Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

BÁO CÁO ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY MÔN ĐỊA LÍ KHỐI THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.25 KB, 6 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐÔNG HÀ
TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRI PHƯƠNG
==========
HỘI THẢO
BÁO CÁO ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY MÔN ĐỊA LÍ KHỐI THCS
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay phải nói rằng không một ai nghi ngờ về vai trò to lớn và những tác dụng
kỳ diệu của CNTT trong các lĩnh vực của đời sống. Trong giáo dục, việc ứng dụng CNTT trên
thực tế cũng đã đem lại kết quả đáng kể và những chuyển biến lớn trong dạy học, bước đầu
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các bộ môn văn hoá, CNTT với ưu thế đặc biệt
chẳng những đã có tác dụng thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ lên lớp của Giáo viên
mà còn đang được đẩy mạnh làm khâu đột phá để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Từ năm học 2004 – 2005 sau khi được trường cử đi dự các lớp tập huấn của Sở GD –
ĐT về ứng dụng CNTT vào giảng dạy và nghiên cứu một số bài dạy mẫu trên đĩa của giáo
viên dự thi do Bộ GD-ĐT tổ chức tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng như sau khi được trường
cử đi tham gia học hỏi ở một số tỉnh bạn bản thân tôi đã mạnh dạn ứng dụng CNTT vào giảng
dạy ở môn Địa lí các khối 6, 7, 8, 9. Qua bốn năm thực hiện cho đến giờ phút này chúng tôi
có thể khẳng định việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở môn Địa Lí đã phát huy được hiệu
quả rỏ rệt. Đặc biệt chúng tôi đã tạo được tình yêu đối với bộ môn của các em học sinh vốn
chỉ yêu thích các môn của ban tự nhiên.
Tuy nhiên đây là một vấn đề còn mới mẻ đối ngành giáo dục của thị xã cũng như của
Tỉnh. Để có thể đi sâu, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy, tổ chức thực hiện như thế nào cho phù
hợp, đúng phương pháp, phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm
trung tâm” đạt hiệu quả cao mà “tác dụng phụ” cũng được hạn chế đặc biệt là hiện nay lại có
những quan điểm nhìn nhận khác nhau trong việc sử dụng nó như thế nào cho phù hợp là một
đòi hỏi bức xúc của dạy học hiện nay.
II. NỘI DUNG
1. Thực trạng việc sử dụng các phương tiện thiết bị dạy học môn Địa lí hiện nay:
Những năm qua việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được thực hiện khá
đồng bộ; yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi


phải sử dụng phương tiện thiết bị dạy học phù hợp, tuy nhiên thực tế các phương tiện thiết bị
dạy học hiện nay ở các trường không đáp ứng được yêu cầu do không đủ về số lượng và
không đảm bảo về chất lượng. Tình trạng “dạy chay, học chay” vẫn còn phổ biến ở một số
trường học. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khó thực hiện triệt để được.
2. Lợi thế và vai trò của Công Nghệ thông tin trong dạy học môn Địa lí.
a. Công nghệ thông tin giúp giờ dạy môn Địa lí trở nên sinh động hơn.
Việc dạy học phấn trắng bảng đen đã trở nên khá đơn điệu nhàm chán khó khơi dậy
hứng thú học tập tích cực, thiếu hấp dẫn ở một số bài, chương học. Bằng sự có mặt của máy vi
tính, máy chiếu các phần mềm bổ trợ (Violet, Powerpoint, Encatar …) CNTT đem đến cho
việc dạy học một sinh khí mới, sinh động và hấp dẫn, góp phần đưa công nghệ dạy học thoát
khỏi thô sơ, khô khan, đơn điệu.
1
Ví dụ: Đối với những bài ôn tập hay những bài thực hành địa lí với dung lượng kiến thức lớn,
tranh ảnh bản đồ nhiều, nhưng thời gian ngắn gói gọn trong 45 phút nên thường những giờ
học này rất nặng nề và không gây hứng thú cho các em. Nhưng cũng chính những bài học này
nếu chúng ta ứng dụng CNTT thì giờ học sẽ rất hấp dẫn, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
b. Công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Địa lí
nói riêng. Hình thành phương pháp tư duy mới.
CNTT chính là phương tiện dạy học hiện đại đã góp phần tích cực vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, nó làm cho các giờ học hấp dẫn nhờ những đoạn video clip sinh động,
những hình ảnh, bản đồ với màu sắc đẹp...Minh hoạ được những hình ảnh, mô phỏng những
hoạt động, quá trình hình thành, phát triển và tạo thành của các hiện tượng địa lí mà nếu
không có nó thì học sinh rất khó tưởng tượng và giáo viên cũng rất khó giải thích.Thực sự tôi
thấy rằng những hình ảnh minh họa đó đã thay thế cho rất nhiều lời giảng giải.
Ví dụ: Những hình ảnh về quá trình chuyển động của các hành tinh trong hệ mặt trời, vận
động tự quay quanh trục của trái đất và các hệ quả của nó, hoạt động của dòng biển, sơ đồ một
số hình thức sản xuất trong công nghiệp....
c. Công nghệ thông tin rất tiện ích mang lại hiệu quả cao trong dạy học Địa lí.
Như chúng ta đã biết cách dạy học thông thường, dạy học dựa trên lời giảng của giáo

viên thì vai trò của đồ dùng dạy học mờ nhạt, cách dạy học này mang tính áp đặt khô khan,
trừu tượng khó thuyết phục đối với học sinh. Sự có mặt của máy vi tính, máy chiếu với những
khả năng lớn lao mà nó mang lại đặc biệt là khả năng thực hiện những vấn đề mà đồ dùng dạy
học phấn trắng, bảng đen không thực hiện được:
Ví dụ: Khi dạy bài 12 địa lí 6 “Tác động của nội lực và ngoại lực trong việc hình thành địa
hình bề mặt Trái Đất” khi nói về mặt tích cực và hạn chế của núi lửa, động đất chúng ta có
thể chiếu một đoạn phim tư liệu về tác hại của núi lửa và động đất. Từ đó yêu cầu các em rút
ra nhận xét? Hay những hiện tượng tự nhiên xảy ra hằng ngày như núi lửa, động đất, sóng
thần, bão, lũ lụt…Ấy vậy mà máy tính có thể làm được.
3. Những bài học Địa Lí ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao:
* Địa lí khối 6:
- Bài 5: “ Kí hiệu bản đồ. Cách biểu hiện địa hình trên bản đồ”
- Bài 7: “ Sự vận động tự quay quanh trục và các hệ quả”
- Bài 10: “ Cấu tạo bên trong của Trái Đất”
- Bài 11: “ Sự phân bố các lục địa và đại dương trên bề mặt Trái Đất”
- Bài 12: “ Tác động của nội lực và ngoại lực trong việc hình thành địa hình bề mặt Trái đất ”
- Bài 13: “Địa hình bề mặt Trái Đất”
- Bài 17: “Lớp vỏ khí”
- Bài 19: “ Khí áp và gió trên Trái Đất”
- Bài 21: “ Thực hành: Phân tích biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa”
- Bài 23: “ Sông và hồ”…
* Địa lí khối 7:
- Bài 3: “ Quần cư và Đô thị hoá”
- Bài 5: “Đới nóng. Môi trường xích đạo ẩm”
- Bài 10: “ Dân số và sức ép dân số tới tài nguyên môi trường đới nóng”
- Bài 12: “ Thực hành: Nhận biết đặc điểm môi trường đới nóng”
2
- Bài 17: “Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hoà”
- Bài 18: “ Thực hành: Nhận biết đặc điểm môi trường ở đới ôn hoà”
- Bài 20: “ Hoạt động kinh tế của con người ở hoang mạc”

- Bài 22: “ Hoạt động kinh tế của con người ở đới lạnh”
- Bài 28: “ Thực hành: Phân tích lược đồ phân bố các môi trường tự nhiên, biểu đồ nhiệt độ và
lượng mưa của Châu Phi”
- Bài 47: “ Châu Nam Cực – Châu lục lạnh nhất thế giới”
- Bài 53: “ Thực hành: Đọc, phân tích lược đồ, biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa của châu Âu”…
* Địa lí khối 8:
- Bài 4: “ Thực hành: Phân tích hoàn lưu gió mùa Châu Á”
- Bài 12: “Đặc điểm tự nhiên khu vực Đông Á”
- Bài 17: “ Hiệp hội các nước Đông Nam Á”
- Bài 19: “Địa hình với tác động của nội lực và ngoại lực”
- Bài 20: “ Khí hậu và cảnh quan trên Trái Đất”
- Bài 27: “ Thực hành: Đọc bản đồ Việt Nam”
- Bài 33: “Đặc điểm sông ngòi Việt Nam”
- Bài 38: “ Bảo vệ tài nguyên sinh vật Việt Nam”…
* Địa lí khối 9:
- Bài 2: “ Dân số và gia tăng dân số”
- Bài 9: “ Sự phát triển và phân bố lâm nghiệp, thuỷ sản”
- Bài 15: “ Thương mại và du lịch”
- Bài 17: “ Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ”
- Bài 25: “ Vùng duyên hải Nam Trung Bộ”
- Bài 28: “ Vùng Tây Nguyên”
- Bài 33: “ Vùng Đông Nam Bộ”
- Bài 38: “ Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trừơng biển - đảo”…
4. Ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng Công nghệ thông tin và dạy học môn Địa Lí:
a. Ưu điểm
* Đối với Giáo viên:
- Tận dụng được kho thông tin, hình ảnh khổng lồ trên mạng In ternet, phần mềm
Encatar..., tạo lập bản biểu đồ, bảng số liệu nhanh chóng và chính xác, điều đó chúng ta cập
nhật thông tin, tiết kiệm thời gian trong việc chuẩn bị thiết bị , đồ dùng dạy học.
- Đối với việc kiểm tra đánh giá, củng cố bài với những bài tập trắc nghiệm, giải ô chữ liên

quan đến những nội dung cơ bản cần ghi nhớ của bài học, đó là cách củng cố bài rất thú vị, nó
tạo cho giờ học sự sôi động, vui vẻ thoải mái và khắc sâu được kiến thức.
- Để soạn một tiết giáo án điện tử có thể ưng ý sẽ mất rất nhiều thời gian nhưng càng
làm chúng ta sẽ càng thấy cuốn hút, hứng thú và nảy sinh thêm được những ý tưởng mới. Điều
đó đã giúp chúng ta tự nâng cao trình độ tin học, mở rộng hơn kiến thức cho bản thân và lòng
yêu nghề, sự sáng tạo của mỗi người cũng được bồi đắp thêm. Hơn nữa khi dạy sẽ nhàn hơn,
đỡ tốn công sức trong lúc giảng bài hơn, nhất là với bộ môn chỉ 1-2 tiết một tuần như địa lí,
bởi bài soạn đó sẽ sử dụng dạy cho nhiều lớp.
3
- Trong các tiết dạy giáo án điện tử, bài dạy giáo viên hiện lên sinh động qua các slide, các
hình ảnh, sơ đồ, mô hình khiến học sinh dễ hiểu, các em rất hứng thú tập trung vào giờ học
giúp giáo viên tránh được tình trạng “ dạy chay” như trước đây.
- Giáo án điện tử dễ bổ sung, sửa chữa, dễ trao đổi với đồng nghiệp, giáo viên tự tin khi giảng
dạy.
- Trong một thời gian ngắn của một tiết học , giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận
một lượng kiến thức lớn, phong phú đa dạng và sinh động “ Một hình ảnh, một đoạn phim có
thể thay thế cho rất nhiều lời giảng” bài giảng có phim, hình ảnh thực tế mô phỏng hợp lý,
sinh động sẽ thu hút được sự thích thú say mê học tập của học sinh, lớp học sôi nổi, học sinh
tiếp thu bài nhanh hơn, giờ dạy có hiệu quả cao hơn.
* Đối với học sinh:
- Thu hút được sự chú ý, tò mò, hứng thú học tập, học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm
tòi và thu nhận kiến thức.
- Dễ hiểu bài, nắm được bài, học sinh thực sự đóng vai trò là người trung tâm.
- Cùng một thời lượng nhưng số lượng kiến thức và kỷ năng các em thu được lại nhiều hơn,
cụ thể, sinh động sâu sắc và chắc chắn hơn.
- Học sinh được mở rộng kiến thức từ một bài dạy, dần làm quen với các phương tiện hiện đại.
b. Hạn chế
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để soạn được một bài dạy tốt.
- Không phải bài nào cũng ứng dụng được CNTT.

- Trường phải đầu tư mua sắm các trang thiết bị như: Máy tính, Máy Projecter, máy ảnh kỷ
thuật số, máy quét Scan…cũng như xây dựng phòng học bộ môn.
- Giáo viên phải thành thạo vi tính ở trình độ A.
- Giáo viên phải có một số kỷ năng cơ bản như truy cập Internet ( tìm kiếm thông tin, tra cứu,
lưu dữ và xử lý thông tin…) sử dụng thành thạo một số phần mềm bổ trợ dạy học bộ môn
như: Violet, Powerpoint, Flas, Media Player…Đòi hỏi giáo viên phải luôn luôn tự nghiên cứu,
học tập nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức, kỹ năng sử dụng máy vi tính…để ứng
dụng CNTT đổi mới PPDH có hiệu quả.
- Đôi khi xảy ra những sự cố bất thường như:
+ Mất điện
+ Máy bị treo
+ Không tương thích…
- Khi đưa ra những đoạn video clip hấp dẫn, những hình ảnh đẹp, lạ mà không có sự định
hướng, chỉ đạo của giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh nghiên cứu, tìm tòi kiến thức thì
có thể làm cho học sinh chỉ chú ý đến hình ảnh, âm thanh, các em sẽ dễ bị phân tán, không
tập trung vào nội dung cần tìm hiểu. Việc phô diễn quá mức những kỷ năng, kỷ xảo tin học
trong việc tạo hiệu ứng, âm thanh cũng làm học sinh mất tập trung vào nội dung bài. Khi dạy
giáo án điện tử đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt và sang tạo nếu không sẽ dấn đến việc thu hút
học sinh bằng những cử chỉ, sự diễn cảm…của người thầy cũng bị giảm ý nghĩa.
- Trước hết chúng ta cần phải xác định việc sử dụng công nghệ hiện đại trong giảng dạy
không có nghĩa là đổi mới phương pháp dạy học mà nó chỉ hỗ trợ cho quá trình đó. Nếu chúng
ta chỉ trình chiếu những trang kí tự thay cho viết bảng, đưa ra hình ảnh, bản đồ thay cho sử
4
dụng những bản đồ, tranh vẽ bên ngoài và thuyết trình thì học sinh vẫn chỉ tiếp nhận kiến
thức một cách thụ động.
* Đối với học sinh:
- Ban đầu các em còn nhiều bỡ ngỡ, chưa làm quen với phương pháp học tập mới.
- Học sinh khó ghi bài nếu Giáo viên đưa ra quá nhiều chữ trong một slide, hoặc lướt qua quá
nhanh...
5. Một số kinh nghiệm của việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học có hiệu quả

môn Địa Lí:
- Trong thực tế không phải bài nào cũng có thể sử dụng giáo án điện tử, chúng ta cần phải biết
chọn lọc các bài có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao.
- Ngay từ đầu năm học giáo viên bộ môn phải có kế hoạch về việc ứng dụng CNTT vào giảng
dạy cho những bài nào? chương nào? khối nào? từ đó giáo viên sẽ chủ động trong quá trình
tìm kiếm tư liệu, thiết kế bài giảng điện tử.
- Đối với bộ môn Địa Lí khối THCS việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy chỉ thực sự thích
hợp với những dạng bài như: Bài Ôn tập, Bài thực hành, các bài về cảnh quan môi trường là
những bài đòi hỏi sử dụng nhiều kênh hình, các bản đồ, biểu đồ các Videos…
- Giáo viên tuyệt đối không được lạm dụng CNTT vào giảng dạy. Cần tránh khuynh hướng
ứng dụng CNTT một cách hình thức, nặng về trình diễn, lớp học thụ động bị cuốn theo các
hiệu ứng làm loãng đi trọng tâm của bài học, không phải tiết học nào cũng phải ứng dụng
CNTT, các hiệu ứng CNTT phải đưa vào đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với tình huống sư phạm
đặt ra.
- Ứng dụng CNTT phải kết hợp tốt với các PPDH phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như nêu vấn đề, thảo luận nhóm…
- Trong quá trình ứng dụng CNTT đổi mới PPDH điều cần phải lưu ý là việc ứng dụng CNTT
vào dạy học cần kết hợp một cách hài hoà giữa ý tưởng thiết kế nội dung bài giảng và kĩ thuật
vi tính. Một mặt phải đảm bảo đặc trưng bộ môn, chuyển tải được các đơn vị kiến thức cơ bản
cần thiết, mặt khác phải đảm bảo tính thẩm mĩ khoa học và thuận tiện trong việc sử dụng.
Điều đó đòi hỏi khi thiết kế giáo án điện tử giáo viên cần nắm bắt tính hệ thống và kết cấu của
một bài giảng điện tử, những thông tin, hình ảnh, đoạn phim phải được chọn lọc, phải thiết
thực và phù hợp với nội dung bài giảng. Việc sử dụng kênh màu, kênh chữ phải hài hoà, hợp lí
rỏ ràng. Đồng thời lượng chữ và thông tin trên một Slide cụ thể phải được trình bày một cách
Lôgic, hợp lý và đảm bảo tính sư phạm.
- Điều lưu ý nữa là CNTT chỉ là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy chứ
không phải là tất cả. Nói như chủ tịch tập đoàn Intel Craig R. Barrett (Mỹ) là: “ máy tính
không kỳ diệu, con người mới kỳ diệu”.
- Đặc điểm nổi bật ở đa số các em học sinh hiện nay là tính năng động, sáng tạo và yêu thích
khám phá cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho công tác

học tập là điều nên làm để góp phần đổi mới phương pháp học tập của học sinh hiện nay. Điều
đó đòi hỏi phải trang bị những kiến thức, kỹ năng vi tính cơ bản cho học sinh thông qua bộ
môn tin học ở trường phổ thông. Để phát huy năng lực tự học và sáng tạo của học sinh.
- Mỗi giáo viên bộ môn phải xây dựng cho mình một kho thư viện tư liệu điện tử nhằm hoàn
thiện dần bộ giáo án điện tử của mình.
5

×