Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tổng quan thực trạng và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.04 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước chúng ta cần phải
có nguồn vốn rất lớn. Với trình độ phát triển kinh tế nước ta còn trong tình trạng
chậm phát triển việc tích luỹ được nguồn vốn lớn đưa vào sản xuất là rất khó
khăn .
Phải xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một điều tất yếu. Đó
là một kênh hui động vốn rất hữu hiệu , và tạo điều kiện cho việc xã hội hoá
đầu tư .
Nhưng việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán nước ta hiện
nay theo hướng tích cực đang gặp nhiều khó khăn nhất định. Những năm gần
đây thị trường chứng khoán nước ta diễn biến thất thường , phức tạp và có thể
nói thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường chứng
khoán “ phát triển nóng ” ở Khu Vực Đông Nam Á .
Vậy nên việc tìm hiểu về thị trường chứng khoán là rất cần thiết , nhất là
sinh viên các ngành kinh tế họ là những người có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của thị trường sau này .
Do còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn cũng như điều kiện cơ sở
vật chất nên đề tài không thể tránh được những thiếu sót , em mong thầy cô và
các bạn góp ý giúp đỡ để em có thể hoàn thiện mình hơn .
Em cũng xin được chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn và các bạn giúp
em hoàn thành đề tài này .
1
Chương 1 .
TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể lập vững chắc trên cơ sở vật
chất – kĩ thuật tương ứng . Cơ sở vật chất kĩ - thuật của một xã hội là toàn bộ hệ
thống các yếu tố vật chất của LLSX xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật tương
ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm
thoả mãn nhu cầu xã hội . Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kì
quá độ lên chủ nghiã xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa , là phải xây


dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , trong đó CNH và nông
nghiệp hiện đại , có văn hoá và khoa học tiên tiến là rất quan trọng . muốn thành
công nhiệm vụ quan trọng nói trên , nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá ,
tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp
hiên đại .
CNH,HĐH đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy mô và sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện tiền đề, tiền dề quan trọng để
CNH, HĐH thành công.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành
một nước công nghiệp phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn
để đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất nước . Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính
sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường
chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng đối với việc huy động
vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát huy tối các nguồn lực của nền kinh tế .
giúp thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn . Khi tham gia phát hành
chứng khoán doanh nghiệp không chỉ thu được những nguồn vốn đầu tư nhất
định mà doanh nghiệp còn nâng cao uy tín của mình , chứng tỏ được thực lực
2
của mình .
TTCK cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng , mọi người có thể
rễ ràng tham gia đầu tư với những số vốn không bắt buộc phải lớn tạo nên một
nền kinh tế năng động giúp sự tăng trưởng kinh tế bền vững ổn định . Ngoài ra
TTCK phản ánh rất nhanh nhạy với các vấn đề cuả một quốc gia hay nó là
“phong vũ biểu” của nền kinh tế nước đó ,chính vì lẽ đó nó giúp chính phủ
hoạch định những chính sách vĩ mô phù hợp với thực tiễn .
Nhận thức rõ việc xây dựng thị trường chứng khoán là một nhiệm vụ
chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát

triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều
kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng
khoán trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng
việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.

3
Chương 2
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1 .Thị trường chứng khoán là gì .
Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế hiện đại , được quan niệm là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua ban chứng khoán trung và daì hạn .
Việc mua hay bán này dược diễn ra ở thị trường sơ cấp khi người mua được
chứng khoán lân đầu từ những người phát hành , và thị trường thứ cấp khi có sự
mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp .
Như vậy , xét về mặt hinh thức , thị trường chứng khoán la nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi , mua bán , chuyển nhượng các loại chứng khoán , qua đó
thay đổi chủ thể nắm giư chứng khoán .
2 . Chức năng của thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế;
TTCK cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng;
TTCK tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán;
TTCK đánh giá hoạt động của các chủ thể phát hành chứng khoán;
TTCK tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
3 . Vai trò của thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư.
TTCK là phương tiện huy động vốn.

TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát.
TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn.
TTCK tạo thói quen về đầu tư.
TTCK thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
4 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
UBCKNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
4
Sở Giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban
hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở
phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCKNN.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK)
TTGDCK có chức năng tổ chức, quản lý, điều hành và giám sát hệ thống
giao dịch và các hoạt động mua, bán chứng khoán trên thị trường.
Công ty chứng khoán (CTCK)
CTCK là tổ chức tài chính trung gian thực hiện một hoặc một số nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán bao gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành,
lưu ký chứngkhoán
Các tổ chức phát hành chứng khoán
Các tổ chức được phép phát hành chứng khoán ở Việt Nam gồm: Chính
phủ, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, các quỹ đầu tư chứng khoán
và công ty quản lý quỹ.
Nhà đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư là những cá nhân hay tổ chức tham gia mua và bán chứng
khoán trên thị trường chứng khoán. Các tổ chức đầu tư có thể là các công ty đầu
tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty
chứng khoán.
Các tổ chức có liên quan khác

Các ngân hàng thương mại;
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán;
Các tổ chức tài trợ chứng khoán:
5 . Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc cạnh tranh: giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về
chứng khoán và các đối tượng tham gia trên thị trường được cạnh tranh bình
đẳng với nhau.
5
Nguyên tắc công bằng: mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ
những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia xẻ thông tin.
Nguyên tắc công khai: công khai về hoạt động của tổ chức phát hành, giao dịch
của các loại chứng khoán trên thị trường.
Nguyên tắc trung gian: mọi hoạt động mua bán chứng khoán đều phải thực
hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán được phép hoạt
động trên thị trường.
Nguyên tắc tập trung: mọi giao dịch đều tập trung tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán để đảm bảo việc hình thành giá cả trung thực, hợp lý.
6. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát
hành.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao

dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái
sinh.
6
Chương 3
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
1.Thực trạng
Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế mỗi nước.
Tình hình sôi động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, thời gian (2007)
qua đã phản ánh hiện tượng kinh tế tốt lành. Nhưng trong mấy tháng đầu năm
2008 đã thể sự mất ổn định của thị trường . Với sự xuống dốc không phanh của
thị trường chúng ta càng thấy rõ TTCK Việt Nam vẫn chư có một giá đỡ vững
chắc , còn tồn tại nhiều bất cập .
Việc buôn bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi
các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhưng thị trường chứng khoán (TTCK)
nước ta mới chính thức hoạt động từ năm 2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28-7-2000. Khi đó mới có một
vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỉ đồng và 6 công ty chứng
khoán thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị trường mới chỉ tăng lên
0,5 tỉ USD. Vài năm gần đây mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt
Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và
đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm 38% GDP), tăng hơn 1400 lần
so với năm 2000, và nếu tính cả trái phiếu thì đạt mức 46% GDP.
Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể.
Tính đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ vào khoảng 6 tỉ USD.
Chỉ số VN-Index cũng đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của
thị trường và cũng chứng tỏ sự xuống dốc của thị trường . Nếu trong phiên giao

dịch đầu tiên ngày 28-7- 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thì tháng 3 - 2007chỉ
số này đã đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau đó 12 tháng chỉ sổ VN- index
là 460 .
7
Công ty phát hành .
Đồng thuận theo nó là các công ty đua nhau niêm yết trên thị trường
khóc - cười này. Nhiều công ty mới thành lập, tài sản đăng ký chỉ là trên giấy,
kinh doanh thì thua lỗ (có công ty còn trốn thuế) vẫn đua nhau lên sàn .Giá trị
thực của nó chỉ là con số âm, nhưng được phù phép và đánh bóng bằng những
dự án khổng lồ, những văn bản ghi nhớ với các đối tác có tên có tuổi trên
thương trường quốc tế trị giá hàng trăm triệu đôla, hàng tỉ đôla, cộng với giới cò
chứng khoán ma quái to nhỏ thì thầm với các nhà đầu tư mê tiền nhưng dại khờ.
Và rồi giá trị thực của cổ phiếu chỉ 10 ngàn đồng được đẩy giá lên
từng giờ, từng ngày và điểm đến đỉnh cao của nó hơn 650 ngàn đồng/CP, thậm
chí 1 triệu đồng/CP. Cuộc chơi quá lớn, các nhà bán không khí và thời gian lấy
tiền ngủ mơ cũng không dám nghĩ tới. Dạo qua đôi nét chủ yếu của các đại gia
lên sàn, chúng ta đã nhận thấy thị trường có nhiều vấn đề:
Thiếu minh bạch về khả năng thực tế của các công ty, mập mờ trong
tổng vốn đầu tư thực tế và tổng trị giá tài sản vô hình cũng như hữu hình thông
tin thất thiệt về khả năng tài chính cũng như sản xuất có lợi cho công ty niêm yết
và nguy hại cho nhà đầu tư; giá chào bán được công bố trước khi niêm yết giá
đấu thầu là đi ngược lại nguyên tắc căn bản của chứng khoán thế giới; cách quản
lý và điều hành của UBCKVN nói chung và cách tìm hiểu, tham gia thị trường
chúng khoán của nhà đầu tư không chuyên nghiệp
Ở các nước phát triển, hầu như các công ty là công ty cổ phần, nhưng
không phải bất cứ công ty nào cũng có thể lên sàn bởi khung pháp lý dành riêng
cho nó vô cùng chặt chẽ. Bất cứ công ty nào muốn niêm yết lên sàn giao dịch
đều phải chứng tỏ được giá trị thực của họ và quan trọng hơn là kế hoạch thương
mại của công ty đó từ 5 năm trở lên. Đánh giá này được công ty kiểm toán độc
lập có uy tín thẩm định và phải chịu trách nhiệm về những thẩm định của mình

trước pháp luật. Nhưng ở VN thời gian qua thì lại khác.
8
Công ty chứng khoán
Công chúng dường như ít quan tâm tới vấn đề này trong giai đoạn đầu
phát triển thị trường hay trong suốt thời gian thị trường tăng trưởng mạnh, giá
tăng liên tục, nhà đầu tư, nhà phát hành, nhà cung cấp dịch vụ đều “vui vẻ”.
Trong giai đoạn đầu, các quy định về thành lập công ty chứng khoán rất
đơn giản. Nhà nước còn áp dụng chính sách ưu đãi thuế đề khuyến khích thành
lập công ty chứng khoán. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu,
giảm 50% thuế trong 3 năm tiếp theo, ưu đãi thuế 20% (thay vì 28%). Ngay cả
khi ban hành Luật Chứng khoán (cuối 2006), các điều kiện cơ bản để xin thành
lập công ty chứng khoán cũng rất dễ dàng.
Trước tình hình nhu cầu lập công ty chứng khoán tăng mạnh, Bộ Tài
chính khi dự thảo Nghị định 14 và Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Chứng
khoán đã nâng tiêu chí thành lập công ty chứng khoán lên rất nhiều. Yêu cầu về
vốn tăng từ 44 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng, yêu cầu phải có vốn thực góp, yêu cầu
kiểm toán tổ chức góp vốn, yêu cầu về năng lực giám đốc… Ưu đãi về thuế cho
công ty chứng khoán mới thành lập đã được bãi bỏ.
Khi thị trường suy giảm, cũng theo đà suy giảm của thị trường toàn cầu, giá liên
tục giảm, thị trường mất gần 60% giá trị so với thời điểm “đỉnh cao”. Khó khăn
chung của nền kinh tế, áp lực suy giảm của thị trường đã ảnh hưởng rất nhiều tới
các công ty chứng khoán, hoạt động ngày càng khó khăn, doanh thu giảm sút.
Đây đang là lúc mọi đối tượng tham gia thị trường nhìn nhận lại một
cách cẩn trọng hành động của mình, để ít nhất là tránh tổn thất lớn trong tình
hình khó khăn chung.
Về phía cơ quan quản lý, Ủy ban Chứng khoán đã công bố tạm ngừng
tiếp nhận hồ sơ mới để chờ Chính phủ nâng tiêu chí thành lập công ty chứng
khoán mới, mặc dù về nguyên tắc, hiện không có quy định gì về việc giới hạn số
lượng giấy phép cấp ra là bao nhiêu, hoặc trong trường hợp nào thì ngừng cấp
phép thành lập công ty chứng khoán.

9
Liệu đây đã phải là lúc giới hạn số lượng công ty chứng khoán trên thị trường?
Việc giảm số lượng các công ty chứng khoán tại các nước thường
được thực hiện thông qua việc tăng yêu cầu về mức đủ vốn của các công ty
chứng khoán (đây cũng là điều kiện cơ bản và khó nhất khi lập công ty chứng
khoán). Điều này dẫn đến hàng loạt các cuộc sáp nhập, thâu tóm, hợp nhất giữa
các công ty.
Mặt khác, theo cam kết về dịch vụ chứng khoán khi Việt Nam gia nhập
WTO, vào năm 2012, các công ty chứng khoán nước ngoài được phép thành lập
văn phòng đại diện, chi nhánh, công ty chứng khoán 100% vốn tại Việt Nam.
Giới hạn số lượng công ty chứng khoán lúc này sẽ đặt các công ty chứng khoán
trong nước vào nguy cơ bị thâu tóm bởi các công ty nước ngoài có tiềm lực tài
chính mạnh. Kinh doanh dịch vụ chứng khoán nhiều khả năng sẽ trở thành sân
chơi do các nhà cung cấp dịch vụ khổng lồ nước nước ngoài thống trị, trong khi
các công ty trong nước với kinh nghiệm còn non trẻ, tiềm lực kinh tế còn mỏng
khó lòng sống sót trong cuộc cạnh tranh sắp tới.
Tính đến tháng 4/2008, số lượng công ty chứng khoán được cấp phép
chính thức tại Việt Nam là 98 công ty và hiện tại một số công ty đang trong quá
trình thẩm định. Trong đó, hơn 80 công ty đã hoạt động thực sự với vai trò là
thành viên của hai sàn.
nhà đầu tư
Nguyên nhân của tình trạng tăng trưởng nóng này là kỳ vọng bất hợp
lý của NĐT về mức lợi nhuận từ TTCK, được hỗ trợ bởi bức màn thông tin giữa
các cổ đông và doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động như thế nào? Huy động
vốn để làm gì? Các NĐT không biết chính xác, chỉ nghe đồn thổi và ùa nhau
mua hoặc bán. Đó là lý do vì sao TTCK Việt Nam luôn tạo ra các thái cựcThị
trường đã giảm theo quy luật.
Cần khẳng định rằng thị trường chứng khoán mà VN đang đi là tất yếu,
phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Thời gian sóng gió vừa qua cũng là
10

bài học đắt giá cho cả những người quản lý, cho các công ty niêm yết và nhà đầu
tư nói chung.
Giá trị thực hiện nay là thời điểm ảnh thật của thị trường chứng
khoán VN được thể hiện. Hãy từ điểm mốc này để từng bước học hỏi và phát
triển theo quy luật tự nhiên mà các nước đã trải nghiệm hàng trăm năm hoạt
động.
Thị trường chứng khoán là một hệ thống huy động vốn nhanh, mạnh
phục vụ cực tốt cho tái đầu tư sản xuất, cũng là một trong những nền tảng quan
trọng để đưa VN hội nhập sâu, rộng với thế giới. Nếu minh bạch trong công tác
quản lý, điều hành và chuyên nghiệp niềm tin của nhà đầu tư sẽ được củng cố và
kinh tế sẽ phát triển.
Bài học xương máu
Theo tính toán của các tác giả từ Tổ chức Global Financial Data, vào
những năm 1990, thời điểm nóng của bất động sản và bong bóng chứng khoán,
giá trị thị trường của thị trường chứng khoán (TTCK) Tokyo (Nhật) có thể mua
được cả nước Mỹ. Tuy nhiên, cũng kể từ đó, chỉ số chứng khoán của Nikkei của
Nhật đã giảm trong hơn một thập niên, từ 40.000 điểm xuống dưới mức 8.000
điểm, giá bất động sản của Nhật cũng giảm liên tục suốt 17 năm liền. Tổng kết
cho thấy, trong 93 năm qua, bình quân mỗi năm chỉ số Nikkei chỉ tăng 7,21%.
"Con đường đau khổ" này cũng xảy ra với Thái Lan khi ở giai đoạn
1986 - 1993, chỉ số chứng khoán của nước này có mức tăng lên tới 45,5%/năm
để rồi sau đó, từ năm 1994 - 1998, chỉ số này giảm gần một nửa, trung bình mỗi
năm là 41,4%. Hậu quả nặng nề hơn nữa là cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997 - 1998. Sau giai đoạn "có ăn có trả" này, TTCK Thái Lan mới đi vào
đường ray bình thường với mức tăng trưởng trung bình 13,6%/năm trong cả giai
đoạn từ 1998 - 2007. Nếu tính từ năm 1975 - 2007 thì con số tăng trưởng trung
bình chỉ số chứng khoán Thái Lan chỉ là 6,7%/năm. Sự kỳ vọng thái quá của
NĐT và tình trạng bong bóng chứng khoán, bất động sản cũng vậy.
11
Trở lại với TTCK Việt Nam, tính từ năm 2000 - 2007, VN-Index tăng

trung bình 36,5%/năm, trong đó riêng từ 2005 - 2007, VN-Index có mức tăng
mỗi năm lên tới 82,6%. Với mức tăng "nóng" như trên, việc VN-Index sụt giảm
như hiện nay được coi là điều tất yếu.
2. Thuận lợi và thách thức đối với sự phát triển TTCK ở Việt Nam
Khi gia nhập WTO, cũng có nghĩa là phải mở cửa và hội nhập, phải
chấp nhận những điều khoản đã ký kết với các đối tác nước ngoài và của WTO,
trong đó có lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả tài chính, ngân hàng và đương nhiên
có cả TTCK. Trong điều kiện đó, sự phát triển của TTCK vừa có những thuận
lợi rất cơ bản, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn.
Hai thuận lợi cơ bản:
* Thứ nhất, là tăng trưởng chu chuyển vốn, trong đó đầu tư nước ngoài tăng
đáng kể (riêng lĩnh vực đầu tư trên TTCK của các nhà đầu tư nước ngoài như đã
nêu trên đã lên đến 6 tỉ USD). Đây là một trong những vấn đề quan trọng thúc
đẩy cho việc tăng trưởng kinh tế ở nước ta.
* Thứ hai, TTCK phát triển, nhất là thị trường sơ cấp trong đó có việc cổ phần
hoá các Công ty có yếu tố vốn nước ngoài sẽ có điều kiện tăng huy động nguồn
vốn dài hạn để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh trong nước, và đương
nhiên tác động tích cực trở lại cho sự phát triển của TTCK.
Ba thách thức lớn:
* Khi mở cửa ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng thì trước hết là tạo ra
sức ép về quản lý thị trường vốn trên một số lĩnh vực: (1) Đồng bản tệ sẽ lên giá,
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế; (2) Sức ép về gia tăng phương tiện thanh
toán nhằm đáp ứng yêu cầu gia tăng lượng ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào và
sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài làm cho tỉ lệ lạm phát tăng, qua đó
phải tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý để giảm thiểu những rủi ro
của thị trường vốn (bao gồm cả thị trường tiền tệ và TTCK).
12
* Sẽ tạo ra sự dịch chuyển vốn giữa ngân hàng và TTCK, nếu không có
sự kiểm soát kịp thời và hiệu quả thì sẽ dẫn đến rủi ro và nếu rủi ro lớn sẽ ảnh
hưởng sự an toàn của hệ thống ngân hàng.

* Nếu để TTCK tăng trưởng “quá nóng”, sẽ phát sinh hiện tượng
“bong bóng” và do đó yếu tố an toàn cho những nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu
tư cá nhân và cả sự an toàn của TTCK bị ảnh hưởng. Khi TTCK sụp đổ sẽ phải
mất nhiều năm mới có thể hồi phục, kéo theo nhiều khó khăn không chỉ cho hệ
thống tài chính, ngân hàng mà cả đối với nền kinh tế.
3. Những vấn đề còn tồn tại
Lý do mà TTCK không hấp dẫn có thể có nhiều trong các quan hệ
khách quan khác thuộc tiềm lực và trình độ dân trí của nền kinh tế, song những
lý do nội tại, mang tính chủ quan là rất cần phải nhận dạng và khắc phục.
Mặc dù đạt được những thành công, nhưng TTCKVN cũng đã bộc lộ
những vấn đề hạn chế, những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự cố gắng hơn nữa
từ phía các cơ quan quản lý nhà nứơc cũng như các chủ thể tham gia thị trường.
Những hạn chế đó được thể hiện trên các mặt sau:
Quy mô TTCK còn quá nhỏ bé cả về cung và cầu, hàng hoá trên TTCK
ít về số lượng và nghèo nàn về chủng loại. Hiện nay hàng hoá chủ yếu là cổ
phiếu, trái phiếu và một số ít Chứng chỉ quỹ đầu tư .Thị trường trái phiếu Chính
phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa thường xuyên, giao dịch
thứ cấp chưa phát triển, thị trường trái phiếu công ty rất sơ khai.
Số lượng các công ty niêm yết có khả năng tài chính tốt còn khiêm tốn,
khả năng cạnh tranh trên thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài về sản
phẩm của các công ty này còn hạn chế. Cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán
kiểm tóan còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thị trường chưa
thu hút được sự tham gia tích cực của các công ty cổ phần, do các công ty này
chưa thấy hết được lợi thế ưu việt của công cụ cổ phiếu.
Hoạt động chứng khoán còn mang nặng tính đầu cơ ngắn hạn, thiếu
tính phân tích và dự đoán trên TTCKVN, công chúng còn đầu tư theo yếu tố tâm
13
lý, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi cảm tính. Có rất ít những nhà đầu tư chuyên nghiệp
đầu tư theo phương pháp phân tích các chỉ số, số liệu của công ty, điều này ảnh
hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của TTCK. Hơn nữa, tính chính xác của

thông tin mà các đối tượng tham gia trên thị trường đưa ra chưa cao đã làm cho
các nhà đầu tư khó có thể đưa ra được các quyết định hợp lý. Các tổ chức niêm
yết chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc công khai hoá thông tin. Do vậy
họ còn thiếu chủ động tự giác cung cấp thông tin cho công chúng làm ảnh hưởng
tới các quyết định tham gia thị trường của người đầu tư.
Hệ thống giám sát hoạt động của TTCK đã được thiết lập nhưng hoạt
động chưa thực sự hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát. Bên cạnh đó
năng lực giám sát, các chế tài cưỡng chế hành vi vi phạm còn hạn chế; các văn
bản pháp luật khác có liên quan như luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thanh
tra, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính… chưa quy định rõ thẩm quyền và
chưa có các quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng
khoán. Công tác phổ biến, quán triệt các quy chế chính sách đối với hoạt động
của TTCK tuy đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa được sâu rộng nên ý thức
chấp hành chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý còn chưa có nhiều
kinh nghiệm, chưa nắm chắc nghiệp vụ nên kết quả kiểm tra còn hạn chế.
Việc cụ thể hoá mô hình, chính sách và giải pháp phát triển TTCK
trong Chiến lược phát triển TTCK còn chậm. Công tác phát triển hàng hoá gặp
nhiều khó khăn, chưa tạo ra được bước đột phá mới. Các doanh nghiệp nhà nước
được hỗ trợ về vốn hoặc được cho vay ưu đãi nên doanh nghiệp “chưa cần” gõ
cửa TTCK vẫn có vốn rẻ để đầu tư kinh doanh! Hệ thống NHTM Việt nam vẫn
chủ yếu kinh doanh “độc canh” trên thị trường tín dụng truyền thống nên vẫn là
kệnh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Các chính sách, giải pháp phát triển
thị trường chưa được ban hành đồng bộ.
Mối liên hệ có tính chất bản chất giữa TTCK và thị trường tiền tệ lẽ
ra rất gắn bó theo nguyên lý “chạy tiếp sức”, thì ở Việt Nam lại rất rời rạc, thậm
14
chí có tình trạng “gắn bó ngược” theo kiểu “đi vay tiền ngân hàng thời hạn ngắn
để mua cổ phiếu vô thời hạn” .
Các nhà quản lý TTCK cũng chủ yếu chỉ quan tâm đến việc lên
xuống của chỉ số trên các “sàn” chính thức, ít quan tâm đến TTCK nói chung

(bao gồm cả OTC). Nghĩa là quá quan tâm đến thị trường thứ cấp chính thức,
nơi đang bao gồm những hàng hoá cũ do phát hành một cách chộp dật với giá
cao, chất lượng thấp chiếm tỷ lệ áp đảo Thậm chí cho đến khi thị trường rơi
vào ảm đạm thì lại ra sức áp dụng đồng loạt các biện pháp hành chính “nhè”
đúng vào các điểm nhạy cảm nhất của TTCK là giá cả và niềm tin để “đánh”! -
Biên độ giá cả giao dịch bị ép lại, gần như “bằng 0” – Nghĩa là “trò chơi” không
còn và kèm theo những “chiến ức, thậm chí công bố không đúng sự thật thì nhà
đầu tư rời sàn là lẽ tự nhiên…

15
Chương 4
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TTCK TRONG NHỮNG NĂM TỚI
Xuất phát từ thực tiễn về mức độ phát triển của TTCKVN và mục tiêu
phát triển trong giai đoạn tới “Mở rộng TTCK có tổ chức, thu hẹp thị trường tự
do”, các cấp có thẩm quyền cần tiến hành những giải pháp để TTCK từng bước
ổn định, trở thành một kênh huy động vốn đầu tư trung và dài hạn chủ lực cho
nền kinh tế một cách có hiệu quả.
1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống quản lý
Về khuôn khổ pháp luật
Luật Chứng khoán đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày
1/1/2007. Do vậy, các cơ quan Chính phủ cần khẩn trương xây dựng các văn bản
hướng dẫn thi hành nhằm đưa Luật sớm đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện rà
soát, bổ sung các văn bản pháp luật, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan
trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm thiểu sự mâu thuẫn và
chồng chéo. Ưu tiên tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện các chuẩn mực
quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát mạnh, phù hợp với thông lệ quốc
tế; đồng thời chú trọng các qui định về sự tham gia của các bên nước ngoài vào
TTCK cần sớm được hoàn chỉnh.
Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng
khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, phát triển nguồn nhân lực, mở

rộng phạm vi và mạng lưới cung cấp dịch vụ, tăng cường áp dụng công nghệ
thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Về quản lý thị trường
Thực hiện quản lý theo các chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế quản lý
bình đẳng với hiệu quả cao.
Quản lý theo chức năng (mọi đối tượng thực hiện các chức năng như
nhau với các rủi ro như nhau sẽ chịu một chế độ quản lý như nhau) nhằm sớm
hình thành cơ chế cạnh tranh bình đẳng, công bằng.
16
Phát triển các chuẩn mực quản trị công ty (các thông lệ tốt nhất về quản
trị công ty về quyền của cổ đông, quan hệ với cổ đông và chế độ công bố thông
tin; qui định điều kiện tiên quyết khuyến khích các công ty tuân thủ).
Nâng cao chất lượng và tính độc lập của kiểm toán, đặc biệt là trong
việc kiểm toán các công ty đại chúng.
Công khai và minh bạch thông tin kịp thời; nâng cao các chuẩn mực về
công bố thông tin bảo vệ công chúng đầu tư.
Nâng cao hiệu quả giám sát từ phía nhà nước, đồng thời tăng cường vai
trò, sự tham gia của công chúng đầu tư trong phát hiện các dấu hiệu vi phạm.
Loại bỏ các hình thức bao cấp, đặc quyền về vốn đối với các DNNN,
thực hiện bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong huy động vốn qua TTCK.
2. Giải pháp phát triển thị trường sơ cấp
Thực hiện nguyên tắc của tổ chức các uỷ ban chứng khoán quốc tế
(IOSCO) trong hoạt động phát hành chứng khoán (tổ chức phát hành phải công
bố đầy đủ các thông tin quan trọng đối với việc ra quyết định của người đầu tư).
Về điều kiện chào bán chứng khoán, ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện về
mức vốn và số năm kinh doanh có lãi, tổ chức đó còn phải cung cấp đầy đủ
thông tin, phải có Bản cáo bạch, báo cáo tài chính được kiểm toán theo chuẩn
mực và thông lệ quốc tế. Thực hiện chuẩn mực cao hơn về quản trị công ty và
trách nhiệm của tổ chức phát hành, tổ chức tư vấn/bảo lãnh phát hành;
Nâng cao vị thế, xác định rõ nghĩa vụ của công ty đại chúng (nghĩa vụ

báo cáo, công bố thông tin, nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc kế toán, kiểm toán
nội bộ), quy định vấn đề mua bán của các cổ đông lớn và cổ đông chủ chốt.
Thúc đẩy chính sách gắn cổ phần hoá DNNN với phát triển TTCK;
hoàn chỉnh cơ chế và mở rộng phạm vi chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đàu
tư nước ngoài thành công ty cổ phần; tiến tới thống nhất chính sách quản lý đối
với doanh nghiệp trong nước, nước ngoài tham gia TTCK. Khi gắn kết cổ phần
hoá các DNNN qui mô lớn với phát triển TTCK trong bối cảnh tự do hoá cần
chủ động kiện toàn thể chế giám sát, kiểm toán nội bộ các định chế tài chính,
17
các doanh nghiệp cổ phần hoá nhằm loại bỏ nguy cơ thao túng, lũng đoạn thị
trường tài chính và nền kinh tế.
3. Giải pháp phát triển thị trường thứ cấp
Thực hiện những biện pháp nhằm tăng tính thanh khoản theo các
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế như: Quy định tỷ lệ ký quỹ và ký quỹ bằng
chứng khoán ….
Thực hiện các giải pháp tăng cung hàng hoá có uy tín, chât lượng cao,
lựa chọn một số doanh nghiệp lớn, ngân hàng thương mại cổ phần, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết trên TTCK. Ban hành cơ chế thích
hợp để phần lớn trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công
trình được niêm yết để phát hành trên TTCK.
Phát triển thị trường phi tập trung (OTC) có tính thanh khoản tạo ra
các cơ hội đầu tư đa dạng, thu hút sự quan tâm của người đầu tư và tổ chức phát
hành. Trong đó đặc biệt chú ý tới việc ban hành các qui định mở rộng và kiểm
soát được việc sử dụng chứng khoán làm vật thế chấp vay vốn ngắn hạn tại ngân
hàng nhằm biến các dòng vốn nhỏ, lẻ trôi nổi trong công chúng có thể sẵn sàng
tham gia thị chứng khoán với tư cách vốn trung và dài hạn, nhưng khi cần tiền
có thể hoặc là bán lại qua OTC, hoặc là thế chấp vay ngắn hạn tại NHTM.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền phổ cập và nâng cao kiến
thức cho công chúng cũng như các đối tượng tham gia TTCK nhằm tăng cường
sự hiểu biết và quảng bá về hình ảnh TTCK ra công chúng. Đồng thời đẩy mạnh

công tác phát triển nguồn nhân lực cho TTCK, bao gồm cả các chuyên gia về
quản lý danh mục đầu tư, phân tích đầu tư chứng khoán. Trong công tác đào tạo
cũng cần chú ý tới việc xây dựng và thực thi bộ tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp,
tiêu chuẩn về điều kiện hành nghề.
4. Giải pháp phát triển các tổ chức dịch vụ chứng khoán
Các tổ chức dịch vụ chứng khoán Việt Nam cần có khả năng cung cấp
cho khách hàng những dịch vụ có tính cạnh tranh. Cần mở rộng quy mô của các
18
tổ chức dịch vụ chứng khoán trên cơ sở chủ động xây dựng chiến lược phát triển
các dịch vụ thích hợp, mở rộng mạng lưới khách hàng.
Từng bước tự do hoá cơ chế thu phí dịch vụ, nới lỏng, tiến tới tự do
hoá hoàn toàn theo cơ chế thị trường, loại bỏ các khoản phí bất hợp lý nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ. Khuyến khích tham gia của
các tổ chức dịch vụ chứng khoán nước ngoài góp phần nâng cao chất lượng dịch
vụ.
Như vậy để có thể đưa TTCK phát triển có chiều sâu, phát triển ổn
định mang tính thị trường bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của các công ty chứng
khoán, các thành viên tham gia thị trường, còn rất cần có sự chỉ đạo tích cực của
Chính phủ, sự phối hợp của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch
đầu tư và của các cơ quan, ban ngành có liên quan. Trên tinh thần đó, TTCK
Việt Nam sẽ sớm gánh vác được sứ mệnh cần có của nó là làm kênh huy động
và là nơi luân chuyển chủ lực các dòng vốn đầu tư trung và dài hạn của nền kinh
tế thị trường Việt nam.!.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, (2006),Giáo trình kinh tế chính trị Mác-
LêNin, Hà Nội
2, Vũ Thành Long-Nguyễn Quang Hải, (2007), Diễn biến thị trường chứng
khoán, Hồ Chí Minh
3, Website :hastc.org.vn, 24h.com.vn, tuoitre.com.vn, sanotc.com,

vnstockgame.com, saga.com.vn , dautư.com.vn .
20
MỘT SỐ TỪ NGỮ VIẾT TẮT
CP : CỔ PHẦN
CPH : CỔ PHẦN HOÁ
CNH : CÔNG NGHIỆP HOÁ
DNNN : DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
HĐH : HIỆN ĐẠI HOÁ
LLSX : LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
NHTM :NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHTMCP : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TTGDCK : TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
TTCK : THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TTCKVN : THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
UBCKNN : UY BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC
IOSCO :TỔ CHỨC CÁC UỶ BAN CHỨNG KHOÁN QUỐC TẾ

21

×