Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đánh giá kết quả điều trị điếc đột ngột bằng phương pháp kết hợp giữa thuốc giãn mạch và corticoid

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.84 MB, 108 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điếc đột ngột (ĐĐN) là một cấp cứu trong chuyên khoa Tai Mũi Họng.
Mặc dù được biết từ rất lâu nhưng cho đến nay vấn đề chẩn đoán nguyên
nhân, điều trị vẫn còn nhiều tranh luận và đang tiếp tục được nghiên cứu .
Hiện nay các tác giả đều thống nhất về định nghĩa của điếc đột ngột như sau:
là một điếc tiếp nhận, thính lực giảm từ 30 dB trở lên với ít nhất ở 3 tần số
liên tiếp nhau và mới xuất hiện trong vòng 72 giờ, ở những bệnh nhân không
có tiền sử bệnh về tai [40], [59],[72],[73].
Điếc đột ngột thường xuất hiện ở một tai, nhưng đôi khi cũng xuất hiện
cả hai tai (khoảng 2%) và thường kết hợp với các triệu chứng khác như ù tai,
chóng mặt, cảm giác đầy nặng trong tai. [29][34][9][58]
Tại Hoa Kỳ tỷ lệ mắc bệnh hàng năm khoảng 5- 20 ca /100.000 dân [],
[]. Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê tỷ lệ bệnh. Theo một nghiên cứu tại
bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương trong vòng 6 tháng (từ 3 - 9/2011) có
168 bệnh nhân được chẩn đoán ĐĐN [20]. Theo một nghiên cứu khác ở bệnh
viện Tai Mũi Họng, Tp Hồ Chí Minh trong 2 năm (2005-2006) có 450 trường
hợp được chẩn đoán ĐĐN [10].
Điếc đột ngột có thể là triệu chứng của các bệnh như chấn thương, khối
u v.v Tuy nhiên trong lâm sàng phần lớn các trường hợp điếc đột ngột khụng
xỏc định được nguyên nhân còn gọi là điếc vô căn.Theo một số các tác giả
[42], [49], [60] nguyờn nhõn nhiễm virus chiếm từ 25-65 % và cơ chế bệnh
sinh liên quan đến miễn dịch do kháng thể chéo với virus ở cơ quan Corti tạo
phức hợp kháng nguyên – kháng thể.
Điều trị điếc đột ngột cần phải tiến hành nhanh chóng và kịp thời nhằm
hồi phục sức nghe và khả năng giao tiếp cho người bệnh.
2
Điều trị điếc đột ngột có nhiều phương pháp như bằng thuốc, oxy cao ỏp…
Trong đó điều trị bằng thuốc là chủ yếu nhằm mục đích chống viêm, chống dị
ứng, chống co thắt, giãn mạch… Thuốc corticoid là thuốc chính trong điều trị
theo các hình thức như: đường toàn thân( tiêm tĩnh mạch, uống), tại chỗ (tiêm


vào hòm nhĩ).
Với phương phỏp tiờm vào hòm nhĩ, thuốc corticoid sẽ ngấm qua màng
nhĩ phụ (màng cửa sổ tròn) vào ngoại dịch của tai trong. Theo các tác giả [50],
[57] nồng độ corticoid ở tai trong của phương pháp này cao hơn so với đường
tiêm và uống. Nồng độ thuốc cao, kéo dài trong mê nhĩ có tác dụng chống
viờm, giảm sự gắn kết kháng nguyên – kháng thể, tăng lưu lượng tuần hoàn tai
trong, phục hồi các tế bào thần kinh thính giác bị tổn thương. Phương pháp này
có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc khác theo đường toàn thõn
như: thuốc giãn mạch, tăng chuyển hoá, chống dị ứng.v.v
Phương pháp tiêm corticoid vào hòm nhĩ và kết hợp với thuốc giãn mạch
hiện nay đã trở thành phổ biến trên thế giới. Các kết quả cho thấy tỷ lệ phục hồi
sức nghe tốt từ 50-80% các trường hợp [36], [], [], [65]. Tại Việt Nam phương
pháp này chưa được phổ biến ở các cơ sở Tai Mũi Họng. Hiện chỉ có 2 trung
tâm có báo cáo áp dụng phương pháp này là bệnh viện Tai Mũi Họng Tp HCM
[] và bệnh viện đa khoa Đà Nẵng [23]. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đỏnh giá
đầy đủ về kết quả cũng như thống nhất về cách đỏnh giá kết quả phục hồi sức
nghe sau điều trị của phương pháp này, bởi vậy chúng tôi tiến hành đề tài này
nhằm 2 mục tiêu.
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và thính lực đồ của bệnh nhân điếc đột ngột.
2. Đánh giá kết quả điều trị điếc đột ngột bằng phương pháp kết hợp giữa
thuốc giãn mạch và corticoid.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. LỊCH SỬ NGHIấN CỨU
Lâm sàng của điếc đột ngột được mô tả lần đầu tiên vào năm 1906 bởi
Cornet và Escat [73].
Sau đó năm 1922 Kobrak đã giành nhiều công sức để nghiên cứu về
điếc đột ngột,nhưng ông cũng phải công nhận rằng việc xác định nguyên nhân
gây ra điếc đột ngột là rất khó khăn [60], [73].

Nhiều năm tiếp theo,cỏc tác giả như Citelli (1926), Collet (1933),
Derleyn(1944), Fowler (1950), Hilger (1950) cũng đã dầy công nghiến cứu về
điếc đột ngột. Họ nhận thấy có một sự liên quan giữa điếc đột ngột và thiếu
máu mê nhĩ [28], [30], [35].
Bên cạnh đú cỏc công trình nghiên cứu của các nhà tai học khác như :
Belal A. (1980), Byn F.M (1984), Byrre (1987), John Booth (1987), Gulya
(1994) [23], [24], [27], đã góp phần làm cho bệnh cảnh lâm sàng của điếc đột
ngột được mô tả ngày càng đầy đủ hơn.
Năm 1980 tác giả Wilson lần đầu tiên dùng corticoid đối với điếc đột
ngột. Sau đó có nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh hiờụ quả của corticoid
trong hồi phục thính lực [57], [58], [67].
Năm 1991 Itoh là người đầu tiên đưa ra báo cáo về việc điều trị bệnh
Meniere bằng phương pháp tiêm corticoid vào hòm nhĩ. Sau đó 5 năm
Silverstein đưa ra báo cáo về việc điều trị điếc đột ngột bằng cách tiêm
corticoid vào hòm nhĩ [58].
Ở Việt Nam những nghiên cứu về vấn đề này còn rất ít. Năm 1966 lần
đầu tiên tác giả Lê Sỹ Nhơn đã đưa ra một trường hợp lâm sàng của một bệnh
4
nhân nữ 19 tuổi bị điếc đột ngột tại khoa TMH bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
được đăng trong cuốn “Tai Mũi Họng tài liệu nghiên cứu” [16] .
Sau đó năm 2000 tác giả Phạm Trường Minh đã nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và đánh giá kết quả của điều trị điếc xảy ra đột ngột tại Viện TMH [14].
Đến năm 2006 tác giả Nguyễn Thuý Võn đó nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
đánh giá hiệu quả điều trị điếc đột ngột bằng corticoid đường toàn thân và thuốc
giãn mạch tại Viện TMH Trung Ương. Tác giả đã đưa ra các phương pháp xác định
vị trí tổn thương ở ốc tai hay sau ốc tai qua đo OAE và ABR [24].
Trong một báo cáo trên tạp chí Tai Mũi Họng số 3 năm 2008, Nguyễn
Minh Hảo Hớn và cộng sự lần đầu tiên đánh giá việc điều trị điếc đột ngột ở
người lớn bằng tiêm corticoid vào hòm nhĩ tại bệnh viện TMH Tp Hồ Chí
Minh đã nhận thấy corticoid vào hòm nhĩ vẫn còn hiệu quả với bệnh nhân mà

phác đồ kinh điển thất bại [10]. Năm 2010 Hồ Xuân Trung và cộng sự sau khi
nghiên cứu điều trị bệnh nhân điếc đột ngột tại khoa TMH bệnh viện Đà Nẵng
bằng tiêm Dexamethasone vào hòm nhĩ kết hợp với thuốc điều trị toàn thân
cũng có nhận xét như trên [23].
Trong nghiên cứu này chúng tôi bước đầu tiến hành đánh giá hiệu quả
của phương pháp điều trị ĐĐN bằng thuốc giãn mạch và corticoid.
1.2. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ CỦA TAI.
Tai là một cơ quan có cấu trúc phức tạp, về mặt giải phẫu thì tai gồm có
3 phần là tai ngoài, tai giữa và tai trong [21]. Trong đó tai ngoài và tai giữa có
chức năng hứng, hướng, khuyếch đại và dẫn truyền âm thanh vào tai trong.
Còn tai trong có chức năng tiếp nhận âm thanh, bên cạnh chức năng nghe tai
trong còn tham gia vào việc điều chỉnh thăng bằng cho cơ thể.
1.2.1. Tai ngoài
Tai ngoài gồm có vành tai và ống tai ngoài.
5
1.2.1.1 Vành tai
Vành tai là một cái loa bằng sụn, ngoài có da bao bọc.Vành tai có
những chỗ lồi và chỗ lõm.
Những chỗ lồi tính từ chu vi về tâm, là : luân nhĩ, gờ đối luân, đối bình
tai và bình tai hay nắp tai.
Những chỗ lõm là hố thuyền, rónh luõn nhĩ, loa tai và cửa tai.
Phần dưới của vành tai không có sụn, chỉ có da và mỡ, được gọi là dái tai.
1.2.1.2. Ống tai ngoài
Ống tai ngoài là một cái ống tịt bắt đầu từ lỗ tai và tận cùng ở màng nhĩ.
Ống này gồm có hai đoạn : đoạn ngoài bằng sụn, đoạn trong bằng xương.
Trong tư thế bình thường đoạn sụn và đoạn xương có một cái khuỷu hơi cong.
Thiết diện ngang của ống tai ngoài hình bầu dục, hẹp theo chiều trước sau.
Các quan hệ của ống tai ngoài :
Thành trước quan hệ với khớp thái dương hàm.
Thành sau quan hệ với đường dây thần kinh số VII và với xương chũm.

Thành trên với hố não giữa.
Thành dưới với hố mang tai.
1.2.2. Tai giữa
Tai giữa là hệ thống các khoang rỗng chứa khí nằm giữa tai ngoài và tai
trong gồm: Hòm nhĩ, vòi nhĩ và các tế bào xương chũm.
Trong phần giải phẫu tai giữa này chúng tôi chỉ giới hạn trình bày phần
hòm nhĩ , màng nhĩ và vòi nhĩ.
1.2.2.1. Hòm nhĩ
Hòm nhĩ là một hốc rỗng nằm trong phần đá của xương thái dương, có
hình thấu kính lõm 2 mặt, có 6 thành, phía trước thông với thành bên họng
mũi bởi vòi nhĩ, phía sau thông với hệ thống bào xương chũm bởi một cống
nhỏ gọi là sào đạo. Hòm nhĩ chứa hệ thống xương con.
6
Hình 1.1. Thiết đồ cắt ngang tai ngoài, hòm nhĩ và tai trong []
* Các thành của hòm nhĩ:
Thành ngoài: gồm 2 phần:
- Phần trên: là tường xương gọi là tường thượng nhĩ, có dây chằng cổ
xương búa chia làm 2 ngăn: ngăn trên là Kretschman, ngăn dưới là Prussack.
- Phần dưới: là màng nhĩ là màng mỏng, có màu xám, trong, có tính
chất dai và cứng. Màng nhĩ được chia làm 2 phần: phần trên là màng chùng
(Shrapnell) quan hệ trực tiếp với túi Prussack. Phần dưới là màng căng chiếm
ắ diện tích màng nhĩ. Đây là phần rung động của màng nhĩ.
7
Hình 1.2. Thành ngoài hòm nhĩ []
Thành trong hay thành mê nhĩ :
- Giữa lồi lên gọi là ụ nhô do vòng thứ nhất ốc tai tạo nên.
- Dưới ụ nhô: có lỗ của thần kinh Jacobson.
- Cửa sổ bầu dục: ở phái sau trên ụ nhô có đế xương bàn đạp gắn vào.
- Hố nằm giữa cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục gọi là ngách nhĩ.
- Lồi ống thần kinh mặt: do đoạn II của ống thần kinh mặt tạo nên, nằm

vắt ngay phía trên của cửa sổ bầu dục.
Hình 1.3. Thành trong hòm nhĩ [ ]
8
Để phục vụ cho mục tiêu của đề tài nghiên cứu, chúng tôi xin trình bày
thêm về giải phẫu và chức năng của cửa sổ tròn.


Cửa sổ tròn: cửa sổ tròn cùng với cửa sổ bầu dục là hai miệng để
vào tai trong. Cửa sổ tròn nằm ở dưới và sau một chút so với cửa sổ bầu dục,
giữa cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục được phân cách bởi sườn sau của ụ nhô.
Vị trí của cửa sổ tròn chính là đáy của một lõm hình phễu (hố cửa sổ tròn)
mà xung quanh là xương của ốc tai xương. Ở trạng thái bình thường cửa sổ
tròn được đậy bởi một màng, còn được gọi là màng nhĩ phụ hay màng cửa sổ
tròn. Từ hòm nhĩ có thể nhìn thấy phần trung tâm màng cửa sổ tròn bị lõm,
và lồi về phía ốc tai so với viền cửa sổ.
Màng nhĩ phụ hay màng cửa sổ tròn được cấu tạo bởi 3 lớp sau :
Lớp ngoài hay còn được biết là lớp niêm mạc, nú cú nguồn gốc là lớp niêm
mạc của hòm nhĩ.
Lớp giữa là lớp xơ.
Lớp trong là màng lót của ốc tai.
Cả hai cửa sổ bầu dục và cửa sổ tròn có kích cỡ tương tự nhau, xấp xỉ
2,5 mm
2
. Lối vào của hố cửa sổ tròn thì thường nhỏ hơn so với kích cỡ này.
Chức năng của cửa sổ tròn
Sự dẫn truyền qua chuỗi xương con làm thay đổi áp lực ở cửa sổ bầu
dục, tạo nên sự di chuyển của ngoại dịch từ vịn tiền đình đến vịn nhĩ. Sự lệch
pha của cửa sổ bầu dục và màng nhĩ phụ (Scarpa) ở cửa sổ tròn tạo nên sự
dịch chuyển của ngoại dịch, gõy nên cỏc rung động. Các rung động này được
truyền tiếp đến cơ quan Corti, hoạt động điện sinh học của cơ quan Corti tập

hợp thành các kích thích nghe được chuyển qua thần kinh VIII lên vỏ não.
9
Hình 1.4. Hình ảnh minh họa cơ chế hoạt động của ốc tai
Thành trên: còn gọi là trần hòm nhĩ, là một lớp xương mỏng ngăn cách
hòm nhĩ với hố não giữa, do xương trai và xương đá tạo thành.
Thành dưới hay thành tĩnh mạch cảnh: là một mảnh xương mỏng hẹp
ngăn cách hòm tai với hố tĩnh mạch cảnh. Sàn thấp hơn thành dưới ống tai
ngoài độ 1-2 mm
Thành trước hay thành động mạch cảnh: thành này có ống cơ căng
màng nhĩ ở trên, lỗ thông hòm nhĩ với vòi tai ở dưới. Dưới lỗ thông hòm nhĩ
với vòi tai là vách xương mỏng ngăn cách hòm tai với động mạch cảnh trong.
Thành sau hay thành chũm:
Ở trên có một ống thông với sào bào gọi là sào đạo. Trên thành trong
của sào đạo là lồi ống bỏn khuyờn ngoài.
Mỏm tháp nằm ngay sau cửa sổ bầu dục và trước đoạn 3 của dây thần
kinh mặt, cú gõn cơ bàn đạp chui ra bám vào cổ xương bàn đạp.
* Các tầng hòm nhĩ: Hòm nhĩ được chia thành 3 tầng
Vịn ốc tai
Mảnh xoắn ốc
Cửa sổ bầu dục
Khe xoắn ốc
Ống ốc tai
Vịn tiền đình
Cửa sổ tròn
10
Thượng nhĩ: Thượng nhĩ được chia làm 2 phần ngoài và trong. Chỉ có
thượng nhĩ trong thông với hạ nhĩ còn thượng nhĩ ngoài khụng thụng với hạ
nhĩ. Thượng nhĩ rất kém thông khí, là nơi chứa xương con.
Hạ nhĩ: Là phần tai giữa nằm phía dưới sàn của ống tai xương.
Trung nhĩ: Nằm giữa thượng nhĩ và hạ nhĩ.

1.2.2.2. Màng nhĩ
Là một màng mỏng nhưng dai và chắc, che ở phía ngoài hòm nhĩ, ngăn
cách ống tai ngoài và tai giữa. Màng nhĩ có mầu hơi xám, sáng bóng. Màng
nhĩ có 2 hình dạng cơ bản, hình tròn và bầu dục.
Kích thước của màng nhĩ trung bình ở người Việt Nam :
Đường kính dọc: 8,65 ± 0,85 mm. Đường kính ngang qua rốn nhĩ :
7,72 ± 0,52 mm.
Mặt trong của màng nhĩ được gắn chặt với cán của xương búa cho tới
tận rốn nhĩ, điểm mà màng nhĩ nhô về phía hòm nhĩ.
Hình 1.5. Màng nhĩ [18]
11
Cấu tạo: Màng nhĩ gồm 2 phần là màng chùng và màng căng.
Màng chùng: là màng mỏng có hình tam giác ngăn cách với màng căng
bởi dây chằng nhĩ búa trước và nhĩ búa sau, qua rãnh Rivinus gắn trực tiếp
vào phần xương thành trên ống tai. Màng chùng cấu tạo gồm 2 lớp: lớp ngoài
tế bào biểu mô liên tiếp với tế bào biểu mô vảy của ống tai ngoài, lớp trong là
lớp tế bào trụ có lông chuyển.
Màng căng: có 3 lớp
Lớp ngoài: liên tiếp với lớp biểu mô ống tai ngoài.
Lớp giữa: lớp sợi gồm có sợi tia, sợi vòng, sợi bán nguyệt và sợi parabol.
Lớp trong: là lớp niêm mạc liên tục với niêm mạc của hòm nhĩ.
Chức năng của màng nhĩ: Màng nhĩ có 2 chức năng:
Dẫn truyền âm thanh từ môi trường ngoài dưới dạng sóng Viba thành
chuyển động cơ học qua hệ thống xương con, để truyền tới cửa sổ bầu dục và đi
vào môi trường dịch của tai trong. Ngoài ra màng nhĩ còn khuếch đại âm thanh.
Chức năng bảo vệ: ngăn chặn sự viêm nhiễm từ tai ngoài vào tai giữa.
1.2.2.3. Vòi nhĩ
Vòi nhĩ (Eustachi) nối liền hòm nhĩ với họng – mũi. Đây là một cái ống
dài độ 35 mm và gồm có hai đoạn : đoạn sau bằng xương (1/3 chiều dài) và
đoạn trước bằng sụn (2/3 chiều dài).

Hai đầu của vòi nhĩ thì rộng còn chỗ nối của hai đoạn thì hẹp và được
gọi là eo vòi (kt 2mm x 1mm).
Hướng đi của vòi nhĩ là từ trên xuống dưới, từ sau ra trước và từ trong
ra ngoài. Vòi nhĩ tận cùng ở thành bên họng- mũi bằng một cái loa hình dấu
mũ gọi là loa vòi. Loa này có hai mép: mép trước gọi là mộp vũi - khuẩu cỏi,
mộp sau gọi là vòi họng. Ở sau loa vũi cú một cái hố gọi là hố Rosenmuller.
Bình thường thỡ vũi nhĩ đúng kín do hai thành sụn khép lại. Nhưng khi
cơ màn hầu co lại thì lòng của vòi Eustachi mở ra.
12
Niêm mạc của vòi Eustachi chứa đựng nhiều nang lympho. Những
nang này tập hợp lại chung quanh loa vòi thành một khối gọi là Amydan vòi
của Gerlach.
chức năng của vòi nhĩ
Bình thường màng nhĩ đóng lại, không có sự thông thương giữa hòm
nhĩ và vòm mũi họng. Khi chúng ta nuốt hoặc ngỏp thỡ vũi nhĩ mở ra cho
không khí ở mũi vào hòm nhĩ.
Sự có mặt của không khí trong hòm nhĩ là rất cần thiết cho sự rung
động của màng nhĩ. Nếu không khí ở đấy giảm xuống thì sẽ làm cho màng
nhĩ bị lõm và rung động kém, tai sẽ nghe kém hoặc có tiếng ù.
1.2.3. Tai trong
1.2.3.1 Ốc tai xương
Là một ống xoắn ốc, hình nón cao khoảng 5 ly, đáy có đường kính xấp
xỉ 9 ly ở giữa có trụ ốc, xung quanh có ống xoắn ốc quấn thành hình xoắn, dài
32 ly. Nó gồm 2 vòng rưỡi, xoắn quanh một hình chóp nón rỗng gọi là trụ ốc.
Ốc tai được chia làm 2 vịn:
-Vịn tiền đình ở trên, vịn nhĩ ở dưới, hai vịn này thông với nhau ở
chỏm của ốc tai. Vịn tiền đình có cửa sổ bầu dục và đế xương bàn đạp bịt lại,
trong vịn tiền đình có chứa ống ốc tai, trong ống ốc tai có chứa nội dịch.
- Vịn nhĩ lồi vào tai giữa thành ụ nhô, ở bên có cửa sổ tròn, có màng
nhĩ phụ bịt kín [21].

13
Hình 1.6. Mê nhĩ xương [ ]
1. Ống bỏn khuyờn trờn 4. Cửa sổ tròn 7. Ốc tai
2. Ống bỏn khuyờn bờn 5. Cửa sổ bầu dục 8. Mào ốc tai
3. Ống bỏn khuyờn sau 6. Đáy ốc tai 9. Tiền đình
Ốc tai xương bọc ngoài ốc tai màng, có cấu trúc in khớp, giữa ốc tai
xương và ốc tai màng có chứa ngoại dịch.
Ốc tai cho ta biết cường độ và âm sắc của tiếng động.
1.2.3.2 SỐc tai màng
Còn gọi là ống ốc tai, chứa đựng bộ phận chủ yếu tiếp nhận âm thanh là
cơ quan Corti.
Ống ốc tai có hình trụ tam giác, nằm trong vịn tiền đình, có ba thành.
Thành trên là màng Reissner
14
Hình 1.7. Thiết đồ cắt ngang ống ốc tai. [68 ]
- Thành dưới là màng đáy dài khoảng 30-35mm, ở đáy ốc tai hẹp và dầy, càng
lên cao càng rộng và mỏng (chiều rộng ở đáy khoảng 150 micro met, ở đỉnh ≈
450 µm). Cấu trúc như vậy làm hco nó tiếp nhận âm thanh theo tần số sóng
âm ở từng vùng. Nhìn chung âm thanh có tần số cao được tiếp nhận ở vựng
đỏy, cũn õm cú tần số âm trầm tiếp nhận ở vùng đỉnh.
Thành ngoài là mảnh vòng quanh, ở đây cốt mạc dầy và gồ thành dây chằng
xoắn ngoài, phía trong có lớp vân mạch,với nhiều mạch máu và một lớp biểu
mô tầng [18].
* Cơ quan Corti
Hình 1.8. Cơ quan Corti. [68 ]
Tế bào Deiters
Hầm Corti
TB Claudius
M ng à nền
TB lông ngoài

TB Hensen
TB Boettcher TB lông trong
M ng mà ái
Sợi TB lông trong
TB lông trong
Các TBtrụ
15
Là bộ phận chủ yếu của cơ quan thính giác, nằm trong nội dịch của ống
ốc tai, ở trên màng đáy và có cấu trúc phức tạp, bao gồm các thành phần:
+ Màng mái: Là một phần của màng xoắn trên toàn bộ chiều dài của cơ quan
Corti, có chiều rộng và dày tăng dần từ đỏy lờn đỉnh ốc tai. Phía trong màng
mỏi cú một trụ rung chuyển, trụ này lệch vào phía trong so với trụ màng đáy
để tạo ra sự di chuyển cỏc lụng của tế bào thần kinh ở màng mái. Màng mái
nằm dựa nhẹ lờn cỏc tế bào lông của cơ quan Corti, có một khoảng cách để
đảm bảo sự rung động của cỏc lụng tế bào thần kinh này.
+ Các trụ: Tạo thành khung ở giữa cơ quan Corti, được sắp xếp thành
hai dãy trụ: Các trụ trong và trụ ngoài, các trụ này khi lờn trên chúng hội tụ
lại thành một khoang hình tam giác gọi là đường hầm Corti [11], [21].
+ Các tế bào nâng đỡ gồm:
Tế bào nâng đỡ trong: Đi từ chân màng mái tới tựa vào trụ trong. Đầu trên
của tế bào này cùng với đầu trên của trụ trong tạo thành yếu tố nâng đỡ bao
quanh tế bào lông trong.
Các tế bào nâng đỡ ngoài: Ở ngoài trụ ngoài gồm các lớp tế bào :
* Tế bào Deiters
* Tế bào Hansen
* Tế bào Claudius
+ Các tế bào giác quan: Gồm các tế bào lông trong và tế bào lông ngoài.
Tế bào lông trong: Có khoảng 4500 tế bào, đó là các tế bào hình trụ, đầu nhỏ
xếp thành một dãy ở phía trong trụ trong.
Tế bào lông ngoài: Có khoảng 12.000 – 20.000 tế bào, hình trụ đầu to, xếp

thành 3 dãy ở phía ngoài trụ ngoài.
Ốc tai được chi phối bởi 3 sợi dây thần kinh: Tự động, hướng tâm và ly tâm.
Thần kinh tự động thường đi kèm với các mạch máu và thần kinh của trụ ốc
tai và mảnh xoắn.
16
Tế bào lông trong và tế bào lông ngoài của cơ quan Corti được chi phối bởi
hai loại thần kinh là hướng tâm và ly tâm.
Có 90% các sợi hướng tâm tạo Synape trực tiếp với đáy tế bào lông trong còn
lại 10 % cho tế bào lông ngoài.
Các sợi ly tâm tạo Synape trực tiếp với tế bào lông ngoài, không trực tiếp với
tế bào lông trong mà nó tạo Synape với phần tận cùng của sợi hướng tâm. Vai
trò của các sợi ly tâm là ức chế những điểm khác nhau của cơ quan Corti, điều
này giúp ta có thể hướng sự chú ý vào cỏc õm nhất định và bỏ qua cỏc õm
khỏc.
1.2.3.3. Dịch mê nhĩ
+ Ngoại dịch: Nằm trong khoang ngoại dịch giữa mê nhĩ xương và mê
nhĩ màng, tức là nằm xung quanh ống bỏn khuyờn màng, xung quanh cầu
nang, xoan nang, ở vịn tiền đình và vịn nhĩ.
+ Nội dịch: Ở trong mê nhĩ màng, trong xoan nang, trong cầu nang,
trong ống và túi nội dịch, trong ống ốc tai, ống bỏn khuyờn màng. Nội dịch
được sản xuất bởi vân mạch [21], [42].
1.2.4. Động mạch cấp máu cho ốc tai
Động mạch tai trong có thể tách trực tiếp từ động mạch thân nền hoặc từ một
nhánh một nhánh của động mạch thõn nền là động mạch tiểu não trước dưới.
Sau khi cấp máu cho dây thần kinh số VIII, động mạch tai trong đi tiếp bằng
một mạch máu nhỏ đường kính khoảng 200 micromet rồi phân thành 3 nhánh
tận cấp máu cho mê nhĩ màng [26], [42].
17
Hình 1.9 Động mạch cấp máu cho ốc tai và tiền đình[71]
Động mạch tiền đình: Cấp máu cho phần sau trên của cầu nang và xoan nang

đầu bóng của 2 ống bỏn khuyờn nằm và đứng.
Động mạch tiền đình - ốc tai: Cấp máu cho xoan nang và phần lớn cầu nang
rồi chia làm 2 nhánh, một nhánh chạy vào thân và phần sau của xoan nang,
đầu và bóng của ống bỏn khuyờn đứng ngang, một nhánh đến vòng xoắn ốc
tai.
Động mạch ốc tai riêng : Đi vào trụ ốc cấp máu cho động mạch dây chằng xoắn
( động mạch vằn mạch) liên quan với vằn mạch và cho động mạch hạch xoắn,
cuối cùng cho một nhánh nối với động mạch tiền đình - ốc tai.
Ốc tai được cấp máu bởi một mạch máu nhỏ và rất ít nhánh nối, do đó phần
ốc tai có thể bị đe doạ khi một trong những động mạch sau bị thiếu máu:
Động mạch tai trong, động mạch tiểu não trước dưới, động mạch thân nền
hoặc động mạch đốt sống.
18
Hình 1.10. Các động mạch ốc tai riêng.[71]
1.2.5. Dây thần kinh ốc tai
+ Dây thần kinh ốc tai: Dây thần kinh ốc tai cú nguyờn uỷ từ các hạch
xoắn, từ các hạch này các tế bào hướng tâm 2 cực cho sợi đi ra các tế bào
lông trong và tế bào lông ngoài để cảm giác âm thanh, cũn cỏc sợi đi vào tạo
thành các dây nhỏ qua trụ ốc tai tới đáy ống tai trong tụ họp thành dây thần
kinh ốc tai.
Phần ốc tai và tiền đình của dây VIII nằm trong một bao chung trong
ống tai trong, cú liờn quan đến dây thần kinh mặt, sau đó thoát ra ở lỗ tai
trong rồi đến hành tuỷ [21], [30], [37] .
Tĩnh mạch ốc
tai sau
Tĩnh mạch ốc tai
trước
Tiểu động mạch hạch
xoắn
Động mạch ốc

tai
Tiểu ĐM dây
chằng xoắn
Tĩnh mạch ốc
tai trước
Dây chằng xoắn
ngoài
Đám rối đm gò
ốc tai
Động mạch
Vân mạch
Đám rối đm trên
vân
19
Hình 1.11. Thần kinh thính giác [ ]
1.3. SINH LÝ NGHE
Sinh lý nghe có 2 phần cơ bản là:
Sinh lý nghe truyền âm .
Sinh lý nghe tiếp âm.
Trong phạm vi này chúng tôi chỉ giới hạn trình bày phần sinh lý nghe tiếp âm.
Sinh lý nghe tiếp âm:
Sự pháp sinh xung động từ ốc tai.
Trong loa đạo luôn có điện thế thường xuyên, khi kích thích âm sẽ xuất hiện
điên thế vi âm và điện thế tập hợp dẫn đến sự giải phóng các chất trung gian
hoá học trong các tế bào lông làm xuất hiện điện thế hoạt động ở synap và sợi
thần kinh thính giác. Từ đõy điện thế hoạt động sẽ được dẫn truyền dưới dạng
xung động thần kinh theo dây VIII, qua thõn nóo lờn vỏ não.
Bóng màng trên
Ống BKtrên
Bóng màng ngoài

Ống BK ngoài
TK tiền đình trên
TK Ốc tai
TK TĐ- OT
TK tiền đình dưới
Ống nội bạch huyết
Ống BK sau
Bóng màng sau
Ống màng chung
Hạch tiền đình
20
Đường dẫn truyền thần kinh thính giác từ dây thần kinh ốc tai, qua thõn
nóo lờn vỏ não.
+ Dây thần kinh ốc tai
Dây thần kinh cú nguyờn uỷ từ các hạch xoắn, từ các hạch này các tế
bào hướng tâm hai cực cho các sợi đi ra các tế bào lông trong và lông ngoài
để cảm giác âm thanh, cũn cỏc sợi đi vào tạo thành các sợi nhỏ qua trụ ốc tai
tới đáy ống tai trong tụ họp thành dây thần kinh ốc tai.
Phần ốc tai và tiền đình của dây VIII nằm trong một bao chung trong
ống tai trong, có liên quan với dây thần kinh mặt, sau đó thoát ra ở lỗ tai trong
rồi đi đến hành tuỷ.
+ Đường dẫn truyền thính giác từ thõn nóo lờn vỏ não
* Nhân ốc tai.
Nhân ốc tai là trạm dừng bắt buộc đầu tiên của tất cả các sợi hướng
tâm đi vào từ dây ốc tai. Nó nằm ở hai bên rãnh hành cầu và phía ngoài điểm
vào của dây thần kinh VIII.
Nhân ốc tai được chia làm hai nhúm chớnh là nhân ốc tai lưng và nhân
ốc tai bụng. Nhân ốc tai bụng lại chia làm hai nhóm phụ là nhân ốc tai bụng
trước và nhân ốc tai bụng sau.
Nhân ốc tai bụng là chặng dừng chân của các sợi thần kinh nhận cảm

giác âm thanh ở tần số thấp.
Nhân ốc tai lưng là chặng dừng chân của các sợi thần kinh nhận cảm
giác âm thanh ở tần số cao.
Từ nhân ốc tai, neuron thứ hai bắt chéo sang bên đối diện qua thể thang
đến phức hợp trỏm trờn. Tuy nhiên một số sợi không bắt chéo mà tới cỏc
nhõn trỏm cựng bờn.
* Phức hợp nhõn trỏm trờn
21
Phức hợp nhõn trỏm trờn nằm ở phần sau của cầu não, phức hợp nhân
này bao gồm: nhân trong của phức hợp trỏm, nhõn ngoài của phức hợp trỏm,
nhõn trong của thể thang, nhân quanh trám.
* Dải Reil bên
Dải Reil bên là đường hướng tâm chính dẫn truyền cảm giác âm thanh, nằm
phía sau sát mặt ngoài của thõn nóo. Nú nối nhân ốc tai và phúc hợp trỏm
trờn với của não sinh tư dưới. Đi kèm với rải Reil bên là ba nhúm nhõn đó là
nhân bụng, nhân lưng và nhân giữa. Nhân của rải Reil bên ở phía trước nhận
sau nhận các kích thích âm thanh có tần số thấp.
* Củ não sinh tư dưới
Củ não sinh tư dưới là cấu trúc lớn của bộ máy thính giác và dễ phân biệt của
thõn nóo, nằm ở mặt lưng của não giữa.
Phần lớn các sợi thính giác từ rải Reil bên và các trung tâm thính giác thấp hơn
nối trực tiếp hay gián tiếp, cựng bờn hay đối bên đến củ não sinh tư dưới.
Từ củ não sinh tư dưới cú cỏc nhỏnh dẫn truyền cảm giác âm thanh tới thể gối
giữa cựng bờn.
* Thể gối giữa, vỏ não
Thể gối giữa nằm ở mặt lưng bên của đồi thị, cách củ não sinh tư dưới khoảng
1cm.
Đường dẫn truyền chính đến thể gối giữa chủ yếu từ củ não sinh tư dưới qua
cỏc nhỏnh cựng bờn, một số đường có thể đi trực tiếp từ một số nhân thấp
hơn tới thể gối giữa.

Từ thể gối giữa cho các tia thính giác đi tới vùng nghe ở thuỳ thái dương trên
vỏ não cựng bờn.
22
Hình 1.12 Đường dẫn truyền thính giác lờn nóo [52]
1.4. BỆNH HỌC ĐIẾC ĐỘT NGỘT
1.4.1. Nguyên nhân điếc đột ngột
Điếc đột ngột có thể xảy ra do tổn thương tại ốc tai hoặc dây thần kinh
thính giác hay tổn thương thần kinh trung ương.
1.4.1.1 Nguyên nhân tại ốc tai
Đến nay đó cú rất nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây ra
điếc đột ngột nhưng vấn đề này vẫn còn nhiều khó khăn, phần lớn các trường
hợp không tìm thấy nguyên nhân. Một số giả thuyết về nguyên nhân bệnh sinh
được nhiều tác giả nhắc đến đó là: Thuyết do virus, do mạch máu, do miễn dịch…
Do virus:
Neuron loại 1
Thần kinh
TĐ – OT
Cấu trúc lưới Phức hợp trám trên

Nhân Ốc tai
Củ não sinh tư trên
Thể gối giữa
Cấu trúc lưới
Vỏ não thuỳ thái
dương
23
Wilson và cộng sự (1983) [69] nghiên cứu trên 122 bệnh nhân bị điếc đột
ngột và thấy rằng có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm bị nhiễm virus và nhóm
chứng.
Những nghiên cứu trên xương thái dương của Schuknecht [53] cho thấy rằng

có mối liờn quan giữa điếc đột ngột và tình trạng nhiễm virus. Người ta đã
tìm thấy virus hoặc kháng thể kháng virus trong ngoại dịch của bệnh nhân bị
điếc đột ngột.
Trên thế giới đó cú tác giả phân lập và nuôi cấy được virus quai bị trong
ngoại dịch của bệnh nhân bị điếc đột ngột, huyết thanh học chẩn đoán cũng đã
được tiến hành và khoảng 6 % các trương hợp đã tìm thấy kháng thể IgM
kháng loại virus này… Các bệnh lý có thể gây ra điếc đột ngột như : Quai bị,
thuỷ đậu, Zona, HIV, nhiễm khuẩn bạch cầu đơn nhõn…
Trước đây khi chưa có vacxin, tỷ lệ điếc do sởi cỏ thể chiếm tới 5-10% nhưng
từ khi có vacxin phòng bệnh thì tỷ lệ sởi gây biến chứng điếc giảm xuống
đáng kể chỉ còn 1% [62].
David và Johnson [35] đã chứng minh khả năng virus cúm và quai bị có thể
tác động vào tai trong.
Do mạch máu:
Nghiên cứu của Kimura và Perlman (1957) cho thấy rằng ngừng cung cấp
máu của động mạch tai trong ở chuột lang trên 30 phút sẽ dẫn tới mất chức
năng của ốc tai không thể hồi phục. Nghiên cứu của Albers và Schirm trên
động vật thí nghiệm cũng cho thấy sự thay đổi của cơ quan Corti, màng đỏy,
võn mạch, thần kinh ốc tai và cơ quan tiền đình, khi ngừng cung cấp máu cho
tai trong [60]. Suga và cộng sự nhấn mạnh những thử nghiệm gây tắc mạch
của động mạch ốc tai gây nên hiện tượng mất thỡnh giác của ốc tai trong vòng
60 giây.
Các bệnh lý mạch máu có thể gây điếc đột ngột như:
24
Tăng huyết áp
Bệnh Berger
Bệnh máu tăng đông
Tăng độ nhớt của máu
Các bệnh lý này có thể gây ra hiện tượng tắc mạch, co thắt mạch, hoặc vỡ
mạch ở ốc tai dẫn đến điếc đột ngột.

 Tổn thương trực tiếp cỏc nhánh tận cấp máu cho ốc tai :
- Co thắt động mạch hạch xoắn : Đây là một dạng điếc tai trong không nặng
lắm, thính lực giảm ở các tần số cao, cũn cỏc tần số trầm còn tốt. Bệnh nhân
có ù tai tiếng cao, không có cảm giác tức nặng trong tai ( vì không có áp nội
hay ngoại dịch ).
- Co thắt động mạch dây chằng xoắn : kết quả gây tăng xuất tiết nội dịch làm
cho ốc tai màng sũng nước. Áp xuất nội dịch cao có thể tràn vào tiền đình do
hỏng van ngăn cách giữa ốc tai và tiền đình. Loại này trờn thính lực đồ thấy
sức nghe giảm nhiều ở các tần số trầm, bệnh nhõn có ù tai, cảm giác đầy tai
hoặc tức nặng trong tai.
- Co thắt động mạch ốc tai riờng : gõy điếc hoàn toàn tai trong, kèm theo
bệnh nhân có hiện tượng nghe đôi và hồi thính.
Do nguyên nhân miễn dịch:
Điếc đột ngột có thể gặp trên những bệnh nhân bị Luput, viờm nỳt quanh
động mạch hay hội chứng Cogan. Theo McCabe điếc đột ngột cú liờn quan
đến bệnh tự miễn ở tai trong. Test ức chế miễn dịch dương tính ở những bệnh
nhân nghiên cứu, và việc điều trị bằng corticoid có kết quả tốt cũng chứng
minh cho giả thuyết này.
Do nhiễm độc:
25
Nhiễm độc do thuốc đứng hang đầu, trong đó chủ yếu là nhiễm độc kháng
sinh nhóm Aminozid. Do sự lắng đọng của thuốc trong nội dịch tai trong gây
ra những hậu quả kéo dài ngay cả khi đã ngừng sử dụng thuốc.
Nhiễm độc do rượu
Nhiễm độc do thuốc lá
Do rối loạn chuyển hoá:
Các nguyên nhân gây ra rối loạ chuyể hoá toàn thể:
Suy thận
Nhiễm toan máu do nguyên nhân tại thận
Đái tháo đường

Tăng lipid máu
Suy giáp trạng
Các rối loạn chuyển hoá thường đưa đến tình trạng thiếu máu của tai trong
hoặc gây tình trạng nhiễm độc tai trong.
Do các bệnh máu
Bệnh của hệ thống tạo máu
Bệnh đa hồng cầu (Vaquez)
Bệnh hồng cầu hình liềm
Bệnh đông globulin
Sự thiếu máu và chứng nghẽn mạch sẽ gây nên sự thiếu hụt máu ở trong ốc tai
và sẽ dẫn đến thiếu máu thứ phát của các tế bào lông và vân mạch là nguyên
nhân gây nên điếc tai trong.
Nguyên nhân do chấn thương
Chấn thương làm rách mê nhĩ màng, gõy rũ ngoại dịch, vỡ xương đá, chấn
thương do áp lực, do chấn động õm quỏ lớn, hoặc sau phẫu thuật vào vùng
cửa số tròn và cử sổ bầu dục. Cũng có thể gặp điếc đột ngột sau khi bị điện
giật, sau khi điều trị tia xạ…

×