Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Đánh giá thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại xã Tân Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.27 KB, 83 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
thầy cô giáo, gia đình và bạn bè.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Tài nguyên và
Môi trường đã tận tình chỉ dạy, truyền đạt những kiến thức, những kinh nghiệm
quý báu giúp cho tôi trang bị hành trang cho công việc sau này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Minh đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi
trường huyện Lạng Giang – Bắc Giang, UBND xã Tân Thịnh cùng toàn thể
người dân trên địa bàn xã đã cung cấp số liệu và tạo mọi điều kiện cho tôi thực
hiện đề tài trong thời gian qua.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè tôi, những
người luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2012
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Hào
MỤC LỤC
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Thành phần rác thải sinh hoạt ở một số vùng tỉnh, thành phố Error:
Reference source not found
Bảng 2.2 Thành phần các cấu tử hữu cơ của rác đô thị Error: Reference source
not found
Bảng 2.3 Phát sinh chất thải rắn đô thị - sinh hoạt ở một số nước Châu Á Error:
Reference source not found
Bảng 2.4 Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á Error:


Reference source not found
Bảng 4.1 Tình hình sử dụng đất xã Tân Thịnh năm 2011.Error: Reference source
not found
Bảng 4.2 Chuyển dịch cơ cấu lao động xã Tân Thịnh giai đoạn 2008-2011.Error:
Reference source not found
Bảng 4.3 Dự báo dân số nhân khẩu - lao động xã Tân Thịnh giai đoạn 2015-2020
Error: Reference source not found
Bảng 4.4 Nguồn phát sinh và khối lượng RTSH trên địa bàn xã Tân Thịnh năm
2011 Error: Reference source not found
Bảng 4.5 Thành phần và tỷ lệ khối lượng RTSH tại xã Tân Thịnh Error:
Reference source not found
Bảng 4.6 Tỷ lệ chất hữu cơ và vô cơ ở 3 khu vực điều traError: Reference source
not found
Bảng 4.7 Khối lượng RTSH của xã Tân Thịnh giai đoạn 2009 – 2011 Error:
Reference source not found
Bảng 4.8 Lượng RTSH bình quân theo đầu người ở xã Tân Thịnh Error:
Reference source not found
Bảng 4.9 Khối lượng RTSH phát sinh trên địa bàn xã Tân Thịnh năm 2011……… 43
ii
Bảng 4.10 Nhân sự, thiết bị thu gom, vận chuyển và bảo hộ lao động trên địa
bàn xã Tân Thịnh 47
Bảng 4.11 Tần suất, thời gian và khối lượng thu gom RTSH.tại xã Tân Thịnh
48
Bảng 4.12 Mức thu phí VSMT tại xã Tân Thịnh 49
Bảng 4.13 Ý kiến của hộ gia đình đối với công tác quản lý RTSH tại xã Tân Thịnh 53
Bảng 4.14 Ý kiến của người dân về công tác thu gom, vận chuyển RTSH tại xã Tân
Thịnh 5
5
Bảng 4.15 Dự báo khối lượng rác thải sinh hoạt tại xã Tân Thịnh đến năm 2020 57
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1 Các phương pháp xử lý chất thải Error: Reference source not found
Hình 4.1 Tỷ trọng các ngành năm 2005 và 2010 Error: Reference source not
found
Hình 4.2 Các hình thức xử lý rác thải của người dân xã Tân Thịnh 51
Hình 4.3 Hiệu quả của phương tiện truyền thanh 52
iii
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CTR
CTRSH
Chất thải rắn
Chất thải rắn sinh hoạt
HĐND Hội đồng nhân dân
KHHGĐ
RTSH
Kế hoạch hóa gia đình
Rác thải sinh hoạt
TNMT Tài nguyên và môi trường
TM-DV Thương mại – dịch vụ
TP Thành phố
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
UBND Ủy ban nhân dân
VSMT Vệ sinh môi trường
3R Phân loại rác tại nguồn
iv
v
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt xã
hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cho đến nay, sự phát triển này không chỉ
diễn ra mạnh ở các thành phố và khu đô thị lớn của nước ta mà đang mở rộng ra
các huyện lân cận.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện
đáng kể. Mức sống của người dân càng cao thì nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm
xã hội càng lớn, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng lượng rác thải sinh hoạt.
Rác thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình ăn ở, tiêu dùng của con người được
thải vào môi trường ngày càng nhiều, vượt quá khả năng tự làm sạch của môi
trường dẫn đến môi trường bị ô nhiễm. Vấn đề quản lý và xử lý rác thải sinh
hoạt đang là một vấn đề toàn cầu, không chỉ riêng ở nước ta mà còn ở nhiều
nước đang phát triển khác nữa. Vì thế, nhiều chủ trương của Đảng và nhà nước
về công tác quản lý và xử lý rác thải đã được đề ra nhưng nó vẫn chưa mang lại
hiệu quả, chưa đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Tân Thịnh là một xã thuộc huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, có quốc lộ
1A (Hà Nội - Lạng Sơn) và tỉnh lộ 292 chạy qua. Xã có đường giao thông thuận
lợi nên các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, thu hút
một lượng lớn lao động từ các tỉnh, huyện lân cận. Dân số trong xã tăng lên, các
khu chợ và cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ phục vụ nhu cầu ăn uống của
người dân cũng ngày càng phong phú và đa dạng, dẫn đến lượng rác thải tăng
lên ngày càng nhiều.
Thực hiện chủ trương của nhà nước, thời gian gần đây xã Tân Thịnh đã
đầu tư cho nhiều hạng mục khác nhau để bảo vệ môi trường, trong đó có vấn đề
quản lý và xử lý rác thải. Tuy vậy công tác này cũng đang gặp không ít khó
1
khăn, nhất là vấn đề thu gom và xử lý rác thải còn nhiều mặt hạn chế gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái.
Xuất phát từ thực trạng trên, nhằm góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi
trường do rác thải sinh hoạt gây ra, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh
giá thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt

tại xã Tân Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang”.
1.2 Mục đích – Yêu cầu
1.2.1 Mục đích
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại xã Tân
Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt nhằm góp
phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
1.2.2 Yêu cầu
- Sử dụng phiếu điều tra nhằm thu thập ý kiến của các hộ gia đình về tình
hình quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại địa phương.
- Điều tra thu thập số liệu có liên quan phải chính xác và có độ tin cậy cao.
- Đánh giá được đúng hiện trạng quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại xã
Tân Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất được các biện pháp quản lý và xử lý rác thải phù hợp với điều
kiện của xã Tân Thịnh.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Một số khái niệm
2.1.1 Khái niệm chất thải
Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác [10].
2.1.2 Rác thải sinh hoạt
Rác thải sinh hoạt (RTSH) hay chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) là những
chất thải rắn có liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo thành chủ
yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch vụ và thương
mại…[12].
2.1.3 Quản lý chất thải
Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy và thải loại chất thải [10].

2.1.4 Quản lý môi trường
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh
tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát
triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia. Bản chất của việc quản lý môi trường là
hạn chế hành vi vô ý thức của con người trong quá trình sống, sản xuất - kinh
doanh gây tác động xấu đến môi trường để tạo ra được môi trường ổn định, luôn
ở trạng thái cân bằng [14].
2.2 Nguồn gốc, phân loại và thành phần rác thải sinh hoạt
2.2.1 Nguồn gốc
Khối lượng rác thải sinh hoạt ngày càng tăng do tác động của sự gia tăng dân
số, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự thay đổi tính chất tiêu dùng trong các đô thị và
các vùng nông thôn. Trong đó, các nguồn chủ yếu phát sinh rác thải bao gồm:
- Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt).
- Từ các trung tâm thương mại: Nhà hàng, khách sạn, siêu thị, chợ…
3
- Các cơ quan, công sở: Trường học, cơ quan hành chính, trung tâm văn
hóa thể thao…).
- Từ các khu vực công nghiệp, nông nghiệp và hoạt động xây dựng.
- Từ các bệnh viện, trạm y tế v v…[14].
2.2.2 Phân loại
RTSH có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ,
đất đá, cao su, chất dẻo, thực phầm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động
vật, tre, gỗ, lông gà vịt, vải, giấy, rơm rạ, xác động vật, vỏ rau quả…
Theo phương diện khoa học có thể phân biệt các loại chất thải sinh hoạt
như sau:
- Chất thải thực phẩm: Bao gồm các thức ăn thừa, rau quả… loại chất thải
này mang bản chất dễ phân hủy sinh học, quá trình phân hủy tạo ra các chất có
mùi khó chịu, đặc biệt trong điều kiện thời tiết nóng ẩm. Ngoài các loại thức ăn
dư thừa từ gia đình còn có thức ăn dư thừa từ các bếp ăn tập thể, các nhà hàng,
khách sạn, ký túc xá, chợ…

- Chất thải trực tiếp của động vật: Chủ yếu là phân, bao gồm phân người và
phân các động vật khác.
- Chất thải lỏng chủ yếu là bùn ga cống rãnh, là các chất thải ra từ các khu
vực sinh hoạt của dân cư.
- Tro và các chất dư thừa thải bỏ khác: Bao gồm các loại vật liệu sau đốt
cháy, các sản phẩm sau khi đun nấu bằng than, củi và các chất thải dễ cháy khác
trong gia đình, trong kho của các công sở, cơ quan, xí nghiệp và các loại xỉ than.
- Các chất thải rắn từ đường phố có thành phần chủ yếu là các lá cây, que
củi, nilon, vỏ bao gói…[12].
2.2.3 Thành phần
Khác với rác thải và phế thải công nghiệp, RTSH là một tập hợp không
đồng nhất. Tính không đồng nhất biểu hiện ngay ở sự không kiểm soát được của
các nguyên liệu ban đầu dùng cho sinh hoạt và thương mại. Sự không đồng nhất
này tạo ra một số đặc tính rất khác biệt trong các thành phần của RTSH [15].
4
Thành phần của rác thải rất khác nhau tùy thuộc từng địa phương, tính
chất tiêu dùng, điều kiện kinh tế và nhiều yếu tố khác.
 Thành phần cơ học
Bảng 2.1 Thành phần rác thải sinh hoạt ở một số tỉnh và thành phố
Thành phần ( % ) Hà Nội Hải Phòng TP.HCM
Lá cây, vỏ hoa quả, xác động vật 50,27 50,07 62,24
Giấy 2,72 2,82 0,59
Giẻ rách, củi, gỗ 6,27 2,72 4,25
Nhựa, nilon, cao su 0,71 2,02 0,46
Vỏ ốc, xương 1,06 3,69 0,50
Thủy tinh 0,31 0,72 0,02
Rác xây dựng 7,42 0,45 10,04
Kim loại 1,02 0,14 0,27
Tạp chất khó phân hủy 30,21 23,9 15,7
( Nguồn: Đặng Kim Cơ, 2004)

Thông thường thành phần của rác thải bao gồm các hợp phần sau:
- Các chất dễ bị phân hủy sinh học: Các thực phẩm thừa, cuộng lá rau, lá
cây, xác động vật chết, vỏ hoa quả
- Các chất khó bị phân hủy sinh học: Gỗ, cành cây, cao su, túi nilon…
- Các chất hoàn toàn không bị phân hủy sinh học: Kim loại, thủy tinh,
mảnh sành sứ, gạch ngói, vôi vữa khô, sỏi cát, vỏ ốc hến…[15].
Thành phần rác thải nói chung là không ổn định. Ở các nước phát triển, do
mức sống của người dân cao cho nên tỷ lệ thành phần hữu cơ trong rác thải sinh
hoạt thường chỉ chiếm 35-40% còn ở Việt Nam tỷ lệ hữu cơ cao hơn rất nhiều từ
55-65%. Ngoài ra, còn có các cấu tử phi hữu cơ (kim loại, thủy tinh, rác xây
dựng…) chiếm khoảng 12-15%, phần còn lại là các cấu tử khác [15].
 Thành phần hóa học
Trong các cấu tử hữu cơ của rác thải sinh hoạt, thành phần hóa học của
chúng chủ yếu là: C, H, O, N, S và các chất tro.
Bảng 2.2 Thành phần các cấu tử hữu cơ của rác đô thị
Cấu tử
hữu cơ
Thành phần %
5
C H O N S Tro
Thực phẩm 48,0 6,4 37,6 2,6 0,4 5,0
Giấy 43,5 6,0 44,0 0,3 0,2 6,0
Carton 44,0 5,9 44,6 0,3 0,2 5,0
Chất dẻo 60,0 7,2 22,8 - - 10,0
Vải 55,0 6,6 31,2 1,6 0,15 -
Cao su 78,0 10,0 - 2,0 - 10,0
Da 60,0 8,0 11,6 10,0 0,4 10,0
Gỗ 49,5 6,0 42,7 0,2 0,1 1,5
(Nguồn: Đề tài cấp Nhà nước KHCN năm 2002 - 2004)
2.3 Tác hại của rác thải

2.3.1 Tác hại của rác thải sinh hoạt đến môi trường
- Môi trường đất:
+ RTSH nằm rải rác khắp nơi không được thu gom đều được lưu giữ lại
trong đất, một số loại chất thải khó phân hủy như túi nilon, vỏ lon,
hydratcacbon… nằm lại trong đất làm ảnh hưởng tới môi trường đất: làm thay
đổi cơ cấu đất, đất trở nên khô cằn và vi sinh vật trong đất có thể bị chết.
+ Nhiều loại chất thải như xỉ than, vôi vữa… đổ xuống đất làm cho đất bị
đóng cứng, khả năng thấm nước và hút nước kém, đất bị thoái hóa [11].
- Môi trường nước:
+ Lượng rác thải rơi vãi nhiều, ứ đọng lâu ngày, khi gặp mưa rác rơi vãi
sẽ theo dòng nước chảy, các chất độc hòa tan trong nước qua cống rãnh ra ao hồ,
sông ngòi gây ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp nhận.
+ Rác thải không thu gom hết ứ đọng trong các ao hồ là nguyên nhân gây
mất vệ sinh và ô nhiễm các thủy vực. Khi các thủy vực bị ô nhiễm có nguy cơ
ảnh hưởng đến các loài thủy sinh vật do hàm lượng oxy hòa tan trong nước
giảm, khả năng nhận ánh sáng của các tầng nước cũng giảm, ảnh hưởng tới khả
6
năng quang hợp của thực vật thủy sinh và làm giảm sinh khối của các thủy vực,
đe dọa đến các hoạt động sống của các sinh vật trong thủy vực [11].
- Môi trường không khí:
+ Tại các trạm/bãi trung chuyển rác xen kẽ khu vực dân cư là nguồn gây ô
nhiễm môi trường không khí do mùi hôi thối từ rác, bụi cuốn lên khi xúc rác, bụi
khói, tiếng ồn và các khí thải độc hại từ các xe thu gom và vận chuyển rác.
+ Tại các bãi chôn lấp chất thải rắn, vấn đề ảnh hưởng đến môi trường khí
là mùi hôi thối của một số khí như: CH
4
, H
2
S…và các khí độc hại khác từ các
chất thải nguy hại [11].

2.3.2 Tác hại của rác thải sinh hoạt đối với sức khỏe con người
- Tác hại của rác thải lên sức khỏe con người thông qua ảnh hưởng của
chúng lên các thành phần môi trường. Môi trường bị ô nhiễm tất yếu sẽ tác động
đến sức khỏe con người thông qua chuỗi thức ăn.
- Tại các bãi rác, nếu không áp dụng các kỹ thuật chôn lấp và xử lý thích
hợp thì bãi rác trở thành nơi phát sinh ruồi muỗi, là mầm mống lan truyền dịch
bệnh, chưa kể đến chất thải độc hại tại các bãi rác có nguy cơ gây các bệnh hiểm
nghèo đối với cơ thể người khi tiếp xúc, đe dọa đến sức khỏe cộng đồng xung
quanh.
Theo nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới (WHO), tỷ lệ người mắc bệnh
ung thư ở các khu vực gần bãi chôn lấp rác thải chiếm tới 15,25% dân số. Ngoài
ra, tỷ lệ mắc bệnh ngoại khoa, bệnh viêm nhiễm ở phụ nữ do nguồn nước ô
nhiễm chiếm tới 25% [1].
2.3.3 Rác thải sinh hoạt làm giảm mỹ quan đô thị
- Rác thải sinh hoạt nếu không được thu gom và vận chuyển đến nơi xử lý,
thu gom không hết, vận chuyển rơi vãi dọc đường, tồn tại các bãi rác nhỏ lộ
thiên… đều là những hình ảnh gây mất vệ sinh môi trường và làm ảnh hưởng
đến vẻ mỹ quan của đường phố và thôn xóm.
7
- Một nguyên nhân nữa là giảm mỹ quan đô thị là do ý thức của người dân
chưa cao. Tình trạng người dân đổ rác bừa bãi ra lòng lề đường và mương rãnh
vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà công tác quản lý
và thu gom vẫn chưa được tiến hành chặt chẽ.
2.4 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt
2.4.1 Khái niệm về xử lý rác thải
Xử lý chất thải là dùng các biện pháp kỹ thuật để xử lý các chất thải và
không làm ảnh hưởng tới môi trường; tái tạo ra các sản phẩm có lợi cho xã hội
nhằm phát huy hiệu quả kinh tế. Mục tiêu của xử lý chất thải rắn là giảm hoặc
loại bỏ các thành phần không mong muốn trong chất thải như các chất độc hại,
không hợp vệ sinh, tận dụng vật liệu và năng lượng trong chất thải [13].

2.4.2 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt chủ yếu
- Phương pháp cơ học: Bao gồm tách kim loại, thuỷ tinh, nhựa ra khỏi chất
thải; sơ chế và đốt chất thải không có thu hồi nhiệt; lọc tạo rắn đối với các chất
thải bán lỏng.
- Phương pháp cơ - lý: Phân loại vật liệu, thuỷ phân, sử dụng chất thải như
nhiên liệu, đúc ép các chất thải, sử dụng làm vật liệu xây dựng.
- Phương pháp sinh học: chế biến ủ sinh học, mêtan hoá trong các bể thu
hồi sinh học [13].
Các phương pháp xử lý chất thải có thể khái quát theo sơ đồ hình 2.1
8
Thu gom chất thải
Vận chuyển chất thải
Xử lý chất thải
Thiêu đốt Ủ sinh học làm
Compost
Các phương
pháp khác
Tiêu hủy tại bãi
chôn lấp
Hình 2.1 Các phương pháp xử lý chất thải [13]
a. Phương pháp chôn lấp
Phương pháp này chi phí thấp và được áp dụng phổ biến ở các nước đang
phát triển. Việc chôn lấp được thực hiện bằng cách sử dụng xe chuyên dùng chở
rác tới các bãi rác đã xây dựng trước. Sau khi rác được đổ xuống, dùng xe ủi san
bằng, đầm nén trên bề mặt và đổ lên một lớp đất. Hàng ngày phun thuốc diệt
muỗi và rắc vôi bột… Theo thời gian, sự phân hủy vi sinh vật làm cho rác trở
lên tơi xốp và thể tích của các bãi rác giảm xuống. Việc đổ rác tiếp tục cho đến
khi bãi đầy thì chuyển sang bãi mới. Hiện nay, việc chôn lấp RTSH vẫn được sử
dụng ở các nước đang phát triển nhưng phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt
về bảo vệ môi trường. Việc chôn lấp chất thải có xu hướng giảm dần, tiến tới

chấm dứt ở các nước đang phát triển.
Các bãi chôn lấp rác thải phải được đặt cách xa khu dân cư, không gần
nguồn nước mặt và nước ngầm. Đáy của bãi rác nằm trên tầng đất sét hoặc được
phủ một lớp chống thấm bằng màng địa chất. Ở các bãi chôn lấp rác cần thiết
phải thiết kế khu thu gom và xử lý nước rác trước khi thải ra môi trường. Việc
thu khí gas để biến đổi thành năng lượng là một trong những khả năng thu hồi
một phần kinh phí đầu tư cho bãi rác.
Phương pháp này có các ưu điểm là: Công nghệ đơn giản, chi phí thấp,
song nó cũng có một số nhược điểm như chiếm diện tích đất tương đối lớn;
không được sự đồng tình của dân cư xung quanh; việc tìm kiếm xây dựng bãi
chôn lấp mới là khó khăn và có nguy cơ dẫn đến ô nhiễm môi trường nước,
không khí và gây cháy nổ [13].
9
b. Phương pháp thiêu đốt
Xử lý chất thải bằng phương pháp thiêu đốt có thể làm giảm tới mức tối
thiểu chất thải cho khâu xử lý cuối cùng. Nếu áp dụng công nghệ tiên tiến sẽ
mang lại nhiều ý nghĩa đối với môi trường, song đây là phương pháp xử lý tốn
kém nhất so với phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh, chi phí để đốt 1 tấn rác cao
hơn khoảng 10 lần.
Công nghệ đốt rác thường được sử dụng ở các nước phát triển vì phải có
nền kinh tế đủ mạnh để bao cấp cho việc thu đốt rác thải sinh hoạt như là một
dịch vụ phúc lợi xã hội của toàn dân. Tuy nhiên, việc thu đốt rác sinh hoạt bao
gồm nhiều chất thải khác nhau sẽ tạo ra khói độc đioxin, nếu không xử lý được
loại khí này là rất nguy hiểm tới sức khoẻ.
Năng lượng phát sinh có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc cho
ngành công nghiệp nhiệt và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ
thống xử lý khí thải tốn kém để khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt
gây ra.
Hiện nay, tại các nước châu Âu có xu hướng giảm đốt rác thải vì hàng loạt
các vấn đề kinh tế cũng như môi trường cần phải giải quyết. Việc thu đốt rác

thải thường chỉ áp dụng cho việc xử lý rác thải độc hại như rác thải bệnh viện
hoặc rác thải công nghiệp vì các phương pháp xử lý khác không thể xử lý triệt
để được (hình 2.2, phụ lục 1) [13].
c. Phương pháp ủ sinh học
Ủ sinh học (compost) là quá trình ổn định sinh hóa các chất hữu cơ để
hình thành các chất mùn, với thao tác sản xuất và kiểm soát một cách khoa học
tạo môi trường tối ưu đối với quá trình.
Quá trình ủ hữu cơ từ rác hữu cơ (sản xuất phân bón hữu cơ) là một
phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến ở các quốc gia đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Quá trình ủ được coi như quá trình lên men yếm khí mùn
10
hoặc hoạt chất mùn. Sản phẩm thu hồi là hợp chất mùn không mùi, không chứa
vi sinh vật gây bệnh và hạt cỏ. Để đạt mức độ ổn định như lên men, việc ủ đòi
hỏi năng lượng để tăng cao nhiệt độ của đống ủ. Trong quá trình ủ, oxy sẽ được
hấp thụ hàng trăm lần và hơn nữa so với bể aeroten. Quá trình ủ áp dụng với
chất hữu cơ không độc hại, lúc đầu là khử nước, sau là xử lý cho đến khi nó
thành xốp và ẩm. Độ ẩm và nhiệt độ được kiểm tra thường xuyên và giữ cho vật
liệu ủ luôn ở trạng thái hiếu khí trong suốt thời gian ủ. Quá trình tự tạo ra nhiệt
riêng nhờ quá trình oxy hóa các chất thối rữa. Sản phẩm cuối cùng là CO
2
, nước
và các hợp chất hữu cơ bền vững như lignin, xenlulo, sợi…[12].
Công nghệ ủ có thể là ủ đống tĩnh thoáng khí cưỡng bức, ủ luống có đảo
định kỳ hoặc vừa thổi vừa đảo. Xử lý rác làm phân hữu cơ là biện pháp rất có
hiệu quả, sản phẩm phân hủy có thể kết hợp tốt với phân người và phân gia súc
cho ra chất hữu cơ có hàm lượng dinh dưỡng cao, tạo độ tơi xốp, rất tốt cho việc
cải tạo đất.
Phương pháp này thích hợp với loại chất thải rắn hữu cơ; trong chất thải
sinh hoạt chứa nhiều cacbonhyđrat như đường, xenllulo, lignin, mỡ và protein,
những chất này có thể phân huỷ đồng thời hoặc từng bước. Quá trình phân huỷ

các chất hữu cơ dạng này thường xảy ra với sự có mặt của ôxy không khí (phân
huỷ hiếu khí) hay không có không khí (phân huỷ yếm khí, lên men). Hai quá
trình này xảy ra đồng thời ở một khu vực chứa chất thải và tuỳ theo mức độ
thông khí mà dạng này hay dạng kia chiếm ưu thế (hình 2.3, phụ lục 1) [13].
d. Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ ép kiện
Phương pháp ép kiện được thực hiện trên cơ sở toàn bộ rác thải tập trung
thu gom vào nhà máy. Rác được phân loại bằng phương pháp thủ công trên băng
tải, các chất trơ và các chất có thể tận dụng được như kim loại, nilon, giấy, thủy
tinh, nhựa…được thu hồi để tái chế. Những chất còn lại sẽ được băng tải chuyền
qua hệ thống ép nén rác bằng thủy lực với mục đích làm giảm tối đa thể tích
khối rác và tạo thành các kiện với tỷ số nén rất cao.
11
Các kiện rác đã nén ép này được sử dụng vào việc đắp các bờ chắn hoặc
san lấp các vùng đất trũng sau khi được phủ lên các lớp đất cát. Trên diện tích
này có thể sử dụng làm mặt bằng các công trình như công viên, vườn hoa, các
công trình xây dựng nhỏ và mục đích chính là làm giảm tối đa mặt bằng khu vực
xử lý rác (hình 2.4, phụ lục 1) [12].
e. Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ Hydromex
Công nghệ Hydromex nhằm xử lý rác đô thị thành các sản phẩm phục vụ
xây dựng, làm vật liệu, năng lượng và các sản phẩm nông nghiệp hữu ích.
Bản chất của công nghệ Hydromex là nghiền nhỏ rác, sau đó polyme hóa
và sử dụng áp lực lớn để ép nén và định hình các sản phẩm. Rác thải được thu
gom chuyển về nhà máy, không cần phân loại được đưa vào máy cắt nghiền nhỏ,
sau đó đi qua băng tải chuyển đến các thiết bị trộn (hình 2.5, phụ lục 1) [12].
g. Phương pháp xử lý bằng công nghệ Seraphin
Ngoài các phương pháp trên, các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát
triển thành công công nghệ xử lý rác mang tên Seraphin, phù hợp với đặc điểm
rác thải Việt Nam là không được phân loại từ đầu nguồn. Có thể tóm tắt quá
trình xử lý rác thải bằng công nghệ Seraphin như sau:
- Rác từ khu dân cư được đưa tới nhà tập kết, nơi có hệ thống phun vi sinh

khử mùi cũng như ozone diệt vi sinh vật độc hại.
- Băng tải sẽ chuyển rác tới máy xé bông để phá vỡ mọi loại bao gói.
- Rác tiếp tục đi qua hệ thống phun tuyển từ (hút sắt thép và kim loại khác)
rồi lọt xuống sàng lồng. Sàng lồng có nhiệm vụ tách chất thải mềm, dễ phân
hủy, chuyển rác vô cơ (kể cả bao nhựa) tới máy vò và rác hữu cơ tới máy cắt.
Trong quá trình vận chuyển này, một chủng vi sinh vật ASC đặc biệt được phun
vào rác hữu cơ nhằm khử mùi hôi, làm chúng phân hủy nhanh và diệt một số tác
nhân độc hại.
- Rác hữu cơ được đưa vào buồng ủ trong thời gian 7-10 ngày. Buồng ủ có
chứa một chủng vi sinh khác làm rác phân huỷ nhanh cũng như tiếp tục khử vi
khuẩn.
12
- Rác biến thành phân khi được đưa ra khỏi buồng ủ, tới hệ thống nghiền và
sàng. Phân trên sàng được bổ sung một chủng vi sinh đặc biệt nhằm cải tạo đất
và bón cho nhiều loại cây trồng, thay thế trên 50% phân hoá học. Phân dưới
sàng tiếp tục được đưa vào buồng ủ trong thời gian 7-10 ngày.
Do lượng rác vô cơ khá lớn nên các nhà khoa học tiếp tục phát triển hệ
thống xử lý phế thải trơ và dẻo tạo ra một dây chuyền xử lý rác khép kín. Phế
thải trơ và dẻo đi qua hệ thống sấy khô và tách lọc bụi tro gạch. Sản phẩm thu
được ở giai đoạn này là phế thải dẻo sạch. Chúng tiếp tục đi qua tổ hợp băm cắt,
phối trộn, sơ chế, gia nhiệt bảo tồn rồi qua hệ thống thiết bị định hình áp lực cao.
Thành phẩm cuối cùng là ống cống panel, cọc gia cố nền móng, ván sàn, cốp
pha
Cứ 1 tấn rác đưa vào nhà máy, thành phẩm sẽ là 300-350 kg seraphin
(chất thải vô cơ không huỷ được) và 250-300 kg phân hữu cơ vi sinh. Loại phân
này hiện đã được bán trên thị trường với giá 500 đồng/kg.
Như vậy, qua các công đoạn tách lọc - tái chế, công nghệ seraphin làm
cho rác thải sinh hoạt được chế biến gần 100% trở thành phân bón hữu cơ vi
sinh, vật liệu xây dựng, vật liệu sản xuất đồ dân dụng và vật liệu cho công
nghiệp. Các sản phẩm này đã được cơ quan chức năng, trong đó có Tổng cục

Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng kiểm định và đánh giá là hoàn toàn đảm bảo về
mặt vệ sinh và thân thiện môi trường. Với công nghệ seraphin, Việt Nam có thể
xoá bỏ khoảng 52 bãi rác lớn, thu hồi đất bãi rác để sử dụng cho các mục đích xã
hội tốt đẹp hơn (hình 2.6, phụ lục 1) [15].
2.5 Tình hình quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt trên thế giới
2.5.1 Sự phát sinh rác thải sinh hoạt trên thế giới
Nhìn chung, lượng RTSH ở mỗi nước trên thế giới là khác nhau, phụ thuộc
vào sự phát triển kinh tế, dân số và thói quen tiêu dùng của người dân nước đó.
Tỷ lệ phát sinh rác thải tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng GDP tính theo đầu
người. Theo nguyên tắc thì các nước có thu nhập cao có tỷ lệ phát sinh chất thải rắn
13
đô thị cao. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây ở các nước đang phát triển cho thấy,
tỷ lệ phát sinh chất thải tính theo các mức thu nhập khác nhau lại không theo
nguyên tắc này. Theo kết quả nghiên cứu của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JICA,1997), tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị ở Philippin theo các nhóm người có
thu nhập khác nhau là: Thu nhập cao: 0,37- 0,55 kg/người/ngày, thu nhập trung
bình: 0,37-0,60 kg/người/ngày và thu nhập thấp: 0,62-0,90 kg/người/ngày.
Tương tự, các kết quả phân tích tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị theo
GDP tính trên đầu người của các nước thuộc OECD, Hoa Kỳ và Ôxtrâylia được
xếp vào nhóm các nước có tỷ lệ phát sinh cao; nhiều nước thuộc Liên minh châu
Âu được xếp vào nhóm có tỷ lệ phát sinh trung bình và Thuỵ Điển, Nhật Bản
được xếp vào nhóm có tỷ lệ phát sinh thấp. Có nhiều nguyên nhân để giải thích
các trường hợp này. Thứ nhất là không thống kê được đầy đủ tổng lượng thải
phát sinh do các hoạt động của khu vực tái chế không chính thức và do phương
thức tự tiêu huỷ chất thải ở các nước đang phát triển. Khu vực tái chế không
chính thức ở các nước đang phát triển đã góp phần đáng kể giảm thiểu tổng
lượng chất thải phát sinh và thu hồi tài nguyên thông qua các hoạt động tái chế.
Thứ hai là năng lực thu gom của các nước đang phát triển còn thấp. Ví dụ, năng
lực thu gom chất thải rắn độ thị của Ấn Độ là 72,5%; Malaixia: 70%; Thái Lan:
70-80%; và Philippin: 70% ở đô thị và 40% ở nông thôn [13].

Tỷ lệ chất thải sinh hoạt trong dòng chất thải rắn đô thị rất khác nhau giữa
các nước. Theo ước tính, tỷ lệ này chiếm tới 60-70% ở Trung Quốc (Gao et
al.2002); chiếm 78% ở Hồng Kông; 48% ở Philippin và 37% ở Nhật Bản và
chiếm 80% ở Việt Nam. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các nước có thu
nhập cao chỉ có khoảng 25-35% chất thải sinh hoạt trong toàn bộ dòng chất thải
rắn đô thị [16].
Theo Ngân hàng Thế giới, các khu vực đô thị của châu Á mỗi ngày phát
sinh khoảng 760.000 tấn chất thải rắn đô thị. Đến năm 2025, con số này sẽ tăng
tới 1,8 triệu tấn/ngày (World Bank, 1999) [16].
14
Bảng 2.3 Phát sinh chất thải rắn đô thị - sinh hoạt ở một số nước Châu Á
Quốc gia Năm
Dân số
(triệu
người)
GDP/
người
(USD)
Lượng
phát sinh
CTRĐT
(nghìn
tấn/năm)
Tỷ lệ
phát sinh
MSW/ng
ười/ngày
Lượng
RTSH
(nghìn

tấn/năm
)
Tỷ lệ
phát sinh
RTSH
(kg/ngườ
i/ngày)
Trung Quốc
2000 1267,4 856 130320 1,70 78193 1,02
Hồng Kông
2003 6,8 23800 3440 1,39 2700 1,09
Ấn Độ
2002 1052,0 471 - 0,2-0,5 - -
Indonesia
1995 194,8 1038 - 0,76 - -
Hàn Quốc
2002 47,6 10013 18189 1,05 - -
Malaysia
2002 24,5 3868 - 0,88-1,44 - -
Philippin
2002 76,5 978 10670 0,5-0,7 - -
Đài Loan
2002 22,6 12570 7970 0,97 - -
Thái Lan
2002 62,8 5430 14317 0,62 - -
Thổ Nhĩ Kỳ
2001 68,5 2146 25100 1,00 - 0,57
Nhật Bản
2001 1273 32745 52100 1,12 - -
(Nguồn: Waste management and recycling in Asia, IGES, 2005)

15
2.5.2 Quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt trên thế giới
Việc quản lý và xử lý RTSH đang là một thách thức lớn đối với nhiều
nước trên thế giới không chỉ vì chi phí cho hoạt động này rất lớn mà còn vì lợi
ích to lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Cùng với quá trình nâng cao mức sống,
lượng rác thải tạo ra ngày càng nhiều, vấn đề quản lý và xử lý RTSH ở các nước
trên thế giới đang ngày càng được quan tâm hơn. Đặc biệt tại các nước phát
triển, công việc này được tiến hành một cách rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ rác
thải của người dân, quá trình phân loại tại nguồn, thu gom và tập kết rác thải cho
tới các trang thiết bị thu gom, vận chuyển theo từng loại rác.
 Nhật Bản - tái chế rác thải
Nhật Bản đã thực hiện rất tốt việc phân loại tại nguồn - điều mà các nước
phát triển đã làm từ hàng chục năm qua. Các hộ gia đình được yêu cầu phân chia
rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ phân hủy, rác không cháy được nhưng có thể tái
chế và loại rác khó tái chế. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong
những túi có màu sắc khác nhau. Nếu gia đình nào không chịu phân loại, để lẫn
lộn vào một túi thì công ty vệ sinh sẽ gửi giấy báo phạt tiền đến nhà ngay ngày
hôm sau. Đối với các loại rác thải cồng kềnh như tivi, tủ lạnh, máy giặt, vật liệu
xây dựng… thì phải đăng ký trước và đúng ngày quy định sẽ có xe của Công ty
vệ sinh môi trường đến chuyên chở, không được tùy tiện vứt trên hè phố.
Việc tái chế rác ở Nhật Bản cũng rất công phu: 70% rác nhà bếp được tái
chế thành phân bón hữu cơ góp phần cải tạo đất, giảm bớt nhu cầu sản xuất và
nhập khẩu phân bón. Với bao bì và nhựa, Nhật Bản phải sử dụng 10% lượng dầu
thô nhập khẩu để chế tạo ra 12 triệu tấn nhựa công nghiệp, chiếm 10% hàng
nhựa trên thế giới. Riêng phế thải xây dựng, người ta phải thu gom vật liệu và bê
tông phế thải từ các công trường xây dựng chuyển đến nhà máy chuyên tái chế
thành cát và sắt thép. Chi phí cho việc xử lý rác hàng năm tính theo đầu người
khoảng 300 nghìn yên (khoảng 2.500 USD). Với cách thu gom, xử lý rác như
vậy đem lại nhiều lợi ích: Tiết kiệm được chi phí xử lý, giảm lượng rác thải ra
16

môi trường, tạo thêm hàng hoá sử dụng, tạo công ăn việc làm cho những người
làm công tác thu nhặt, phân loại đồng thời thay thế một phần nguyên liệu đầu
vào, do đó tiết kiệm được tài nguyên và công khai thác [17].
 Singapore và đảo rác sinh thái
Xử lý rác thải đã trở thành vấn đề sống còn ở Singapore, một quốc đảo
vốn rất “eo hẹp” về diện tích. Vào năm 1999, bãi rác cuối cùng trên đất liền của
Singapore ở Lorong Halus đóng cửa, Singapore khánh thành đảo nhân tạo đầu
tiên trên thế giới làm hoàn toàn từ… rác thải và nay đã trở thành một địa điểm
du lịch sinh thái độc nhất vô nhị. Cách đất liền Singapore 8 km về phía Nam,
đảo chứa rác Semakau rộng 350 ha có thể chứa 63 triệu mét khối rác, đủ đáp
ứng nhu cầu chứa rác của Singapore đến năm 2045. Chính quyền Singapore khi
đó đã đầu tư 447 triệu USD để có được đảo liên hợp nối liền 2 hòn đảo nhỏ bằng
con đập xây bằng đá dài 7 km. Hiện nay, toàn bộ rác thải ở Singapore được xử
lý tại 4 nhà máy đốt rác. Hàng ngày, hơn 2.000 tấn tro rác là sản phẩm thu được
sau khi đốt được các sà lan lớn chở vào đảo.
Nhờ vào các khâu hoạch định, thiết kế và xây dựng, kể từ khi đi vào hoạt
động, bãi rác Semakau vẫn bảo vệ được hệ sinh thái cũng như môi trường tự
nhiên phong phú. Hàng năm, Semakau đón nhiều lượt du khách đến tham quan
với chức năng như một điểm du lịch sinh thái: Câu cá, quan sát các loài chim,
ngắm trăng sao và đa dạng sinh học và các hoạt động giải trí, ngoại khóa…
Để bảo vệ môi trường, người dân Singapore thực hiện tối đa 3R: Reduce
(giảm sử dụng), Reuse (dùng lại) và Recycle (tái chế) để kéo dài thời gian sử
dụng bãi rác Semakau càng lâu càng tốt. Và việc bãi rác Semakau tăng tuổi thọ
là một minh chứng cho thấy người dân nước này đóng góp rất tích cực vào việc
bảo vệ môi trường. Một mục tiêu trong kế hoạch Xanh của chính phủ Singapore
năm 2012 là “Không cần bãi rác” chỉ đạt được khi tất cả mọi người cùng chung
sức [17].
17
 New York - chu trình chặt chẽ
Với hơn 8 triệu dân, New York là đô thị đông dân nhất nước Mỹ đồng

thời cũng là một nhà máy xử lý rác đúng nghĩa. Mỗi ngày số lượng rác phát sinh
trong thành phố lên tới nhiều chục nghìn tấn. Chi phí xử lý mỗi tấn rác tại đây
lên tới 54-65 USD, chưa kể chi phí vận chuyển do nhà máy xử lý đặt rất xa
trung tâm. Nước Mỹ có quy định rõ ràng nghiêm ngặt về vấn đề hôm nào thì chở
loại rác nào và yêu cầu đối với rác ra sao. Nhà nào, dù ở trong hay ngoài thành
phố, đều phải có 3 thùng rác, dùng 3 loại túi ni lông lớn có màu khác nhau để
phân loại: Loại có thể thu hồi, báo chí - bìa hộp và loại rác sinh hoạt ít giá trị tái
sử dụng. Các loại túi này đều có tiêu chuẩn về kích thước, độ dầy, bên ngoài túi
có in trọng lượng lớn nhất mà túi có thể chịu được. Có những loại rác không thể
đựng vào túi như tủ lạnh cũ, máy phát điện, ti vi cũ, giường đệm, xa lông v.v
thì gia chủ phải báo trước cho cơ quan vệ sinh môi trường và phải tuân theo sự
bố trí của họ. Để phân tán rác, quy định mỗi bên phố thu rác trong một ngày
riêng, hôm nay thu bên nhà số chẵn, mai thu bên nhà số lẻ; có lúc chỉ thu túi rác
màu này hoặc màu kia, có lúc chỉ thu thùng carton hoặc giấy đã cuộn gói lại.
Nhờ có kế hoạch phân định rõ thời gian thu rác và loại rác sẽ thu mà rác
không bị tập trung quá nhiều, số lượng rác thu mỗi ngày tương đối ổn định, dễ
bố trí xe rác.
Tại New York, giấy báo cũ không được bán lấy tiền, thậm chí còn phải
nộp tiền xử lý. Nhưng các phế phẩm khác thì có thể được bán, như vỏ lon hộp
nhôm, chai lọ thủy tinh và nhựa. Trên các loại vật dụng này đều có in sẵn giá
tiền, như trên vỏ lon có chữ “5 xu”, nghĩa là đem vỏ lon dùng rồi đem bán sẽ
được trả 5 xu. Các siêu thị lớn đều có nơi thu mua các thứ phế phẩm đó. Lon thu
mua được đưa vào máy xay thành bột, nhằm thu nhỏ không gian đựng chúng,
sau đó máy in ra biên lai số tiền trả cho người nộp phế phẩm. Có thể dùng biên
lai này để mua hàng thay tiền hoặc đổi lấy tiền mặt.
18
Cơ quan vệ sinh môi trường sử dụng các loại xe chế biến xử lý rác rất
hiện đại, trông như một cỗ xe tăng hoặc xe bọc thép khổng lồ kiên cố, có công
suất cực lớn. Đồ phế thải dù lớn và cứng đến đâu, như bộ xa lông, tủ lạnh to,
máy phát điện, ghế xoay bằng thép v.v đưa vào xe này đều có thể ép bẹp gí rồi

chứa vào trong thùng xe bọc kín. Mỗi loại xe có một nhiệm vụ riêng, loại này
thu nhặt rác, loại khác xử lý rác. Rác đã khuân ra ngoài nhà thì không phải đem
vào nhà nữa, vì đây là do cơ quan VSMT gây ra chứ không phải do lỗi của dân.
Tuy nhiên, nếu người dân không tuân theo quy định thì sẽ không được thu rác,
đồng thời sẽ bị gửi biên lai phạt đến nhà, tiền phạt rất cao; người vi phạm nặng
có thể bị phạt đến 200 USD [17].
Tại các nước đang phát triển thì công tác thu gom rác thải còn nhiều vấn
đề bất cập. Việc bố trí mạng lưới thu gom và vận chuyển rác thải chưa hợp lý,
trang thiết bị còn thiếu và thô sơ dẫn đến chi phí thu gom tăng mà hiệu quả lại
thấp. So với các nước phát triển thì tỷ lệ thu gom rác ở các nước đang phát triển
như Việt Nam và khu vực Nam Mỹ còn thấp hơn nhiều. Theo báo cáo Diễn biến
môi trường Việt Nam 2004 cho biết, hầu hết các nước Nam Á và Đông Nam Á
rác thải được chuyển đến các bãi chôn lấp hoặc các bãi lộ thiên để tiêu hủy [11].
Các nước như Việt Nam, Bangladet, Hongkong, Srilanka, Ấn Độ, Trung
Quốc và Hàn Quốc có tỷ lệ chôn lấp lớn nhất, lên tới trên 90%. Đối với chất thải
hữu cơ, ủ phân compost là phương pháp tiêu hủy chủ yếu. Một số nước như Ấn
Độ, Philippin, Thái Lan… áp dụng phương pháp này khá phổ biến. Tuy nhiên,
chưa có nước nào tận dụng hết tiềm năng sản xuất phân compost.
19
Bảng 2.4 Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á
(Đơn vị %)
Quốc gia
Bãi rác lộ thiên,
chôn lấp
Thiêu đốt
Chế biến phân
compost
Phương pháp
khác
Việt Nam 96 - 4 -

Bangladet 95 - - 5
Hongkong 92 8 - -
Ấn Độ 70 - 20 10
Indonexia 80 5 10 5
Nhật Bản 22 74 0,1 3,9
Hàn Quốc 90 - - 10
Malayxia 70 5 10 15
Philippin 85 - 10 5
Srilanka 90 - - 10
(Nguồn: Trích dẫn theo Viện khoa học thủy lợi, 2006)
2.6 Tình hình quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam
2.6.1 Phát sinh rác thải sinh hoạt tại Việt Nam
Các đô thị là nguồn phát sinh chính của CTRSH. Các khu đô thị tuy có
dân số chỉ chiếm 24% dân số của cả nước nhưng lại phát sinh đến hơn 6 triệu
tấn chất thải mỗi năm (tương ứng với 50% tổng lượng CTRSH của cả nước).
Ước tính mỗi người dân đô thị ở Việt Nam trung bình phát thải khoảng trên 2/3
kg chất thải mỗi ngày, gấp đôi lượng thải bình quân đầu người ở vùng nông
thôn. Thống kê cho thấy: Năm 2004, lượng CTR đô thị bình quân khoảng 0,9-
1,2 kg/người/ngày ở các đô thị lớn và dao động từ 0,5-0,65 kg/người/ngày ở các
đô thị nhỏ. Đến năm 2008, con số này đã tăng lên 1,45 kg/người/ngày ở khu vực
đô thị và 0,4 kg/người/ngày tại khu vực nông thôn [2].
Tổng lượng CTRSH ở các đô thị phát sinh trên toàn quốc năm 2008
khoảng 35.100 tấn/ngày, CTRSH ở khu vực nông thôn khoảng 24.900 tấn/ngày
(Trung tâm nghiên cứu và quy hoạch môi trường đô thị - nông thôn, Bộ Xây
dựng, 2010). Tại hầu hết các đô thị, khối lượng CTRSH chiếm 60-70% tổng
20

×