Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Pháp luật điều chỉnh về chế định miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại và thực tiến áp dụng tại công ty Cổ Phần Giao Thông Công Chính Thạch Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.88 KB, 65 trang )

TÓM LƯỢC
Chương 1 khóa luận nghiên cứu các khái niệm về hợp đồng thương mại, chế độ
trách nhiệm do vi phạm hợp hợp đồng, các chế tài áp dụng khi vi phạm từ đó đưa ra khái
niệm và các trường hợp được miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Phân
tích nội dung các trường hợp miễn trừ được quy định trong Luật Thương mại 2005.
Chương 2 khóa luận tập trung phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật quy định về
miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Qua đó rút ra được những khó khăn
trong việc áp dụng và thi hành quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng. Từ đó cho thấy, những thành công đã đạt được và những hạn chế cò tồn tại trong các
quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm hiện nay.
Từ những đánh giá thực trạng pháp luật quy định về miễn trách nhiệm trong hợp
đồng thương mại, chương 3 khóa luận đưa ra những quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về miễn trách nhiệm trong hợp đồng thương mại.
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận này em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô
giáo trong trường nó chung , các thầy cô giáo khoa Kinh Tế - Luật nói riêng, những thầy cô
đã giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.S Nguyễn Thái Trường người đã
tận tình chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận cho tới khi em hoàn thành
khóa luận này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Hiền
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty Cổ Phần Giao Thông Công Chính Thạch Thành
Hình 2: Sơ đồ thống kê loại hình tranh chấp được giải quyết tại Trung Tâm Trọng Tài
Quốc Tế Việt Nam năm 2014
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật dân sự


CISG Công ước viên 1980
PICC Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
UNIDROIT Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế 2004
UBND Ủy ban nhân dân
QĐ – CT Quyết định chủ tịch
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Lời Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang nền kinh tế thị trường, được thiết lập trên nền tảng pháp lý của quyền tự
do kinh doanh, quan hệ thương mại và đầu tư có phương thức hình thành chủ yếu thông
qua hình thức hợp đồng. Sự thỏa thuận, thống nhất ý chí một cách tự nguyện, bình đẳng
giúp cho các bên có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu nghề nghiệp của
mình. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thỏa thuận tự
nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình đẳng,
an toàn có lợi cho tổ chức, cá nhân. Để nền kinh tế thị trường được vận hành hiệu quả, hoạt
động kinh doanh thương mại diễn ra có trật tự, cần thiết phải thiết kế và xây dựng một hệ
thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính thống nhất cao và một cơ chế hữu
hiệu đảm bảo việc thực thi chúng. Từ năm 2005, khi Luật Thương Mại 2005 và Bộ Luật
Dân sự 2005 (BLDS 2005) được ban hành, pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 bị hủy
bỏ, sự điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại nói riêng đã có sự thay đổi căn bản. Pháp luật đã quy định nghĩa vụ của các bên
trong việc thực hiện các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nền kinh tế thị trường nước ta đã
có những chuyến biến rõ rệt, hoạt động thương mại ngày các phát triển, số lượng giao dịch
thông qua hợp đồng trong lĩnh vực thương mại ngày càng phổ biến. Những khả năng nằm
ngoài dự đoán có thể xảy ra khiến cho một hoặc cả hai bên không thể thực hiện được nghĩa
vụ của mình dẫn đến vi phạm hợp đồng. Nhằm ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hợp
đồng, hệ thống pháp luật các quốc gia và quốc tế đều có quy định các hình thức chế tài
trong thương mại, mỗi hình thức chế tài mang lại những hậu quả bất lợi khác nhau đối với
bên vi phạm hợp đồng. Cùng với các chế tài, pháp luật cũng quy định một số trường hợp,

theo đó bên vi phạm không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do áp dụng các hình thức
chế tài thương mại, đó là các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Đây là
một trong những vấn đề có vai trò quan trọng của pháp luật thương mại, không chỉ đảm
bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, đảm bảo sự tự nguyện thỏa thuận của các
bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm để
trốn tránh trách nhiệm. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan vấn đề này chua được
pháp luật thương mại quy định cụ thể và toàn diện dẫn tới việc áp dụng trong thực tế còn
gặp nhiều khó. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế định miễn trừ
trách nhiệm trong hợp đồng thương mại là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra định
hướng, giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các chế định miễn trừ trách
nhiệm trong hợp đồng thương mại hiện nay. Vì lý do này, tác giả xin phép lựa chọn vấn
“Pháp luật điều chỉnh về chế định miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại và
thực tiến áp dụng tại công ty Cổ Phần Giao Thông Công Chính Thạch Thành” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Kể từ khi Luật Thương Mại 2005 có hiệu lực, các công trình nghiên cứu về pháp
luật về hợp đồng thương mại nói chung đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả.
Có một số công trình, bài nghiên cứu liên quan về vấn đề miễn trừ trách nhiệm với những
phạm vi và góc độ khác nhau như sau:
Công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sỹ Luật học “Chế tài do vi phạm
hợp đồng thương mại – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Hoàng Thị Hà
Phương - Đại Học Luật Hà Nội năm 2012. Luận văn tập trung phân tích vấn đề về chế tài
trong thương mại quy định trong Luật Thương Mại 2005, bên canh đó luận văn còn nêu ra
và làm rõ các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại, đó là
những trường hợp mà bên vi phạm sẽ không phải chịu các hậu quả bất lợi do áp dụng các
hình thức chế tài thương mại. Luận văn thạc sỹ Luật học “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Thu
Huyền – Đại Học Luật Hà Nội năm 2013. Tuy không tập trung chính vào vấn đề miễn trừ
trách nhiệm, nhưng luận văn cũng đã phân tích các trường hợp miễn trừ trách nhiệm mà
bên vi phạm được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.

Công trình nghiên cứu dưới dạng kháo luận tốt nghiệp cử nhân Luật học: “Vấn đề
miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Phạm Thị
Sao - Trường Đại học luật Hà Nội, năm 2011. Trọng tâm của khóa luận không phải là
quy định của pháp luật Thương mại Việt Nam mà tập trung phân tích các quy định của
pháp luật Quốc tế về miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy
nhiên, tác giả cũng đã có sự so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam, để từ đó
thấy được sự khác biệt, những tích cực và hạn chế của pháp luật nước ta quy định về
vấn đề miễn trách nhiệm hiện nay.
Các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết, tạp chí đề cập đến vấn đề miễn trừ
trách nhiệm trong hợp đồng thương mại như bài viết “Bình luận về miễn trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng tại điều 294 Luật Thương Mại 2005” của Thạc sỹ Bùi Hưng Nguyên
được đăng trên website haiphong.gov.vn. Bài viết đã đưa ra những bình luận của tác giả
về Điều 294 Luật Thương Mại 2005 ở cả hai góc độ, tính khả thi và sự tương thích của nó
đối với các điều luật khác có liên quan và tập quán thương mại quốc tế. Bài viết “Miễn
trừ trách nhiệm trong vi phạm hợp đồng thương mại” của Công ty Luật PLF đăng trên
website plf.vn. Bài viết đã phân tích, giải thích và làm rõ các trường hợp được miễn trừ
trách nhiệm theo quy định trong Luật Thương mại 2005, nêu ra những bất cập, khó khăn
khi áp dụng những quy định này vào thực tế.
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tâp trung vào các vấn đề lý luận
và thực tiễn xung quanh vấn đề chế tài trong thương mại, và một phần nào đó đề cấp đến
vấn đề miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu các
công trình đặt ra khác nhau nên chưa đi sâu vào vấn đề miễn trách nhiệm trong hợp đồng
thương mại, có rất ít cônng trình nghiên cứu tập trung phân tích sâu sắc vấn đề này. Đây
là một nội dung quan trọng trong hơp đồng thương mại, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và nghĩa vụ của các bên, góp phần đảm bảo sự công bằng quyền lợi, chia sẻ rủi ro,
ngăn ngừa sự trốn tránh trách nhiệm giữa các bên. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề
miễn trách nhiệm trong hợp đồng thương mại mang tính cấp thiết. Tuy vậy, các công trình
nghiên cứu nói trên là những tài liệu quý giá cho tác giả luận văn tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu của mình.
3. Xác lập và tuyên bố đề tài nghiên cứu

- Phân tích các trường hợp miễn trừ trách nhiệm được quy định trong Luật Thương
Mại 2005.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đông thương mại.
- Đề ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về miễn trừ trách nhiệm trong hợp
đồng thương mại.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: những quy định về miễn trừ trách nhiệm trong
Luật Thương Mại 2005.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: tiếp cận các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến các chế định miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại hiện nay, từ đó có căn
cứ để xác định các trường hợp được miễn trừ, nhằm đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật về miễn trừ trách nhiệm. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý
luận của nền luật học nước ta, khóa luận đặt ra mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về
trường hợp miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại, qua đó đưa ra những định
hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về thời gian: khóa luận nghiên cứu về pháp luật miễn trừ trách nhiệm trong hợp
đồng thương mại từ khi Luật Thương mại 2005 được ban hành cho đến nay.
Về không gian: khóa luận tập trung làm rõ các trường hợp được miễn trừ trách
nhiệm theo quy định của Luật Thương mại 2005, Bộ luật dân sự 2005, Công Ước Viên
1980 (CISG), nghiên cứu điển hình tại công ty Cổ Phần Giao Thông Công Chính Thạch
Thành.
Về nguồn tài liệu: khóa luận không chỉ giới hạn phạm vi nguồn tài liệu về pháp luật
miễn trừ trách nhiệm trong Luật Thuơng mại 2005 mà còn nghiên cứu cả pháp luật miễn
trừ trách nhiệm dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 và pháp luật miễn trừ
trách nhiệm được quy định trong Công ước viên 1980 (CISG).
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích, liệt kê,
so sách, tổng hợp
Phương pháp phân tích: trên cơ sở giải thích các khái niệm, các trường hợp miễn trừ

trách nhiệm để hiểu được bản chất của vấn đề. Phân tích ý nghĩa, vai trò của các chế định
miễn trừ để từ đó thấy được sự cần thiết của việc phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Ngoài ra trên cơ sở đánh giá những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về
miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại để có những phương hướng hoàn thiện
những hạn chế đó.
Phương pháp so sánh: so sánh những quy định về miễn trừ trách nhiệm trong Luật
Thương Mại 2005 và BLDS 2005, các văn bản pháp luật Quốc tế có quy định về miễn trừ
trách nhiệm để từ đó thấy được những hạn chế, tích cực của pháp luật về miễn trừ trách
nhiệm trong hợp đồng thương mại tại Việt Nam hiện nay.
Phương pháp liệt kê: liệt kê tất cả các văn bản pháp luật có liên quan đến miễn trừ
trách nhiệm, để phân tích và làm căn cứ cho phần lý luận.
Phương pháp tổng hợp: đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật điều
chỉnh về chế định miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng thương mại hiện nay.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận có
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản pháp luật điều chỉnh về chế định miễn trừ
trách nhiệm trong hợp đồng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về chế định miễn trừ trách nhiệm trong
hợp đồng thương mại. Thực tiễn áp dụng tại công ty Cổ Phần Giao Thông Công Chính
Thạch Thành.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về miễn trừ
trách nhiệm trong hợp đồng thương mại.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH VỀ CHẾ ĐỊNH MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI
1.1Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Hợp đồng Thương Mại
1.1.1.1 Khái Niệm
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức chủ yếu của các quan hệ tài sản nói chung và

quan hệ kinh doanh nói riêng chính là hợp đồng. Hợp đồng loại hành vi pháp lý cơ bản và
thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự thống
nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh các nghĩa
vụ. Nghĩa vụ này ràng buộc các bên như pháp luật.
Pháp luật hiện hành của nước ta không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương mại,
mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng dân sự. Điều 388 BLDS 2005 quy định
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Với quy định tại Điều 1 BLDS 2005 về phạm vi áp dụng của Bộ
Luật Dân Sự có quy định “Bộ Luật Dân Sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý
cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
về thân nhân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động ” ta có thể hiểu các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng
cho hợp đồng nói chung, trong đó bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực hoạt động thương
mại. Như vậy, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên,
nó có những đặc điểm riêng nhất định khác với những hợp đồng dân sự thông thường
theo cách hiểu truyền thống. Nó chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự và không
khác biệt với các hợp đồng dân sự thông thường ở những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp
đồng, nguyên tắc và các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử
lý hợp đồng vô hiệu Còn lại, xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động thương
mại, một số vấn đề về hợp đồng thương mại được quy định có tính chất là sự phát triền
tiếp tục những quy định truyền thống về hợp đồng trong Luật Dân sự đó là: vấn đề về chủ
thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng
Trong Luật Thương mại 2005 không có khái niệm hợp đồng thương mại, nhưng
theo Điều 1 và Điều 2 Luật Thương mại 2005 (Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều
chỉnh của Luật Thương mại 2005) có thể định nghĩa hợp đồng thương mại: “là hình thức
pháp lý của hành vi thương mại, là sự thỏa thuận để thực hiện các hoạt động thương mại
giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể
có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên
trong việc thực hiện hoạt động thương mại”.
Các hoạt động thương mại xác định theo Luật Thương mại 2005, cụ thể tại Điều 1

Luật Thương mại 2005, theo đó bao gồm: “hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; hoạt động thương mại bên ngoài lãnh thổ
Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọ áp dụng Luật này hoặc Luật nước
ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này”.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác. Hàng hóa trong hợp đồng thương mại bao gồm tất cả các loại động sản (kể cả
động sản hình thành trong tương lai) và những vật gắn liền với đất đai.
1.1.1.2 Đặc Điểm
Hợp đồng thương mại mang những đặc điểm của hợp đồng nói chung, đồng thời
mang những đặc chưng nhất định:
Về Chủ thể của hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại được ký kết giữa các bên là thương nhân, hoặc có một bên là
thương nhân. Đây là một điểm đặc chưng của hợp đồng thương mại so với các loại hợp
đồng dân sự.
Như vậy, chủ thể trong hợp đồng thương mại gồm thương nhân (bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh), cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên quan đến
thương mại (Điều 2 Luật Thương mại 2005).
Nội dung của hợp đồng thương mại
Nội dung của hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng hợp các
điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoàn này xác
định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, sự
khác biệt cơ bản của hợp đồng thương mại là nội dung của hợp đồng thương mại là hoạt
động thương mại. Mỗi loại hợp đồng có những quy định nhất định về các điều khoản cơ
bản. Ví dụ, đối với hợp đồng mua bán điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả.
Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng mà các bên có thể thỏa thuận các điều khoản

khác nhau, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo những quy định của pháp luật
hợp đồng nói chung, được quy định tại BLDS 2005.
1.1.2 Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể liên quan mà các bên
trong hợp đồng có nghĩa vụ phải thực hiện. Khi một bên trong hợp đồng có hành vi vi
phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình.
“Vi phạm hợp đồng được hiểu là hành vi của một bên đã xử sự trái với quy định của
pháp luật hoặc trái với các nội dung đã cam kết”[1, trang 53]. Hành vi vi phạm hợp đồng
trên thực tế có thể là một bên trong quan hệ hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng hay các quy định
pháp luật có liên quan. Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên sẽ gây ra thiệt hại cho bên
bị vi phạm và các bên liên quan, do đó, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi vi
phạm của mình.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một dạng của trách nhiệm pháp lý nói chung,
theo đó, chủ thể vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về mình nhằm
đảm bảo quyền lợi cho bên bị vi phạm cũng như trật tự pháp lý trong hoạt động thương
mại. Trên cơ sở hành vi vi phạm và những hậu quả xảy ra cũng như mức độ lỗi của mình,
bên vi phạm sẽ gánh chịu những trách nhiệm tương ứng do các bên thỏa thuận hoặc được
pháp luật quy định. Như vậy có thể hiểu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại
như sau: “Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại là trách nhiệm tài sản, được
thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định, nhằm phục hồi lại quyền
lợi của bên bị vi phạm và mang lại hậu quả bất lợi cho bên vi phạm”.
1.1.2.2 Các yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
thương mại
Theo Điều 303 Luật Thương mại 2005 Căn cứ xác định trách nhiệm đối với bên có
hành vi vi phạm hợp đồng bao gồm ba yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại
thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Có hành vi vi phạm hợp đồng

Đây là căn cứ cơ bản để quy trách nhiệm, vì hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện,
có hiệu lực pháp luật và sau khi được xác lập, các nghĩa vụ xuất phát từ quan hệ hợp đồng
mang tính bắt buộc, nếu một bên không thi hành thì bị coi là vi phạm pháp luật và bị quy
kết trách nhiệm. Biểu hiện của vi phạm hợp đồng có thể là một bên trong hợp đồng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng. Cơ sở
để đánh giá hàng vi này chính là các nội dung đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng
cũng như là các quy định của pháp luật có liên quan.
Luật Thương mại Việt Nam quy định, nghĩa vụ chứng minh vi phạm hợp đồng là
của bên bị vi phạm (Điều 304 Luật Thương mại 2005). Trên thực tế, để xác định có hay
không sự vi phạm hợp đồng, các bên cần chứng minh được các quan hệ hợp đồng hợp
pháp giữa các bên và có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Nếu vấn đề không được thỏa thuận trong hợp đồng cũng
không được pháp luật quy định thì không có cơ sở pháp lý để buộc bên có hành vi không
phù hợp phải chịu trách nhiệm. Bên nào có hành vi vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm đối
với bên bị vi phạm.
Có thiệt hại thực tế
Đây là yếu tố cần thiết, đặc biệt cho trường hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi
thường thiệt hại. Thông thường, thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu có thể là thiệt
hại về vật chất và tinh thần. Song Luật Thương mại Việt Nam cũng như luật các nước
thường chỉ thừa nhận những thiệt hại về vật chất mới là yếu tố để quy trách nhiệm. Do có
hành vi vi phạm hợp đồng của một bên chủ thể đã gây ra sự mất mát hay giảm sút một lợi
ích được pháp luật bảo vệ cho bên bị vi phạm. Đây là những thiệt hại có thể xác định
được bằng vật chất, có thể dự đoán được và lúc ký kết hợp đồng và là hệ quả do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: “tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải
bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cũng như những hao lợi, lợi túc không thu được
mà đáng ra thu được”. Những thiệt hại này do bên bị vi phạm có nghĩa vụ chứng minh để
yêu cầu bên vi phạm chịu trách nhiệm và bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng
với mực độ thiệt hại thực tế xảy ra.
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

Trong khoa học pháp lý, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và
thiệt hại xảy ra được hiểu là giữa chúng có mối quan hệ nội tại, tất yếu. Như vậy, hành vi
vi phạm hợp đồng của một bên là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả và thiệt hại thực
tế xảy ra cho bên bị vi phạm, không có hành vi vi phạm thì không phát sinh thiệt hại. Chỉ
khi nào tồn tại mối quan hệ này thì bên vi phạm mới phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình và những thiệt hại không do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra mà do
những nguyên nhân khác sẽ không là căn cứ để bên vi phạm phải chịu trách nhiệm
1.1.3 Các hình thức chế tài áp dụng do vi phạm hợp đồng thương mại
Khi vi phạm hợp đồng thương mại, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước bên bị
vi phạm thông qua các hình thức trách nhiệm gọi là chế tài. Theo pháp luật Việt Nam, các
chế tài thương mại được hiều là các biên pháp pháp lý mang tính tài sản do bên bị vi
phạm lựa chọn để áp dụng đối với bên vi phạm nhằm mục đích ngăn ngừa, trừng trị và
giáo dục. Như vậy, các chế tài thương mại được áp dụng là để khôi phục về mặt vật chất
cho bên bị vi phạm hoặc là để ngăn ngừa thiệt hại hay có ý nghĩa trừng phạt về mặt vật
chất đối với bên vi phạm hợp đồng. Do đó, các chế tài được các bên áp dụng cho các vi
phạm xuất hiện từ lúc ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.
Tùy thuộc vào các vi phạm và các quy định khác nhau trong hợp đồng mà các chế
tài khác nhau được áp dụng. Theo Điều 292 Luật Thương mại 2005 có các loại chế tài
trong thương mại như: buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường
thiệt hại; tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ thực hiện hợp đồng; các biện pháp khác.
1.1.3.1 Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chế tài này được hiểu là bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp
đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
các chi phí phát sinh (Khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại 2005). Cơ sở của chế tài này
chính là mục đích của các bên khi giao kết hợp đồng, đó là quyền và nghĩa vụ đã thỏa
thuận trong hợp đồng được thực hiện đúng và đầy đủ, mang lại lợi ích cho các bên. Biện
pháp này nhằm bảo vệ quan hệ hợp đồng và giúp các bên đạt được những lợi ích mà họ
hướng đến khi giao kết hợp đồng. Căn cứ để bên bị vi phạm áp dụng chế tài này chính là
có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm mà không cần phải chứng minh
thiệt hại xảy ra.

Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các chế tài và là
tiền đề để thực hiện các chế tài khác.
1.1.3.2 Chế tài phạt vi phạm
Theo Điều 300 Luật Thương mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”.
Từ định nghĩa trên cho thấy, phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa
thuận về việc áp dụng chế tài này.
Quy định này nhằm mục đích trừng phạt hành vi vi phạm và răn đe, buộc các bên
phải có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng, nâng cao ý thức tôn trọng hợp
đồng và pháp luật. Cơ sở áp dụng chế tài này là có hành vi vi phạm và lỗi của bên vi
phạm mà không cần quan tâm hành vi vi phạm đó đã gây ra hậu quả chưa.
1.1.3.3 Chế tài bồi thường thiệt hại
Theo Khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại 2005: “Bồi thường thiệt hại là bên vi
phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm”. Trách nhiệm này được áp dụng nhằm bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất
do bị thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho họ. Căn
cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại không chỉ là hành vi vi phạm hợp đồng và lỗi
của bên vi phạm mà còn phải có thiệt hại thực tế xảy ra cũng như mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra trên thực tế (hành vi vi phạm là nguyên nhân gây
ra thiệt hại). Nghĩa vụ chứng minh thiệt hại thuộc về bên bị vi phạm. Về nguyên tắc, bồi
thường thiệt hại phải thực hiện đầy đủ và tương ứng với mức độ thiệt hại xảy ra.
1.1.3.4 Tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện các nghĩa vụ hợp
đồng, theo đó hiệu lực hợp đồng sẽ bị chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông
báo đình chỉ, các bên không phải thực hiện hợp đồng nữa. Bên nào đã thực hiện nghĩa vụ
thì có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đối xứng.
Hủy bỏ hợp đồng là việc một bên chấm dứt các quyền và nghĩa vụ hợp đồng và hợp

đồng sẽ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên có trách nhiệm hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận, bên nào đã thực hiện nghĩa vụ thì sẽ được yêu cầu bên kia thực
hiện nghĩa vụ tương ứng.
1.1.4 Miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại
Khi một bên vi phạm hợp đồng, bên vi phạm đó có trách nhiệm phải chịu các chế tài
tương ứng với hành vi vi phạm của mình theo thỏa thuận trong hợp đồng và các quy định
pháp luật liên quan. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp bên vi phạm đều phải chịu
chế tài, đó là khi hành vi vi phạm hợp đồng thuộc và những trường hợp miễn trừ trách
nhiệm.
1.1.4.1 Khái niệm
Miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại là việc một bên vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng thương mại không bị áp dụng các hình thức chế tài. Về bản chất, các
trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng là những trường hợp loại trừ yếu tố có lỗi của bên
vi phạm. Cơ sở để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm là họ không có lỗi khi không thực
hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng. Nếu bên vi phạm hợp đồng có khả năng lựa
chọn xử sự nào khác ngoài xử sự gây thiệt hại mà không lựa chọn thì bị coi là có lỗi
ngược lại, nếu không có khả năng lựa chọn xử sự nào khác thì được coi là không có lỗi và
không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình. Các trường hợp này có thể là
các trường hợp do các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc quy định của pháp luật. Khi
bên vi phạm chứng minh được mình thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm, họ sẽ không
phải chịu các giải pháp chế tài do vi phạm hợp đồng.
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
được quy định tại Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 bao gồm:
Trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng
Xảy ra sự kiên bất khả kháng
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
1.2Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về miễn trừ trách nhiệm
trong hợp đồng thương mại

1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng
thương mại
Luật Thương mại Việt Nam 1997 là đạo luật thương mại đầu tiên, là văn bản quan
trọng ghi nhận một giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với
nhiều thử thách của thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của luật pháp ngày càng
quan trọng, hệ thống pháp luật Việt Nam cần được đổi mới mạnh mẽ. Tính chất của nền
kinh tế thị trường mở trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đòi hỏi pháp luật
về hoạt động thương mại phải được tiến hành trên cơ sở sự thống nhất, đồng bộ và mang
tính ổn định.
Chính vì vậy, sự ra đời của Luật Thương mại 2005 là kết quả tất yếu và khách quan.
Đạo luật này được ban hành nhằm khắc phục những bất cập cảu Luật Thương mại năm
1997, đáp ứng những yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội, cũng như của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn phát triển mới.
Về chính tri: Luật Thương mại 2005 thể hiện những chính sách, đường lối của đảng,
là công cụ điều chỉnh các hoạt động kinh tế của Nhà nước, nhằm tạo ra một cơ chế đồng
bộ thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết
thực. Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp
với thực tiễn và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, Nhà nước mới có thể phát huy hiệu lực
của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế xã hội.
Về kinh tế: Luật Thương mại 2005 là khung pháp lý cho các tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân, pháp nhân có hoạt động thương mại. Là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, phát triển thị trường hàng hóa và dịch
vụ thương mại, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
thương nhân, góp phần tích cực nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền
vững.
Về xã hội: Luật Thương mại 2005 quy định các quyền tự do kinh doanh của công
dân trên lĩnh vực thương mại, thực hiện quyền bình đẳng giữa pháp luật của mọi thương
nhân thuộc các thành phần kinh tế trong các hoạt động thương mại, đảm bảo an toàn cho
các quan hệ thương mại trong hoạt động thương mại.

Các trường hợp miễn trách nghiệm được quy định tại Điều 294 Luật Thương mại
2005 là một trong những nội dung quan trọng trong hợp đồng thương mại, góp phần đảm
bảo sự cân bằng quyền lợi, chia sẻ rủi ro, ngăn ngừa sự trốn tránh trách nhiệm của các bên
tham gia trong quan hệ hợp đồng, ảnh hường trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên
cũng như có ý nghĩa quan trọng trong việc tố tụng sau này.
Những quy định về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại chính là
những công cụ cần thiết để loại trừ các trường hợp trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng. Trong nhiều trường hợp, một bên trong hợp đồng vì lợi ích của mình
cố tình vi phạm hợp đồng sau đó viện dẫn các lý do, các trường hợp miễn trách để cho
rằng mình không có lỗi nhằm giải thoát mình trách nhiệm đối với bên bị thiệt hại. Khi đó,
các thỏa thuận đã có giữa các bên về miễn trách nhiệm chính là căn cứ để đánh giá hành
vi của các bên, xác định trách nhiệm thuộc về bên nào, ngăn ngừa trường hợp cố tình trốn
tránh các nghĩa vụ. Việc thỏa thuận trước các điều khoản về nội dung này cũng như có
các quy định pháp luật sẽ khiến các bên không thể tùy tiện sử dụng các trường hợp miễn
trách nhiệm để vi phạm hợp đồng. Không chỉ các bên trong hợp đồng mà với bên thứ ba
như công ty bảo hiểm, các nội dung về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng giúp
họ ngăn ngừa được các trường hợp các bên trong hợp đồng cố tình viện cớ cho hành vi vi
phạm của mình, không chịu trách nhiệm và khiến cho bên bảo hiểm phải thực hiện nghĩa
vụ thay.
Không chỉ có ý nghĩa quan trọng với các bên trong hợp đồng, các trường hợp miễn
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại còn liên quan mật thiết đến các chủ thể
khác. Đó là căn cứ để các cơ quan, chủ thể giải quyết tranh chấp có thể đưa ra được các
quyết định giải quyết một cách nhanh chóng, hợp lý, công bằng, khách quan và chính xác;
cơ sở để các chủ thể liên quan đồng thời cũng là cơ sở để các chủ thể như luật sư, người
bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng biết và đưa ra được các góp ý, hỗ trợ chính xác
để giúp đỡ các chủ thể.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về miễn trừ trách nhiệm trong hợp
đồng thương mại
Pháp luật về hợp đồng thương mại được quy định như một phần của Luật Thương
mại nói chung. Do đó, vấn đề này được hai văn bản pháp luật áp dụng chủ yếu để điều

chỉnh các nội dung liên quan trong đó có vấn đề miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
đó là: Bộ Luật Dân Sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, đối với hợp đồng
thương mại Luật ưu tiên được áp dụng là Luật Thương mại 2005.
Các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 294 Luật Thương mại
2005 bao gồm các trường hợp:
Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận trong hợp đồng: các bên trong hợp đồng có thể tự
mình dự liệu và thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm. Khi một bên gặp phải
trường hợp đã thỏa thuận, họ cũng được miễn trách nhiệm.
Miễn trách nhiệm do gặp sự kiện bất khả kháng: sự kiện bất khả kháng được hiểu cơ
bản là các sự kiện tự nhiên hoặc xã hội, xảy ra một cách khách quan, nằm ngoài ý chí của
các bên, các bên không thể biết trước hay dự đoán trước vào thời điểm giao kết hợp đồng
và khi sự kiện đó xảy ra, bên vi phạm không thể tránh được hay khắc phục được hậu quả
của nó. Khi rơi vào trường hợp này, bên vi phạm không phải chịu các chế tài trước bên bị
vi phạm.
Miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia: khi
hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng không đầy đủ nghĩa vụ của một bên là do
lỗi của bên có quyền thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm đó.
Miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ
quan quản lya nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng: từ quy định này, có thể thấy việc miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng
khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
mà các bên không biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về
việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng
mà vẫn đồng ý giao kết thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Các trường hợp miễn trách nhiệm khác: ngoài các trường hợp phổ biến trên, pháp
luật các quốc gia khác nhau còn quy định thêm các trường hợp miễn trách nhiệm khác
như: miễn trách nhiệm do tình trạng phá sản của các bên, hay miễn trách nhiệm do người
thứ ba có quan hệ với một bên trong hợp đồng gặp phải sự kiện bất khả kháng; trường
hợp này cũng được quy định trên cơ sở sự tồn tại của sự kiện bất khả kháng nhưng sự
kiện đó không xảy ra với bên nào trong hợp đồng mà bên thứ ba có quan hệ hợp đồng với

một bên đương sự gặp phải sự kiện bất khả kháng đó. Trong trường hợp này, bên không
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng được miễn trách nhiệm dù họ vi phạm hợp đồng.
1.3Yêu cầu pháp luật điều chỉnh về miễn trách nhiệm trong hợp đồng thương
mại
Trong nền kinh tế thị trường, việc ký kết các hợp đồng thương mại là một trong các
quyền tự do kinh tế của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia
ký kết hợp đồng thương mại không phải vì lợi ích của Nhà nước mà vị lợi ích, nhu cầu
kinh tế của chính doanh nghiệp.
Để đảm bảo quyền là lợi ích chính đáng các bên tham gia ký kết hợp đồng thương
mại phải tuân theo những nguyên tắc do pháp luật quy định (Luật Chuyên ngành, Luật
Thương mại, Bộ Luật Dân Sự). Đó là những tư tưởng chỉ đạo mang tính bắt buộc đối với
các chủ thể khi ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại. Tính bắt buộc này được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật cụ thể, mà theo đó hợp đồng thương mại trái với nguyên
tắc có thể sẽ bị vô hiệu ngay khi ký hoặc theo phán quyết của Tòa án có thẩm quyền khi
có yêu cầu của các bên; đồng thời cũng là cơ sở để xét đến yếu tố lỗi của các bên khi giải
quyết tranh chấp.
Điều 389 BLDS 2005 quy định những nguyên tắc ký hợp đồng như sau:
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái với pháp luật;
Tự nguyện bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Mục 2 Chương I Luật Thương mại 2005 cũng quy định các nguyên tắc cơ bản trong
hợp đồng thương mại, các nguyên tắc này bao gồm:
Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật, thuần
phong mỹ tục và đạo đức xã hội, xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt
động thương mại, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ các quyền đó.
Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được
thực hiện hành vi áp đặt cưỡng ép, đe dạo, ngăn cản bên nào.
Trừ pháp luật không quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen
đã được xác lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái
với nguyên tăc quy định trong Luật Thương mại và BLDS.
Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện tiêu

chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá tri pháp lý tương
đương văn bản.
Miễn trừ trách nhiệm do vi phạm trong hợp đồng thương mại là một nội dung quan
trọng của hợp đồng thương mại. trường hợp các bên có thỏa thuận miễn trừ trong hợp
đồng thì các thỏa thuận đó phải tuân theo quy định của pháp luật đó là: tự do thỏa thuận
không trái quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào thực hiện hành vi được áp đặt hay cưỡng ép
Khi gặp các trường hợp miễn trừ trách nhiệm, bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ
nhât định đó là thông báo và xác nhận trường hợp miên trách nhiệm được quy định tại
Điều 295 Luật Thương Mại 2005.
Nghĩa vụ thông báo là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên vi phạm, lý do để miễn trách
nhiệm bắt có hiệu lực từ thời điểm xảy ra các trở ngại, hoặc từ thời điểm nhận được thông
báo nếu thông báo không được gửi đi hoặc gửi đi không kịp thời, theo quy định của Luật
Thương Mại 2005, bên gặp bất khả kháng sẽ chịu trách nhiệm về những vi phạm của
mình.
Nghĩa vụ chứng minh là bên vi phạm đưa ra các căn cứ để chứng minh họ được
miễn trách nhiệm theo đúng các quy định của pháp luật về các trường hợp được miễn trừ
trách nhiệm. Bên vi phạm phải chứng minh được có trường hợp miễn trách nhiệm xảy ra
và chứng minh có mối quan hệ nhân quả giữa những trường hợp miễm trừ và việc vi
phạm hợp đồng của mình. Đây cũng là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên vi phạm quy định
trong Luật Thương mại 2005.
Kết Luận Chương 1
Qua những tìm hiểu trên, tác giả đã đưa ra khái niệm về Hợp đồng thương mại với
những đặc điểm đặc trưng, khái niệm và căn cứ xác định chế độ trách nhiệm trong hợp
đồng, khái niệm miễn trừ trách nhiệm và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm trong hợp
đồng thương mại. Cùng với đó, chúng ta biết rằng khi giao kết và thực hiện hợp đồng này,
nếu các bên thực hiện không đúng, không đày đủ hợp đồng, gây ra những thiệt hại về mặt
vật chất cho bên bị vi phạm, bên vi phạm sẽ phải gánh chịu những chế tài theo thỏa thuận
hay theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào bên vi
phạm cũng phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình, đó chính là các trường hợp miễn

trách nhiệm trong hợp đồng thương mại. Đây là những trường hợp loại trừ yếu tố có lỗi
của bên vi phạm. Vấn đề này đã được ghi nhận trong pháp luật Thương mại Việt Nam
cũng như các văn bản pháp luật quốc tế có liên quan.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHẾ ĐỊNH
MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI. THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH THẠCH
THÀNH
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng
2.1.1 Tổng quan tình hình
Bản chất của miễn trừ trách nhiệm là việc bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng
lẽ phải gánh chịu toàn bộ và đầy đủ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi
phạm, tuy nhiên, vì thiệt hại xảy ra trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà
bên vi phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đó.
Theo các quy định tại khoản 2, 3 Điều 302 BLDS 2005 thì có ba trường hợp
được miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng bao gồm: Sự kiện bất khả
kháng, thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm và thỏa thuận của
các bên chủ thể trong hợp đồng. Trong khi đó, khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại
2005 lại quy định bốn căn cứ miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng, bao gồm: Thỏa
thuận của các chủ thể trong hợp đồng, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của
một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể
biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Bộ Luật Dân Sự 2005 chỉ quy định ba căn cứ miễn trừ trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng đã nêu ở trên là chỉ mới quy định về các trường hợp miễn trừ toàn
bộ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng mà chưa có các quy định về các trường hợp
miễn trừ một phần trách nhiệm dân sự trong hợp đồng. Đó là các trường hợp: bên
vi phạm và bên bị vi phạm đều có lỗi gây thiệt hại; hai bên chủ thể trong hợp đồng
có thỏa thuận về việc miễn trừ một phần trách nhiệm dân sự. Tại khoản 3 Điều 302
BLDS 2005 cũng quy định một trường hợp được miễn trừ trách nhiệm dân sự

là “bên có nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn
do lỗi của bên có quyền”. Việc lỗi hoàn toàn do bên có quyền cũng đồng nghĩa với
bên có nghĩa vụ không có lỗi. Do đó, việc bên có nghĩa vụ chứng minh lỗi hoàn toàn
thuộc về bên có quyền suy cho cùng chỉ là một biện pháp nhằm chứng minh bên có
nghĩa vụ không có lỗi. Vì vậy, bất kể lỗi hoàn toàn do bên có quyền hay do người
thứ ba hoặc không bên nào có lỗi thì bên có nghĩa vụ cũng không phải chịu trách
nhiệm dân sự.
Pháp luật dân sự quy định thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cũng là căn
cứ để miễn trách nhiệm dân sự của bên vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự
tôn trọng của các bên trong hợp đồng, vừa hạn chế được việc bên có lợi thế hơn
trong giao kết hợp đồng lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm dân sự thì
cần phải đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận đó. Do đó, một thỏa thuận về căn cứ
miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu như hành vi
vi phạm hợp đồng không phải do lỗi cố ý. Bởi, nếu hành vi vi phạm là do lỗi cố ý thì
sự vi phạm đó được coi là một vi phạm nặng và điều khoản về miễn trừ trách nhiệm
theo thỏa thuận trong hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Điều này cũng phù hợp với pháp luật
một số nước trên thế giới, ví dụ như: án lệ Pháp cho phép các bên trong quan hệ
dân sự có những thỏa thuận về miễn trừ trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp bên
giao kết phạm lỗi cố ý hoặc vô ý nghiêm trọng thì thỏa thuận đó không có giá trị
pháp lý. Tại khoản 4, Điều 401 Bộ luật dân sự Cộng hòa liên bang Nga cũng quy
định về việc thỏa thuận trước về hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm dân sự, và trong
trường hợp bên vi phạm có lỗi cố ý thì thỏa thuận đó không có giá trị pháp lý.
Về trường hợp miễn trừ trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS 2005 thì “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy
ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được
mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Nội dung này
được quy định trong phần “Thời hiệu”, là căn cứ để xác định “…chủ thể có quyền
khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu”.
Về trường hợp hai bên chủ thể hợp đồng cùng có lỗi. BLDS 2005 không có quy
định về trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi của cả hai bên, do đó thiếu cơ sở pháp lý

khi giải quyết tranh chấp, trong khi đây là trường hợp khá phổ biến trong thực tiễn
xét xử các vụ án tranh chấp do vi phạm hợp đồng. Khi gặp các trường hợp này, Tòa
án sẽ xem xét cụ thể mức độ lỗi của các bên vi phạm nghĩa vụ để quyết định mức độ
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, BLDS 2005 cũng chỉ quy định lỗi cố ý và lỗi vô ý
(Điều 308 BLDS 2005) mà chưa có quy định cụ thể về các hình thức lỗi (cố ý trực
tiếp hay cố ý gián tiếp; vô ý vì cẩu thả hay vô ý vì quá tự tin). Các văn bản hướng
dẫn thi hành Bộ luật dân sự cũng không đề cập đến nội dung này, cũng không đưa
ra các tiêu chí để xác định mức độ lỗi. Do đó, việc xem xét mức độ bồi thường thiệt

×