng dụng
CNTT vào dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng đã được thực hiện từ
vài năm nay. Trong quá trình dạy, tôi nhận thấy mỗi khi dùng bài giảng điện tử
thì các em vô cùng hứng thú, hoạt động sôi nổi, tiếp thu bài tốt, nhất là với môn
địa lí vốn là môn học khô khan thì bây giờ các em đã có niềm đam mê với môn
này. Vì thế việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Địa lí là rất cần thiết để nâng
cao chất lượng học tập bộ môn.Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy
môn Địa lí ở trường THCS Lĩnh Nam chưa mang lại hiệu quả cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới dạy và học hiện nay. Vì vậy, tôi tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“ ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Địa lí 8: Tiết 14 – Bài 12:
Đặc điểm tự nhiên khu vực Đông Á ở trường THCS”. Đây là bài giảng tôi đã
tham gia Hội thi giáo viên giỏi Quận Hoàng Mai năm học 2014-2015 và đã được
xếp loại giỏi nên tôi mạnh dạn viết lại những công việc tôi đã làm để trao đổi
với bạn bè đồng nghiệp.
II. Mục đích nghiên cứu :
3/25

Ứng dụng CNTT vào dạy học môn Địa lí, đặc biệt là Địa lí 9 nhằm nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn; tạo niềm hứng thú, say mê môn học cho học
sinh.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đưa CNTT vào giảng dạy Tiết 14 – Bài 12: Đặc điểm tự nhiên khu vực
Đông Á làm tăng hứng thú học tập, giờ học thêm sinh động, khắc sâu kiến thức
giúp các em học sinh hiểu bài nhanh và nhớ lâu.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Về lí luận: Nghiên cứu một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở
trường THCS , tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS, SGK,
SGV Địa lí 8.

- Về thực tiễn: Thực nghiệm, khảo sát.
V. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 8 của Trường THCS Lĩnh Nam.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2014 đến tháng 4/2015.
NỘI DUNG
4/25

I. Cơ sở lý luận:
Môn Địa lí cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức phong phú về
địa lí tự nhiên, địa lí kinh tế - xã hội. Vì vậy, để học sinh hiểu, nắm vững các kĩ
năng và kiến thức địa lí trong dạy học Địa lí giáo viên cần đặc biệt coi trọng các
vấn đề sau:
- Hình thành cho học sinh hệ thống các biểu tượng, khái niệm địa lí, các
mối quan hệ địa lí, nhất là mối quan hệ nhân quả.
- Phát triển cho học sinh tư duy địa lí .
- Tận dụng triệt để các thiết bị dạy học Địa lí như tranh ảnh, bản đồ, biểu
đồ, bảng thống kê, băng đĩa hình, trong đó quan trọng nhất là bản đồ - “tiếng
nói của môn Địa lí”.
- Tăng cường hướng dẫn học sinh quan sát, thu thập thông tin, vận dụng
kiến thức, kĩ năng địa lí để giải quyết vấn đề có liên quan trong cuộc sống.
Đối với Địa lí lớp 8, nội dung kiến thức chủ yếu địa lí tự nhiên, dân cư, xã
hội châu Á và Việt Nam. Đây là những kiến thức tưởng chừng rất gần gũi, quen
thuộc với các em nhưng thực chất lại có rất nhiều vấn đề trừu tượng và khó khăn
đối với các em trong quá trình tiếp thu kiến thức, nhiều hiện tượng xảy ra trong
tự nhiên nhưng các em không có điều kiện theo dõi, tìm hiểu, tiếp xúc trực tiếp
được. Chính vì vậy, việc đưa CNTT vào giảng dạy và sử dụng giáo án điện tử
trong dạy học địa lí 8 là vô cùng cần thiết nhằm:
- Tạo cho trẻ thay đổi hình thức hoạt động trên lớp (thông qua hình thức
trao đổi, thảo luận nhóm, kiểm tra chéo ).
- Tạo ra sự vui vẻ, thoải mái (“học mà chơi, chơi mà học”).

- Tạo ra một không khí đoàn kết, thông hiểu lẫn nhau. Nếu biết sử dụng
giáo án điện tử hợp lí thì bao giờ học sinh cũng tiếp thu, hiểu bài giảng nhanh
hơn, nhớ bài lâu hơn.
- Giáo viên khai thác được kiến thức của bài học triệt để hơn.
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học như vậy giúp cho học sinh thích ứng
được với các phương pháp “ Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, phù hợp với
mục tiêu dạy học, quan điểm dạy học hiện nay mà nghị quyết TW 2 khóa VIII
đặt ra: đào tạo ra những con người toàn diện, năng động, sáng tạo và có năng
lực giải quyết vấn đề.
II. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường
THCS Lĩnh Nam:
5/25

Trong dạy học Địa lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp dạy học
như phương pháp dùng lời, phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan.
Nhiều giáo viên đã sử dụng các phương pháp này khá tốt, khêu gợi được suy
nghĩ, tìm tòi, tự lực của học sinh. Tuy nhiên, cũng không ít giáo viên còn ít quan
tâm tới việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh khi sử dụng các phương
pháp dạy học nói trên.
Phương pháp dùng lời cho đến nay vẫn được coi là một trong những phương
pháp chính để chỉ đạo học sinh lĩnh hội kiến thức và kĩ năng Địa lí. Phương
pháp vấn đáp cũng là một trong những phương pháp dùng lời được sử dụng phổ
biến hiện nay, trong đó thiên về vấn đáp tái hiện và vấn đáp giải thích minh
họa.Việc sử dụng các phương pháp dùng lời như vậy thực chất là giáo viên chủ
động truyền đạt một cách rõ ràng, mạch lạc nội dung bài đã được chuẩn bị sẵn,
trò thụ động tiếp thu và ghi nhớ những nội dung mà giáo viên truyền đạt, kết
hợp trả lời câu hỏi giáo viên nêu ra.
Phương pháp trực quan: Một số giáo viên Địa lí sử dụng các phương tiện
trực quan để minh họa, ít chú ý đến việc cho học sinh tự làm việc với các
phương tiện này. Chính vì vậy, kĩ năng Địa lí của học sinh còn yếu.

Trong những năm qua, cùng với việc triển khai cải cách giáo dục, phương pháp
dạy học Địa lí tuy đã có một số cải tiến, chú ý tới việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức bằng cách tăng cường hệ thống câu hỏi có yêu
cầu phát triển tư duy, nhưng đó chỉ là những câu hỏi do giáo viên nêu ra và giáo viên
dẫn dắt đến đâu thì giải quyết đến đó.Về mặt hình thức, các giờ học đó có vẻ sinh
động vì học sinh tích cực hoạt động. Song nếu theo quan niệm về học tập tích cực thì
những giờ học như vậy chưa thể nói rằng học sinh đã học tập một cách tích cực, bởi
hoạt động của học sinh ở đây mới chỉ là việc trả lời thụ động các câu hỏi của giáo
viên chứ bản thân học sinh chưa chủ động tìm tòi, suy nghĩ và giải quyết những vấn
đề đặt ra trong bài học. Và để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn cũng như phù
hợp với quan điểm, mục đích giáo dục hiện đại, giáo viên trường THCS Lĩnh Nam
đã rất nhiệt tình hưởng ứng phong trào đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT vào giảng
dạy do ngành giáo dục phát động. Tuy nhiên, trên thực tế việc ứng dụng CNTT vào
giảng dạy bộ môn Địa lí của nhà trường chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Nguyên nhân của những tồn tại trên đây là do chưa có sự thống nhất về
quan điểm đổi mới phương pháp dạy học Địa lí, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho việc giảng dạy và học tập bộ môn chưa đầy đủ; kiểm tra, đánh giá trong đó
chế độ thi cử còn chia ra các môn “chính, phụ”; giáo viên Địa lí chưa chuyên
tâm với nghề, nhiều giáo viên đã có tuổi nên có nhiều hạn chế trong việc sử
dụng các phương tiện dạy học hiện đại và đưa CNTT vào soạn giảng là những
6/25

trở ngại lớn.
Trên thực tế, trong 8 năm công tác tại trường THCS Lĩnh Nam, tôi nhận
thấy: đa số học sinh thường có thói quen học thuộc lòng phần chữ in màu đỏ sau
mỗi bài học ở SGK hoặc chỉ học thuộc nội dung chính mà giáo viên cho ghi
trong vở. Như thế các em chỉ trả lời được những câu hỏi dạng trình bày chứ
không phân tích, giải thích được sự vật hiện tượng Địa Lí; nhiều học sinh còn
lúng túng khi quan sát tranh ảnh, hình vẽ ; khi đọc bản đồ, biểu đồ để tìm ra và
nắm vững kiến thức .

Khi đi vào nghiên cứu đề tài này, tôi đã gặp rất nhiều những thuận lợi:
- Học sinh đã và đang được học bộ môn Tin học trong nhà trường và phần
lớn gia đình các em đều có máy vi tính kết nối Internet nên việc tiếp cận, sử
dụng phương tiện này vào việc tìm kiếm, khai thác thông tin, hình ảnh, băng
hình liên quan đến nội dung bài học từ mạng Internet của học sinh là rất dễ
dàng, phổ biến.
- Nhà trường có đầy đủ phương tiện hiện đại để phục vụ công tác giảng dạy
của giáo viên.
- Nhà trường rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nên đã tạo mọi
điều kiện cho giáo viên dự chuyên đề, thực hiện các chuyên đề trong tổ bộ môn,
tham gia các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng Giáo dục tổ chức.
Bên cạnh đó cũng còn có những khó khăn cần được khắc phục như :
- Nhà trường chưa có đủ máy tính nối mạng để cho học sinh sử dụng vào
việc khai thác thông tin, tìm kiếm tư liệu, hình ảnh, video phục vụ cho bài học
tại trường.
- Với đa số học sinh và phụ huynh: môn Địa lí vẫn là môn phụ nên không
chú trọng, đầu tư.
- Học sinh của trường thuộc địa bàn dân trí thấp, cha mẹ phần lớn là làm
nông nghiệp nên sự quan tâm tới việc học của con em còn hạn chế, các em chưa
có tính tự giác trong học tập,
- Các tài liệu phát cho giáo viên còn quá ít, thiếu tính thời sự, hạn chế tính
hấp dẫn của bài học.
CNTT là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho người giáo viên hiện nay trong quá
trình dạy học, đặc biệt là trong môn Địa lí 8 có rất nhiều tiết địa lí tự nhiên nên tôi
thấy việc ứng dụng chúng vào giảng dạy là hết sức cần thiết để mang lại hiệu quả
cao trong giờ học, giúp tôi có thể khắc phục được những khó khăn, tồn tại nêu trên.
III. Giải pháp thực hiện việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Địa lí 8:
Tiết 14 – Bài 12: Đặc điểm tự nhiên khu vực Đông Á ở trường THCS Lĩnh
7/25


Nam.
Xuất phát từ mong muốn cải tiến chất lượng những giờ học Địa lí, đặc
biệt là giờ học môn Địa lí 8 giúp các em học sinh tiếp thu kiến thức một cách
nhẹ nhàng, hiểu nhanh và nhớ bài lâu hơn bằng cách để các em tự khai thác
thông tin, hình SGK và băng hình thông qua sự hướng dẫn, gợi mở của giáo
viên, đồng thời bồi đắp cho các em tình yêu, niềm say mê, hứng thú với môn
học Địa lí vốn bị coi là môn học khô khan, trừu tượng; tôi đã ứng dụng CNTT
vào việc soạn giảng, tìm kiếm thông tin, hình ảnh, băng hình phù hợp với nội
dung bài học; tổng kết, chốt kiến thức bằng các bảng biểu hoặc khắc sâu bằng
hình ảnh. Sau đây là các bước mà tôi đã tiến hành ở Tiết 14 - Bài 12: Đặc điểm
tự nhiên khu vực Đông Á. Qua bài học, các em không chỉ hiểu được nội dung
của bài học mà còn vận dụng được linh hoạt những kiến thức ấy vào thực tế
cuộc sống.
Bước 1: Chuẩn bị tư liệu, tranh ảnh, băng hình:
- Tôi đã tìm tòi, lựa chọn và thiết kế những hình ảnh, đoạn băng hình về
các thiên tai có sức tàn phá mạnh mẽ, gây thiệt hại lớn về người và của thường
xuyên xảy ra ở khu vực Đông Á: động đất, sóng thần, núi lửa để đưa vào làm
tư liệu giảng dạy giúp cho nội dung bài học phong phú hơn, không đơn điệu và
nhàm chán. Đồng thời, gây được sự tập trung chú ý cao cho các em học sinh bởi
đây là những hiện tượng tự nhiên các em đã được nghe, nói, mô tả đến nhiều
nhưng tất cả đều chưa được chứng kiến.
- Tôi cũng sử dụng CNTT để thiết kế các trò chơi, tạo không khí vui vẻ,
hứng khởi trong giờ học, giúp các em học sinh thấy thoải mái, nhẹ nhàng hơn
trong tiết học.
- Bên cạnh đó, tất cả các hình, tranh ảnh được đưa vào sử dụng trong bài
học, tôi đều đặt các hiệu ứng để giúp các em học sinh dễ phân biệt các nội dung
bài học. Đồng thời cũng là thực hiện chủ trương đổi mới: tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Bước 2: Giải pháp:

8/25
TIẾT 14
BÀI 12: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC ĐÔNG Á
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1.Kiến thức:
- Biết vị trí địa lí, các quốc gia và vùng lãnh thổ của khu vực Đông Á.
- Hiểu và trình bày được các đặc điểm về khí hậu, song ngòi, cảnh quan tự
nhiên của khu vực.
2. Kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng đọc và phân tích lược đồ tự nhiên Đông Á, các hình
ảnh địa lí.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tập bản đồ trong quá trình học tập.
- Rèn luyện kĩ năng chỉ lược đồ.
- Rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm.
3. Thái độ:
- Ý thức bảo vệ tài nguyên, môi trường và phòng, chống thiên tai.
- Lòng yêu thích tìm hiểu, khám phá thế giới và yêu thích môn học.
4. Tích hợp liên môn: GDCD, bảo vệ môi trường.
II. CHUẨN BỊ:
1. Giáo viên:
- Máy chiếu, projecter, PHT.
- Lược đồ tự nhiên khu vực Đông Á.
- Tập bản đồ địa lí 8.
2. Học sinh:
- Tập bản đồ địa lí 8, SGK
- Các kiến thức, tư liệu mà giáo viên đã hướng dẫn về nhà ở bài học trước.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỦ YẾU:
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp vấn đáp, gợi mở.
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Kiểm tra bài cũ: kết hợp trong quá trình dạy bài mới.
2. Bài mới:
Mở bài: Trước khi vào bài học hôm nay, cô muốn mời cả lớp tham gia 1
trò chơi, các em có đồng ý không nhỉ? Trò chơi có tên gọi: “khám phá miền đất
mới”.
9/25
10/25
11/25
Kết thúc trò chơi, GV chiếu hình ảnh của 4 quốc gia thuộc khu vực Đông Á 
vào bài.
GV: Đúng vậy, các em ạ. Đông Á là một không gian lãnh thổ rộng lớn ở châu Á
12/25
được biết đến với những nền kinh tế khá mạnh của thế giới. Trong giờ học hôm
nay, cô và các em sẽ cùng nhau tìm hiểu về điều kiện tự nhiên của khu vực này
cũng như những thuận lợi và khó khăn của chúng đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của khu vực:
TIẾT 14 – BÀI 12: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KHU VỰC ĐÔNG Á
Hoạt động 1
Tìm hiểu vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ khu vực Đông Á
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS GHI BẢNG
GV: giới thiệu vào phần 1.
GV: chiếu lược đồ các khu vực của châu Á:

? Xác định vị trí, giới hạn của khu vực Đông Á
trên lược đồ?
HS: 1 HS chỉ trên lược đồ  lớp NX, bổ sung
GV: chốt kiến thức, ghi bảng.
GV: chiếu lược đồ tự nhiên khu vực Đông Á
? Về mặt địa lí tự nhiên, khu vực Đông Á gồm
mấy bộ phận? Nằm trong giới hạn vĩ độ nào?

(Phần đất liền gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều
1. Vị trí địa lí và phạm vi
lãnh thổ:
- Vị trí: giáp
+ Phía Bắc: Bắc Á, Mông
Cổ
+ Phía Tây: Trung Á
+ Phía Tây Nam: Nam Á
+ Phía Đông Nam: Đông
Nam Á
+ Phía Đông giáp: Thái
Bình Dương
13/25
Tiên. Phần hải đảo gồm: Nhật Bản, Đài Loan, Hải
Nam).
? Vị trí địa lí, giới hạn lãnh thổ có tác động như
thế nào đến sự phát triển kinh tế - xã hội của khu
vực?
HS: thuận lợi trong việc giao lưu, hợp tác phát
triển kinh tế, xã hội với các khu vực của châu Á
cũng như các châu lục khác trên thế giới.
GV: chuyển ý.
- Gồm 2 bộ phận:
+ Đất liền
+ Hải đảo
- Giới hạn: khoảng
18
0
B – 45
0

B
75
0
Đ – 145
0
Đ
Hoạt động 2
Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên của khu vực Đông Á
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC
SINH
GHI BẢNG
GV: chiếu lược đồ tự nhiên khu vực Đông Á, yêu
cầu HS quan sát, nghiên cứu thông tin mục 2 SGK,
thảo luận nhóm, hoàn thành bảng nhóm:
- Nhóm 1: Địa hình
? Các dạng địa hình chính?Nêu tên và xác định
các dãy núi, sơn nguyên, bồn địa, đồng bằng?
Rút ra nhận xét chung về địa hình của khu vực?
 đại diện nhóm trình bày
 lớp NX, bổ sung
 GV chốt kiến thức ( PHT ), mở rộng về hiện
tượng động đất, núi lửa, sóng thần ở khu vực Đông
Á, nhất là Nhật Bản  tích hợp giáo dục môi
trường và lòng yêu thương con người trước những
thảm họa, thiên tai.
2. Đặc điểm tự nhiên:
(PHT)
14/25
? Tác động của động đất, núi lửa tới tài nguyên,
môi trường?

HS: huỷ hoại tài nguyên, gây ô nhiễm môi
trường…
- Nhóm 2: Khí hậu, cảnh quan
? Kiểu khí hậu và cảnh quan phổ biến?Phân bố?
? Tại sao lại có sự khác biệt về khí hậu giữa phần
15/25
phía Tây đất liền so với phần phía Đông và hải
đảo?
HS: thảo luận, hoàn thành PHT  đại diện trình
bày
 các nhóm NX, bổ sung
GV: chốt kiến thức (PHT).
- Nhóm 3: Sông ngòi
? Nhận xét về mạng lưới sông ngòi? Các sông
lớn? Hướng chảy chính? Chế độ nước?
? Sông ngòi khu vực Đông Á có ý nghĩa như thế
nào đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và đời
sống nhân dân?
? Điểm giống và khác nhau giữa sông Trường
Giang và Hoàng Hà?
? Dựa vào kiến thức đã học và lược đồ khí hậu
châu Á, hãy giải thích chế độ nước của sông
Trường Giang, Hoàng Hà?
HS: thảo luận, hoàn thành PHT  đại diện trình
bày
 các nhóm NX, bổ sung
GV: chốt kiến thức (PHT).
GV: tổng kết bài học, yêu cầu 1 HS nhắc lại những
kiến thức cần ghi nhớ.


3. Củng cố: trò chơi “Đấu giá”

16/25


17/25
18/25
4. Dặn dò:
ĐÁP ÁN PHIẾU HỌC TẬP
19/25
IV. Kết quả thực hiện:
Mặc dù đây là bài học khá hay nhưng nhiều kiến thức so với học sinh lớp 8.
Các kiến thức trong bài vừa trừu tượng lại vừa gần gũi, đòi hỏi người giáo viên
phải liên hệ, giải thích nhiều để khắc sâu kiến thức đồng thời phải so sánh với
thực tế ở Việt Nam, châu Á và trên thế giới, do đó bài học khá dài. Với nội dung
này, học sinh có thể dễ dàng tiếp cận, khai thác thông tin qua Internet, sách
báo , bởi vậy giáo viên nên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh sưu tầm và
trình chiếu, tự giới thiệu giúp các em được trao đổi, chia sẻ, mở rộng kiến thức.
Với các phương pháp tôi đưa ra, bài học đã đạt kết quả rất tốt. Cụ thể là trong
năm học 2014 – 2015, tôi đã áp dụng việc dạy bài 12: Đặc điểm tự nhiên khu
vực Đông Á bằng 2 phương pháp khác nhau:
- Ở lớp 8ª1, 8ª2, 8ª3: dùng phương pháp mới, ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy; sưu tầm, dàn dựng, ghi âm đoạn băng hình về một số thiên tai:
núi lửa, động đất, sóng thần; tìm kiếm, lựa chọn thêm nhiều hình ảnh tiêu biểu,
sắc nét, đẹp bên ngoài làm tư liệu giảng dạy; làm cho những hình ảnh ấy sinh
động, phong phú, gây chú ý mạnh và giúp học sinh quan sát trực quan hơn.
- Ở lớp 8ª4,8ª5: dùng phương pháp cũ, chỉ sử dụng hình ảnh SGK, tranh
ảnh có trong thư viện của nhà trường.
Sau bài học, tôi đã phát phiếu điều tra để thu thập và nắm bắt mức độ hiểu
20/25

bài của học sinh từng lớp. Kết quả đạt được như sau:
( Lưu ý: trình độ của học sinh các lớp nghiên cứu là tương đương nhau)
Bảng tổng hợp số liệu học sinh hiểu bài
Lớp Sĩ số Số HS hiểu bài Số HS chưa hiểu bài
SL % SL %
8ª1 35 35 100 0 0
8ª2 38 38 100 0 0
8ª3 41 41 100 0 0
8ª4 40 32 80 8 20
8ª5 41 34 83 7 17
Trong đó: ở lớp 8ª1: 90% học sinh hiểu bài sâu sắc, 10% học sinh nắm
chắc kiến thức cơ bản; ở lớp 8ª2, 8ª3: khoảng 70% học sinh hiểu bài học sâu sắc,
30% còn lại nắm chắc kiến thức cơ bản của bài học.
Ở lớp 8ª4, 8ª5: khoảng 30% học sinh hiểu bài học sâu; 50 % học sinh nắm vững
kiến thức cơ bản của bài học; 20 % ( 8ª4) và 17 % ( 8ª5) hiểu bài chưa chắc
chắn.
Để có được kết quả đó, tôi đã làm tốt các biện pháp nêu trên:
- Ứng dụng CNTT vào soạn giảng.
- Khai thác và lựa chọn thông tin, tư liệu, hình ảnh trên Internet phù hợp
với nội dung bài học; phù hợp với trình độ và tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 8.
- Chốt kiến bằng các bảng biểu, hình ảnh trên máy khoa học.
- Cho học sinh tiếp xúc và làm việc với các phương tiện dạy và học hiện
đại để các em tự tin, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức và thuyết trình về
một vấn đề nào đó trước lớp.
Như vậy, bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, xây dựng
được băng hình phù hợp với nội dung bài học, đưa thêm hình ảnh bên ngoài vừa
thiết thực vừa gần gũi lại đa dạng, hấp dẫn với học sinh vào bài giảng không chỉ
làm phong phú thêm tư liệu dạy học mà còn đạt được hiệu quả cao trong dạy
học. Giờ học Địa lí trôi qua rất nhẹ nhàng, không khô cứng: học sinh thấy yêu
thích môn học hơn, hiểu bài nhanh và nhớ lâu hơn; giáo viên cũng không phải

độc thoại nhiều như phương pháp dạy học truyền thống; việc kiểm tra, đánh giá
học sinh cũng thuận tiện, nhanh chóng và chính xác hơn.
Tuy nhiên, khi đổi phương pháp dạy học bằng việc ứng dụng CNTT vào
giảng dạy, người giáo viên cũng gặp một số khó khăn, trở ngại:
- Mất nhiều thời gian tìm tòi tư liệu, video, hình ảnh.
- Phải đầu tư thời gian, công sức để suy nghĩ, sử dụng linh hoạt các
21/25
phương tiện dạy học hiện đại; lựa chọn các hình ảnh phù hợp với nội dung bài
học, từng phần .
Song, tôi nghĩ rằng: nếu công việc này được thực hiện thường xuyên, đồng bộ
thì những khó khăn trên sẽ dễ dàng được khắc phục. Lúc ấy, những lợi ích của
việc ứng dụng CNTT vào dạy học Địa lí là rất lớn.
22/25
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
* Kết luận:
Qua kết quả thực nghiệm, tôi nhận thấy: việc ứng dụng CNTT vào dạy
học môn Địa lí nói chung và Địa lí 8 nói riêng là rất cần thiết. Qua đó, giáo viên
sẽ tạo được không khí nhẹ nhàng, thoải mái trong giờ học để các em yêu thích
môn học; khéo léo dẫn dắt, đặt câu hỏi kích thích sự tò mò của học sinh và tạo
nhiều cơ hội để các em làm việc với tranh ảnh, băng hình dần dần sẽ thành
thói quen giúp các em mạnh dạn hơn, không còn cảm giác sợ tiếp xúc với những
thiết bị dạy học, đặc biệt là các phương tiện dạy học hiện đại. Đồng thời cũng
giúp các em rèn luyện được bản lĩnh tự tin để thuyết trình trước đám đông, trước
lớp. Như vậy, chất lượng học tập bộ môn Địa lí được nâng cao rõ rệt.
23/25
* Khuyến nghị:
Để kết quả dạy và học môn Địa lí ở trường THCS nói chung và môn Địa
lí 8 nói riêng đạt kết quả tốt, tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất như
sau:
1. Đối với Phòng GD – ĐT Quận Hoàng Mai và Sở GD – ĐT Hà Nội:

- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề cấp Thành phố, cấp Quận, cấp cụm
về việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Địa lí để giáo viên các trường có cơ
hội gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; trau dồi và nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
- Kịp thời nắm bắt và chỉ đạo việc đổi mới các phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, hiện đại nhằm phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh trong học tập môn Địa lí.
2. Đối với BGH trường THCS Lĩnh Nam:
- Cần quan tâm, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên hoàn
thành tốt công tác giảng dạy, nhất là về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện hiện đại.
- Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về CNTT cho giáo viên để tất cả
các giáo viên đều chủ động được việc ứng dụng CNTT vào soạn giảng, tìm kiếm
thông tin, hình ảnh phù hợp với nội dung bài học.
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề ứng dụng CNTT vào dạy học Địa lí
để tổ, nhóm chuyên môn được học hỏi, chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm với nhau
đồng thời còn để cho học sinh quen dần với việc sử dụng các phương tiện hiện
đại vào học tập bộ môn.
- Yêu cầu giáo viên bộ môn kiểm tra, đánh giá thường xuyên để thấy được
sự tiến bộ của học sinh.
2. Đối với giáo viên bộ môn:
Trên đây là những chia sẻ chân tình của tôi về việc ứng dụng CNTT vào
dạy học môn Địa lí, tôi rất mong các đồng chí sẽ nhiệt tình hưởng ứng cuộc phát
động của ngành giáo dục trong việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn để
nâng cao chất lượng học tập môn Địa lí. Quan trọng hơn là chúng ta khơi dậy
được niềm say mê, hứng thú đối với môn học trong học sinh để các em tích cực,
chủ động hơn trong việc lĩnh hội tri thức cũng như hiểu bài nhanh và nhớ bài lâu
hơn trong quá trình học. Để đạt được điều này, tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên dạy
Địa lí cần phải làm tốt những việc sau:
- Trong các giờ học, phải thường xuyên hướng dẫn, rèn luyện các kĩ năng

cho học sinh, kịp thời uốn nắn các lỗi sai cho các em.
- Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài, đối tượng
24/25
học sinh sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và khắc sâu kiến thức.
- Ngoài giờ học chính khóa, giáo viên nên tổ chức những giờ học chuyên
đề, tham quan ngoại khóa để rèn luyện và củng cố các kĩ năng Địa lí cho học
sinh.
- Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi đồng
nghiệp, tích cực thăm lớp, dự giờ đồng nghiệp, tham gia đầy đủ các buổi tập
huấn chuyên môn, các chuyên đề do PGD và nhà trường tổ chức.
- Tích cực ứng dụng CNTT, các phương tiện dạy học hiện đại vào bài giảng
để tăng hiệu quả của giờ học.
4. Đối với học sinh:
- Để học tốt môn Địa lí thì trước hết học sinh phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng
cho học tập theo yêu cầu của giáo viên và đặc trưng của bộ môn.
- Thực hiện tốt các bước, các thao tác theo sự hướng dẫn của giáo viên.
- Học sinh có thể tổ chức học tập theo nhóm hoặc theo cặp để trao đổi,
nhận xét, đánh giá kết quả của nhau cũng như tự phát hiện, lĩnh hội, bổ sung và
hoàn thiện kiến thức cho mình.
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu “ Ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn
Địa lí 8: Tiết 14 – Bài 12: Đặc điểm tự nhiên khu vực Đông Á ở trường
THCS” tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và góp ý của bạn bè
đồng nghiệp, tổ chuyên môn và BGH nhà trường để tôi thực hiện và hoàn thành
đề tài này.
Tuy nhiên với kinh nghiệm giảng dạy của tuổi đời và tuổi nghề chưa dày
dạn, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến chân thành của BGK, bạn bè đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu này được
hoàn thiện hơn, thiết thực hơn trong việc giảng dạy môn Địa lí nói chung và Địa
lí 8 nói riêng. Từ đó giúp tôi trưởng thành hơn đồng thời tích lũy thêm được
nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ cho công tác giảng dạy bộ môn cũng như sự

nghiệp trồng người của đất nước.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
25/25

×