Lời nói đầu
Trong lịch sử từ xa xa đến nay, không một cộng đồng, một quốc gia hay một
dân tộc ngời náôc thể phát triển bình thờng mà không quan hệ không trao đổi giao
lu trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, t tởng.v.v với các cộng đồng dân
tộc, với các quốc gia khác. Do đó quan hệ quốc tế xuất hiện với t cách là quan hệ
lâu đời và phổ biến
Nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi quá trình phát triển xã
hội.
Toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ
lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền
với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới
chuyển sang thời kỳ mới hoà bình hợp tác và phát triển. Sự gia tăng mạnh mẽ
của toàn cầu hoá kinh tế kéo theo nó là những cơ hội và thách thức mới cho các
quốc gia khi tham gia vào quá trình đó.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia vào hội nhập kinh tế thế
giới là một nội dung, một khía cạnh quan trọng hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu
tìm hiểu sâu về toàn cầu hoá kinh tế là vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa thực tiễn.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập
kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi
ấy, khái niệm toàn cầu hoá bắt đầu đợc hình thành và đợc sử dụng một cách phổ
biến. Những quan hệ liên kết vợt lên trên quốc gia, đôi khi ngời ta cách điệu siêu
quốc gia, ấy gọi là quá trình quốc tế hoá.
1
Chính do xu hớng quốc tế, toàn cầu hoá xuất hiện gắn liền với sự hình thành
và phát triển của chủ nghĩa t vản mà dẫn đến quan niệm về quốc tế hoá trớc kia và
toàn cầu hoá ngày nay là xu thế lớn của sự vận động nền kinh tế thế giới. Vậy thì
toàn cầu hoá là gì? Toàn cầu hoá đó là sự gia tăng tăng mạnh mẽ các mối quan hệ
gắn kết, tác động phục thuộc lẫn nhau là quá trình mở rộng quy mô và cờng độ
hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong
sự vận động phát triển.Tham gia vào quốc tế hoá, toàn cầu hoá là thực hiện hội
nhập quốc tế
Toàn cầu hoá là một xu hớng bao gồm đa phơng diện: kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội.v.v Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trng tâm vừa là
cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của toàn cầu hoá.
Vậy thì toàn cầu hoá kinh tế là gì. Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau của
nhiều nhà kinh tế. Thực chất: Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh
chóng các hoạt động kinh tế vợt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ
thuộc lẫn nhau gữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hớng tới một nền
kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này đợc thể hiện ở sự mở rộng
mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lu chuyển của các dòng vốn và lao động
trên phạm vi toàn cầu hoá. Quá trình tham gia vào xu thế đó là của các quốc gia đ-
ợc gọi là hội nhập kinh tế.
II- Đặc điểm của toàn cầu hoá
Ngày nay, toàn cầu hoá đang là một tiến trình hiện hữu, khách quan và có
tác động ngày càng quyết định tới sự phát triển của rất thảy mọi quốc gia. Đối với
những nớc đến muộn, khi hoạch định chính sách phát triển quốc gia không nên
bỏ qua những nét đặc trng nổi bật của toàn cầu hoá hiện nay; đó là:
1- Sự định hình nền kinh tế tri thức:
2
Điểm nổi bật đầu tiên của toàn cầu hoá là sự định hình nền kinh tế tri thức,
mà trọng tâm là bớc ngoặt mới của sự phát triển khoa học công nghệ và vai trò của
chúng trong đời sống. Tuy còn khác nhau về cách gọi trên, nhng nền kinh tế tri
thức đang định hình ngày càng rõ nét hơn, với những dấu hiệu đánh dấu sự phân
biệt rõ rệt vai trò của tri thức đối với sản xuất thời đại ngày nay với ngày kia.
Sự định hình những đặc trng này khiến cho so với bất cứ thời đại kinh tế
nào trớc đây, nền kinh tế của thế giới đơng đại có sự khác biệt có sự cảm nhận
đựoc rõ này về sự thiết yếu và giầu có của tri thức. Hơn thế nữa nhiều ngời còn cho
rằng, sự ra đời của nền kinh tế tri thức đợc xem không phải là sự tiến bộ bình th-
ờng, mà là sự thay đổi tạo giai đoạn phát triển lịch sử mới của nhân loại. Sự định
hình của kinh tế tri thức, một mặt làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa những
nền kinh tế phát triển nhất với phần còn lại của thế giới. Nhng mặt khác nó cũng
tạo ra cơ hội lớn hơn cho việc tiếp cận tri thức phục vụ CNH - HĐH.
2- Toàn cầu hoá tài chính:
Đặc trng thứ hai cần nhấn mạnh là quá trình toàn cầu hoá ngày nay không
chỉ diễn ra ở lĩnh vực thơng mại hàng hoá, mà nét đặc trng mới là toàn cầu hoá tài
chính ngày càng giữ vị trí chi phối. Nói cách khác, toàn cầu hoá ngày nay chịu sự
dẫn dắt của toàn cầu hoá tài chính. Đặc điểm này đợc biểu hiện ở hiện tợng chẳn
máu của các dòng vốn di chuyển trên thế giới đã liên tục gia tăng, từ mức 1.0149
tỷ USD năm 1991 lên đến 5.80, tỷ USD năm 2000. Trong đó sự duy chuyển thông
qua thị trờng vốn đã tăng từ mức 794 tỷ USD lên đến 4.324 tỷ USD (tăng
21,3%/năm) và tà trợ phát triển chính thức giảm từ 60,9 tỷ USD xuống còn 38,6tỷ
USD. Sự gia tăng dòng chảy đầu t làm cho nền kinh tế thế giới gắn kết chặt ché với
nhau hơn thông qua sự liên kết chức năng sản xuất, và khiến cho biên giới kinh tế
quốc gia ngày càng mờ nhạt.
3- Vai trò mới của Công ty xuyên quốc gia (TNCs)
3
Nhân vật trung tâm quyết định cái dòng chảy vốn đầu t và chuyển tài tri thức
khoa học công nghệ để hình thành nền kinh tế tri thức nêu trên chính là các TNCs.
Tuy mục tiêu chúng của các Công ty vẫn còn là tìm kiếm lợi nhuận, nhng cách
thức hoạt động của các TNCs hiện đại có nhiều điểm khác biệt so với trớc. Vài ba
thập kỷ trớc đây, các Công ty có xu hớng tập trung nỗ lực nghiên cứu trao đổi mới
hệ thống sản xuất nhằm giảm giảm chi phí đầu vào, tăng khối lợng sản xuất và
khuyến khích tiêu dùng hàng loạt. Nguồn lợi nhuận thu đợc chủ yếu do giảm chi
phí sản xuất và tăng số ngời tiêu dùng. Những tình hình đủ thực sự đã đổi khác kể
từ sau thập kỷ 70. Các Công ty hiện đại chủ yếu thu lợi nhuận từ việc đổi mới sản
phẩm. Các TNCs đang chuyển giao mạnh mẽ hệ thống sản xuất ra bên ngoài, nay
các nớc kém phát triển hơn, trong khi giảm bớt quy mô ở Công ty mẹ. Toàn cầu
hoá đã khiến cho hệ thống sản xuất và phân phối đợc chuyển ra bên ngoài, trong
khi các TNCs chỉ tập trung nắm giữ hệ thống tài chính và bản quyền, những lĩnh
vực đem lại cho Công ty từ toàn bộ chu trình hoạt động kinh doanh. Sự bất đối
xứng về phân chia lợi nhuận trong hệ thống toàn cầu hoá khiến một sốhọc giả ph-
ơng tây gọi là sự phân biệt chủng tộc về mặt kinh tế, nhng là một thực tế hiện
hữu cha có hệ thống tốt hơn thay thế. Dẫu sao cũng nhìn thấy ở đây một cơ hội mà
toàn cầu hoá đem lại cho các nớc chậm phát triển để tiếp nhận hệ thống sản xuất
và phân phối từ các TNCs khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, cho dù tỷ phần
lợi nhuận thu đợc không thể so sánh đợc với các TNCs. Quá trình toàn cầu hoá
đang muốn các nớc khác mở cửa thị trờng, loại vừa muốn bảo hộ sản xuất của họ.
Điển hình hơn cả là trờng hợp các nớc công nghiệp phát triển ra sức cổ vũ cho
việc tự do hoá công nghiệp lại vừa muốn bảo hộ hàng nông phẩm của họ. Một
chính sách nh vậy sẽ có thể gây hại cho chính các TNCs của các nớc công nghiệp
khi họ đầu t sang các nớc đang phát triển có thể dựa ngay chính vào tính chất sản
xuất rộng rãi của toàn cầu hoá, mà cụ thể là liên minh các doanh nghiệp FDI, kể cả
phơng thức vận động hành lang, để đấu tranh cho toàn cầu hoá đợc công bằng hơn.
4- Vai trò của chính phủ:
4
Từ những đặc điểm nêu trên, vấn đề vai trò mới của Nhà nớc đã trở thành
điểm nổi bật của toàn cầu hoá. Trớc tiên, những tình thế mới do chủ nghĩa khủng
bố nổi lên khác thờng kể từ sau sự kiện ngày 11/9/2001 tại NewYonk (Mỹ), cùng
hàng loạt những vụ đẫm máu ở nhiều nơi trên thế giới suốt mấy năm qua khiến nền
an ninh hậu chiến tranh lạnh dờng nh đang tuột khỏi tầm tay, đồi hỏi Nhà nớc
phải quan tâm đúng mức hơn đến vấn đề an ninh nói chung và an ninh kinh tế nói
riêng. Tiếp theo, cuộc khủng hảng kinh tế - tài chính Châu á hồi thập kỷ 90 cũng
đòi hỏi phải đa vấn đề quản trị quá trình toàn cầu hoá bằng sự phối hợp chính sách
của các quốc gia lên một tầm cao mới. Và điều quan trọng là toàn cầu hoá không
chỉ gây sức ép gia tăng mức độ cạnh tranh giữa các loại hàng hoá và dịch vụ, mà
còn đặt chính phủ vào thế phải cạnh tranh về thể chế. Giờ đây các Chính phủ phải
đối mặt với nhau nh những ngời bán hàng cạnh tranh nhau mà sản phẩm của họ là
những thế chế. Bởi vì chỉ có bằng việc tạo ra một khuôn khổ thể chế tốt, các nguồn
lực kinh tế mới chảyvề và làm sống động nền kinh tế và đời sống xã hội. Trờng
hợp ngợc lại, các nguồn lực sẽ dễ dàng chảy đi nơi khác trong điều kiện toàn cầu
hoá hiện nay. Vì vậy, điểm mới trong vai trò của Nhà nớc. Hiện nay tìm ra phơng
thức hợp tác trong đấu tranh để tạo cho toàn cầu hoá đạt hiệu quả cao nhất đã trở
thành vấn đề chính sách chủ chốt đối với mỗi quốc gia.
III- Nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá:
Toàn cầu hoá là nh vậy, là xu thế khách quan của thời đại đã không ngừng
mở rộng và phát triển cùng với nó là một đặc điểm và vai trò to lớn của nó đối với
nền kinh tế của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là cần phải có các biện pháp thích
hợp trong việc khuyến khích toàn cầu hoá phát triển.
Để làm đợc điều đó cần phải xác định đợc rõ: đâu là nhân tố để cho quá
trình toàn cầu hoá phát triển?
* Thứ nhất là sự bành trớng của các Công ty xuyên quốc gia (TWC).
5
Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trong những thập
niên qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ lên
một bớc mới: Toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng với sự phát triển mạnh mẽ của sản
xuất trong chủ nghĩa t bản tất yếu dẫn đến sự tập trung sản xuất và dẫn đến độc
quyền. Trong lịch sử của nền sản xuất thế giới vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
các tổ chức kinh tế độcc quyền đã bắt đầu ngự trị trên thế giới. vào nửa sau của thế
kỷ XX, dới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đa đa lại sự phát triển
cha từng có của các Công ty xuyên quốc gia. Nếu vào cuối những năm 60 có
khoảng 7000 Công ty xuyên quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20 nghìn
và năm 1998 có khoảng 60 nghìn Công ty mẹ và trên 500 nghìn Công ty con rải
rác khắp các quốc gia trên địa cầu. Với một mạng lới rộng khắp nh vậy, hoạt động
của chúng thực sự tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Chúng kéo theo các nền kinh
tế quốc gia vào vòng chu chuyển của mạng lới Công ty. Hiện nay các Công ty
xuyên quốc gia kiểm soát 80% công nghệ mới, 40% nhập khẩu, 60% xuát khẩu,
90% đầu t trực tiếp nớc ngoài và sử dụng 34,5 triệu lao động khoảng 500 Công ty
lớn kiểm soát tới 25 tổng sản phẩm thế giới và giá trị trao đổi của chúng tơng đơng
giá trị thơng mại toàn cầu. Với sức mạnh nh vậy, các Công ty xuyên quốc gia
không ngững có u thế phân phối tài nguyên trong phạm vi thế giới giúp cho việc
thúc đẩy phân công lao động quốc tế đi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc
toàn cầu hoá sản xuất và lao động quốc tế để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá
kinh tế thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trên địah phận toàn
cầu hoá kinh tế thế giới
Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trên địa phận toàn
cầu đã tạo mạng lới liên kết kinh tế quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau gia tăng. Vai trò thơng mại thế giới của các TNC còn thể hiện ở lợng giá
6
trị thơng mại đợc thực hiện trong nội bộ các TNC. Nhìn chung mức trao đổi nội bộ
giữa các chi nhánh chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thơng mại thế giới
Điều cần thấy là các TNC đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức xuất
khẩu của các nớc đang phát triển, thực chất là đẩy mạnh tiến trình hội nhập của các
nền kinh tế này vào nền kinh tế thế giới nói chung. Trong hơn một thập kỷ lại đây,
xuất khẩu của các chi nhánh TNC ở các nớc đang phát triển tăng mạnh, đặc biệt ở
một số quốc gia ở thộc khu vực Châu á - Thái Bình Dơng. Ngay ở Việt Nam mức
đóng góp vào xuất khẩu của các Công ty có vốn đầu t nớc ngoài trong những năm
qua đã tăng đang kể. Tính từ khi có đầu t nớc ngoài vào Việt Nam đến tháng
8/1999, mức xuất khẩu của khu vực có FDI là 5387 triệu USD, trong đó có các
năm cao là 1997 với 1790 triệu USD 1998. Việc tăng các hoạt động TNC ở các
quốc gia đang phát triển còn đóng góp quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao trình độ quản lý và chuyển gia công nghệ hiện đại. Đây là những mặt rất
quan trọng để quốc gia đang phát triển nâng cao trình độ phát triển của mình, từng
bớc rút ngắn khoảng cách phát triển.
Nh vậy, sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các Công ty xuyên
quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách, biệt lập
trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bớc
tham gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế, đồng thời nó cũng
đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia bổ sung vào nền kinh tế
toàn cầu, làm gia tăng tính đa dạng của nó
* Thứ hai là vai trò của các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực
Các định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc
tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu và
khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá.
7
Trong các tổ chức kinh tế thơng mại tài chính toàn cầu và khu vực có
ảnh hởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế phải kể đến
WTO, IUF, WB và các tổ chức khu vực EU, NAFTA, APEC.v.v với các mục
tiêu chức năng của mình, các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các
hoạt động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lý các hoạt động này. Cho dù tính
hiệu quả của các tổ chức này còn khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc
gia, sống không ai thừa nhận sự cần thiết và vai trò của chúng, thậm chí còn đặt ra
yêu cầu về hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng
a- Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) đây là tổ chức có vai trò hàng đầu
trong thúc đẩu sự phát triển của xu hớng toàn cầu hoá kinh tế. WTO tiền thân là
hiệp định về thuế quan và mậu dịch (GATT) ra đời năm 1947 nh một hợp đồng
quốc tế đặt ra luật lệ cho mậu dịch thế giới, chủ yếu là ký kết các hiệp định giảm
thuế quan và những hạn chế khác đối với các sản phẩm chế tạo của các nớc công
nghiệp hoá. Ngày 1/1/1995 WTO ra đời thay cho GATT. WTO có chức năng điều
hành và thực thi các hiệp định thơng mại đa phơng và hiệp định giữa một số bên
cấu thành WTO, WTO hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc thơng l-
ợng mậu dịch đa phơng, tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thơng mại, giám
sát các chính sách thơng mại quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác
liên quan tới hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu. Với chức năng nh trên thực tế
trong thời gian tồn tại của mình WTO đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩu tự do hoá
thơng mại toàn cầu. Tất nhiên lợi ích của quá trình này đối với các quốc gia, luật
chơi của WTO còn nhiều vấn đề phải bàn cãi, song thực tế dờng nh tất cả các quốc
gia (cả phát triển và đang phát triển) đều muốn trở thành thành viên của WTO.
b- Các tổ chức tài chính - tiền tệ lớn nh WB, IUF cũng đóng vai trò lớn
trong thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo xu hớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá. các tổ
chức này tham gia vào điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia
thành viên và thực hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế xã hội. nếu
8
WB cho vay theo các dứan và chơng trình phát triển dài hạn, thì IUF chủ yếu cho
các nớc bị thâm hụt cán cân thanh toán vay ngắn và trung hạn
c- Liên hợp quốc: Cùng với vai trò của các định chế kinh tế có tính toàn cầu
nh trên, việc thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế không thể không nói đến vai
trò của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là các tổ chức kinh tế thuộc Liên Hiệp Quốc, ví
dụ nh hội nghị Liên Hiệp Quốc về hợp tác và phát triển (LINCTAD).
Vai trò của Liên Hiệp Quốc đối với việc thúc đẩy xu thế toàn cầu khoá kinh
tế thể hiện trên hai mặt
Thứ nhất là khía cạnh gián tiếp Liên Hiệp Quốc tổ chức đa phơng, đa chức
năng có tính toàn cầu. Chơng trình nghị sự của Liên Hiệp Quốc không chỉ bó hẹp
trong phạm vi kinh tế mà bao gồm cả việc duy trì hoà bình an ninh, giải quyết các
vấn đề văn hoá xã hội. Các hoạt động trong lĩnh vực phi kinh tế cũng tạo ra sự ràng
buộc gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia thành viên và vì vậy tác
động đến sự phối hợp hợp tác của các nớc trong các hoạt động kinh tế
Thứ hai là tác động trực tiếp đến thúc đẩy liên kết kinh tế trong phạm vi
toàn cầu thông qua các tổ chức chức năng về kinh tế nh UNCTAD.
d- Cùng với các tổ chức có tính toàn cầu nh trên, các tổ chức khu vực nh
EU, ASEAN,v.v cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy xu h ớng khu vực hoá,
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Vai trò và tác động của các tổ chức này rất khác
nhau do trình độ phát triển của các nớc thành viên do mức độ gắn kết và mục tiêu
hoạt động .v.v tác động của các tổ chức này đến xu thế toàn cầu hoá thể hiện
trên hai hớng chính:
- Thứ nhất việc tham gia vào tổ chức này cho phép các quốc gia đợc hởng u
đãi hoạt động kinh doanh khu vực, thúc đẩy các quốc gia trong khu vực tiến đến
những chuẩn mực chung trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở
các hoạt động hợp tác song phơng và đa phơng đã làm tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc
9
lẫn nhau giữa các nền kinh tế, thực chất nó phân công lao động quốc tế ngày càng
sâu sắc trong nội bộ tổ chức.
- Thứ hai, hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình
thành một thị trờng thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia phải có
lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực
Nói tóm lại, các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là
động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Thiếu vắng các tổ chức này, quá trình
trên diễn ra sự phát triển và chậm chạp. Thực tế của quá trình quốc tế hoá ở những
thời kỳ đầu cho thấy rõ điều đó. Cùng với các nhân tố nh đã trình bày, các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu đã thúc đẩy xu thế quốc tế hoá phát triển lên bớc mới
từ cuối những năm 70 trở lại đây và đợc gọi là toàn cầu hoá.
- Thứ ba, là vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát
triển từ thay thế nhập khẩu sang hớng vào xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độc của toàn cầu hoá phụ thuộc
nhiều vào chính sách phát triển của các quốc gia. Các chính sách này có phù hợp
vào xu thế chung của tự do hoá hay không, các chính phủ có ủng hộ vào việc đó
hay không? có tích cực tham gia vào phá bỏ hàng rào hạn chế luôn chuyển của các
yếu tố sản xuất hay không đều tác động lớn tới xu thế toàn cầu hoá.
Nói tóm lại, toà cầu hoá kinh tế không phải là hiện tợng mới. Nó nh tác giả
Niall Fijzenrald toàn cấu hoá không phải là sản phẩm sáng tạo của việc kinh
doanh, không phải là một âm mu của chủ nghĩa t bản nhằm tạo ra một thế giới tập
đoàn, cũng không phải là điều tởng tợng của thế giới học thuật. Toàn cầu hoá là
mở rọng tự do hoá quốc tế về t bảnvà thơng mại do sự thôi thúc của những thay đổi
về dân số, chính trị, kinh tế và công nghệ và đẩy nhanh bởi các phơng tiện liên lạc
cao tốc. Nó vừa là nguyên nhân, vừa là kết của của một quan niệm mang tính chất
10
quốc tế sau hàng thập kỷ tồn tại, chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nớc đã bị
thất bại, cho rằng thị trờng mở cửa tạo ra của cải
IV- Các tác động của toàn cầu hoá kinh tế:
- Các đặc trng của toàn cầu hoá mà chúng ta đã nêu nói nên một điều rằng:
toàn cầu hoá đã và đang phát triển mở rộng mạnh mẽ, nó là một xu thế khách quan
của thời đại, các quốc gia dù muốn hay không thì vẫn phải lao vào cuộc chơi có
tính hai mặt đó. Các quốc gia hiện nay vẫn đang luôn tích cực để làm trong sáng
quá trình toàn cầu hoá kinh tế và đã gặt hái đợc không ít những lợi ích mà nó mang
lại và không ngừng thúc đẩy nó lên một cách mạnh mẽ. Nhng một vấn đề quan
trọng đặc ra hiện nay là làm thế nào để có thể vận dụng một cách triệt để những lợi
ích mà nó mang lại? Điều đó không phải là dễ và cũng không phải là quá khó. Một
trong những yếu tố và cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự thành công của các
quốc gia khi tham gia và quá trình đó là: Cần phải biết xác định những tác động
tích cực mà nó mang lại để phát huy nó trở thành một thế mạnh của mình và xác
định những mặt tiêu cực của nó để hạn chế một cách tối thiểu ảnh hởng của nó tới
nền nền kinh tế, chính trị của mình. Vậy đâu là tác đọngtích cực và đâu là tác động
tiêu cực của nó, điều đó sẽ đợc làm sáng tỏ trong phần này.
1- Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế:
Mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế thẻ hiện ở chỗ: trớc hết thông qua tự
do hoá thơng mại sự thu hoá đầu t và chuyển dao công nghệ, nó tạo cơ hội cho sự
phát triển của kinh tế toàn cầu nói chung và từng quốc gia nói riêng.
- Thứ hai, nó thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, buộc các
nền kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp, mở rộng nền kinh tế thị
trờng, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh
- Thứ ba, nó tạo ra một môi trờng thuận lợi trong việc nắm bắt thông tin, tri
thức mới, giao lu văn hoá thế giới, trên cơ sở đó các quốc gia buộc phải cải cách hệ
11