Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Văn hóa ứng xử, văn hóa nói

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.44 KB, 20 trang )

Văn hóa ứng xử, văn hóa nói
I. Khái niệm văn hóa,văn hóa ứng xử
1. Khái niệm
Theo “Cẩm nang ứng xử bí quyết trẻ lâu sống lâu”- Ts Nguyễn Thế Hùng
đầu tiên quan tâm đến khái niệm này. Ông cho rằng văn là đẹp, hóa là giáo hóa.
Văn hóa là dùng văn để giáo hóa. “Văn hóa nghĩa là lấy cái đẹp để giáo hóa con
người”.
Sau đó xuất hiện nhiều định nghĩa văn hóa khác nhau:
+ Theo E.Henriotte: “Văn hóa là cái gì còn lại sau khi người ta đã quên đi
tất cả,là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”.
+ Theo từ điển tiếng việt, văn hoá được định nghĩa là: “Văn hóa là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử”.
+ Ts Nguyễn Thế Hùng viết: Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống
con người, là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần xã hội, thể hiện trình độ
phát triển chung của một đất nước, một thời đại. Văn hóa thể hiện khát vọng
sống của con người hướng về Chân_Thiện_Mỹ. Văn hóa trở thành công cụ quan
trọng của con người.
Ứng xử là từ ghép gồm “ ứng” và “ xử”. “ Ứng” là ứng đối, ứng phó.
“Xử” là xử thế, xử lí, xử sự….. Ứng xử là phản ứng của con người đối với sự tác
động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Ứng xử là
phản ứng có lựa chọn tính toán, là cách nói năng tuỳ thuộc vào tri thức, kinh
nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả cao nhất trong giao tiếp.
Ts Nguyễn Thế Hùng đã phân tích rất rõ: Cách ứng xử của người Việt
Nam chúng ta khác với người Châu Âu. Người Việt Nam chúng ta ứng xử duy
tình (nặng về tình cảm). “Một trăm cái lí không bằng một tí cái tình”. Đó là đặc
trưng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, làng nghề thôn dã. Họ trọng tình
anh em, họ hang, tình làng nghĩa xóm. Xem bữa cơm gia đình như để cởi mở,
thân thiện. Người Châu Âu duy lí tính, văn minh, du mục, trọng động.
1
“Văn hóa ứng xử” là: Thế ứng xử, là sự thể hiện triết lí sống, các lối sống,


lối suy nghĩ, lối hành động của một cộng đồng người trong việc ứng xử và giải
quyết những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội từ vi mô (gia
đình) đến vĩ mô (nhân gian).”
Văn hóa ứng xử phải dược nhìn nhận từ ít nhất dưới bốn chiều kính của
con người: quan hệ với tự nhiên_chiều cao, quan hệ với xã hội_chiều rộng, quan
hệ với chính mình chiều sâu, quan hệ với tổ tiên và con cháu mai sau_chiều lịch
sử.
2. Bản chất ứng xử
(Theo cẩm nang ứng xử bí quyết để trẻ lâu sống lâu_Ts Nguyễn Thế
Hùng)
Bản chất của ứng xử gồm có 2 chữ: tâm và nhẫn
a, Chữ tâm :
Gốc từ chữ Hán_chữ tượng hình (vừa có hình vừa có nghĩa), hình quả
tim. Trái tim là nơi quan trọng nhất, quý giá nhất cần được bảo vệ nhất trong cơ
thể con người. Tâm còn mang ý nghĩa: lương tâm, đức độ, tấm long,long bao
dung, nhân ái, độ lượng, vị tha, thương người như thể thương thân. Tâm còn thể
hiện ở sự cảm thông, chia sẻ… Trong từ điển tiếng Việt, tâm có nghĩa là tình
cảm, ý chí. Tâm là đạo đức, tâm đẹp là đạo đức tốt, còn gọi là “tâm thanh tịnh”,
là ba không: “từ tâm”(thiện tâm) và “ác tâm” (tà tâm). Tâm thuộc phạm trù
“luân lí đạo đức”. (ngũ luân và ngũ thường)
b, Chữ nhẫn:
Là sự nhẫn nhịn, nhường nhịn nhận phần thiệt về mình. Chữ nhẫn gồm 2
bộ phận hợp thành, trên là bộ đao, dưới là chữ tâm (dao nhọn đâm vào tim mà
chịu là nhẫn). Nhẫn là bí quyết của thành công, là trọn vẹn đạo nghĩa trên đời.
“Nước chảy đá mòn “. Từ ông cha ta xưa cho đến con cháu thời nay đã trải qua
hơn nghìn 4000 năm dựng nước và giữ nước đã biết cách dùng chữ nhẫn thật
khôn ngoan, linh hoạt, mềm dẻo dể vừa giữ được nước, vừa không làm mất hoà
khí hai bên. Đó là kinh nghiệm chiến đấu và ngoại giao thắng lợi
“Nhẫn nhất thời phong tình lãng tử
2

Thoái thoát bộ hải khoát thiên không “
II. Văn hoá nói
Văn hóa ứng xử được biểu hiện qua hai hình thái: văn hoá nói và băn hoá
hành động. Văn hoá hành động tuy rằng cũng rất quan trọng nhưng để đi từ trái
tim đến trái tim một cách nhanh nhất đó chính là lời nói, là câu nói. Nói thế nào
để người khác hiểu được điều mình muốn nói, muốn truyền đạt và hiểu được
mình là một điều rất khó phải trải qua thời gian rèn rữa,tự tu dưỡng lâu dài (có
khi cả cuộc đời con người) sao cho nói mọtt cách có văn hoá. Văn hóa nói rất
quan trọng vì lời nói thể hiện sự khác nhau cơ bản giữa con người với loài vật.
Nói là để thể hiện tư duy, tình cảm, ý thức, phẩm cách. Qua lời nói con người
bộc lộ toàn bộ phẩm chất, nhân cách và đạo dức cũng như tri thức,trí tuệ lời nói
phát ngôn ra thì rất dễ nhưng nói sao cho thật đẹp, thật có văn hoá lại rất khó,
cần phải học hỏi rất nhiều.
1. Nói bằng miệng
Lời nói trựuc tiếp tác động đến đối tượng giao tiếp. Nói thế nào cho co
văn hóa để thể hiện mình là người lịch sự, văn minh. Lời nói còn là biểu hiện
của tri thức và sự giáo dục. Có thể nói, lời nói là thước đo nhân cách của mỗi
người. Làm người phải học bốn điều: học ăn, học nói, học gói học mở. Văn hoá
nói được xác định là những khuôn mẫu, là toàn bộ những biện pháp sử dụng
ngôn ngữ trong hoạt động lời nói. Cần giáo dục cho người học tiếng mẹ đẻ ngay
từ đầu xây dựng ý thức nói năng cho chuẩn mực, theo những thói quen để trở
thành truyền thống của dân tộc, đồng thời tập xây dựng những lời nói phản ánh
một cách sinh động, những tư tưởng tình cảm của mình, chứ không phải những
lời nói khuôn sáo chung chung. Để đạt được mục đích giao tiếp thì phải sử dụng
những lời nói có hiệu quả, đúng lúc đúng chỗ, phù hợp với tuổi tác địa vị,với
hoàn cảnh giao tiếp, với tâm li người nghe.
B.Franklin có một câu nói rất nổi tiếng:
“Trái tim của người ngu ở nơi cửa miệng ,miệng của người khôn ở trong
trái tim ”
3

Pitago nói:“tiếng nói là hơi thở của tâm hồn ”
Gaphit nói: “lời nói mà bạn kiềm chế được là nô lệ của bạn,lời nói nao
buột miệng thốt ra là kẻ sai khiến bạn”
Ngạn ngữ Tây Ban Nha: “nói mà không suy nghĩ khác nào bắn mà không
ngắm”.
Ts Thế Hùng: “người có văn hoá nói năng từ tốn, lễ độ nhỏ nhẹ đoan
trang, chậm rãi, nhã nhặn, có suy nghĩ, có tình, có lí, có ngữ điệu, lấy tâm, lấy
nhẫn mà nói”.
Trong các hội nghị, khi giới thiệu nên ưu tiên giới thiệu phụ nữ trước,
nam giới sau: “thưa các quý bà, thưa các quý ông ….” Khi đi trên đường hãy
nhường bên an toàn cho phụ nữ. Khi bắt tay ,bắt tay phụ nữ trước bắt tay nam
giới sau. Khi đi trên đường,trên xe buýt, biết đỡ đồ nặng nhường chỗ cho phụ
nữ.
Trong ứng xử hang ngày nên thường trực câu xin lỗi, cám ơn, làm ơn nơi
cửa miệng. Hãy quan niệm lời xin lỗi là một hành vi tốt đẹp, một nét đẹp của
những người có văn hoá vì chỉ co những người có văn hoá mới biết nhận lỗi để
xin lỗi.
Trong văn hoá điện thoại phải xưng danh và xin gặp người mình muốn
nói chuyện, nếu gọi nhầm số phải xin lỗi và nhẹ nhàng đặt máy. Kỹ năng nói
chuyện điện thoại cũng rất quan trọng. Bao giờ cũng phải tỏ ra nhiệt tình trả lời
một cách tế nhị, vui vẻ, dù là người gọi đến có thái độ ra sao (nói năng cộc cằn
thô lỗ) vẫn phải giữ thái độ khiêm nhường bởi đặc trưng của giao tiếp điện thoại
là một khoảng cách xa và chỉ trao đối trong một khoảng thời gian ngắn nhất định
vì vậy chỉ cần qua cách ứng xử thì người khác có thể đánh giá bạn là người như
thế nào? Đặc biệt không nên gọi điện vào gìơ nghỉ giải lao buổi trưa hoặc quá
22h tối cũng như quá sớm, không nên nói chuyện oang oang và quá lâu trong
phòng có đông người. Kết thúc cuộc gọi nên nói lời cảm ơn,chào tạm biệt hay
hẹn gặp lại.
Trong giao tiếp, tranh những điều tối kỵ sau: nói xa xôi bóng gió, nói sai
sự thật, nói quá to là người thô thiển, nói thầm dễ bị hiểu là nói xấu. Nói quá

4
nhiều là dại là tra tấn người khác. Nói chuyện không chú ý đến đối tượng là
người bất lịch sự. Nói ngọng, nói lắp phải sửa. Kiểm soát được lời nói, không
nói nửa chừng hoặc cướp lời, tránh làm tổn thương hoặc chạm đến long tự ái của
người khác. Không nên tự nói về mình, tự đề cao mình cho rằng mình thông
thái, biết tất cả. Không nên dùng những ngôn từ quá bong bẩy hoặc chem, câu
ngoại ngữ vào một cách tuỳ tiện. Không nói bậy văng tục, không được nói quá
to ở những nơi trang nghiêm (hà thờ, chùa chiền…). Đặc biệt phải quan tâm đến
những hiểu biết của mình về đối tượng thì mới có thể đạt được hiểu quả giao
tiếp cao.
Kỹ năng gây thiện cảm trong giao tiếp
Hãy giữ nụ cười trên môi
Ôn tồn ngọt ngào
Nhớ tến người đối thoại
Biết lắng nghe biết tiếp thu
Đừng ham tranh luận
Tôn trọng ý kiến người khác
Khen ngợi ý kiến đối tượng
Trong khoa học tâm lí, qua cách nói, ngữ điệu, âm sắc có thể hiểu biết bản
chất con người. Người có giọng trầm, sâu sắc, là người có hiểu biết, từng trải,
thích điều khiển thống trị người khác. Người có giọng nói mãnh liệt, hân hoan,
phấn khởi, đắm say là người có sức khoẻ, nội lực lớn cao thượng, rộng lượng và
đam mê. Người có giọng nói sống động, thoải mái là người lanh lợi, thích hoạt
động, hăng hái trong công việc, có khả năng làm công tác phong trào: thanh
niên, phụ nữ, công đoàn… Người có (giọng nói yếu ớt, khó nhọc nói như than
vãn là người yếu đuối, thiếu tự tin, không bản lĩnh, không dám quyết đoán
những việc lớn lao. Ngưòi có giọng nói lạnh lung là người ích kỷ, hay tính toán,
ngờ vực. Người mà khi nói 2 hàm răng kít lại vào nhau là người keo kiệt, bủn
xỉn, rán sành ra mỡ. Ngược lại, người khi nói toác miệng ra hết cỡ là người phổi
bò, nói đâu quên đấy ruột để ngoài da, không giữ được những điều bí mật,

không nên tin dùng.
5
(Theo Ts Thế Hùng )
Văn hóa nói là tổng hợp những cái đẹp, cái tốt cái hay của cảnh quan môi
trường, của phong tục tập quán, của lối sống… Trong văn hoá giao tiếp, dù với
cá nhân,dù với cộng đồng, làm sao biểu hiện những bét văn minh và đạo đức.
2. Kỹ năng lắng nghe
Văn hoá nói nối liền với văn hoá nghe. Trong 4 động thái của con người:
nghe, nói, đọc, viết thì nghe là động thái có tỷ lệ thời lượng nhiều nhất (53%)
sau đó là nói (38%), cuối cùng là viết (14%).Có câu: “3 tuổi đủ để học nói
nhưng cả cuộc đời không đủ để lắng nghe”. Nhưng thực tế, con người lại quá
chú tâm vào việc học nói,học viết mà quên mất rằng nghe mới là điều quan
trọng nhất, cần phải học nhất.
Để lắng nghe một cách có hiệu quả chúng ta phải nắm được kỹ năng lắng
nghe: “Tập trung sức để thu nhận âm thanh” (từ điển việt). Nghe và lắng nghe
cũng là một nghệ thuật và phải được học tập nghiêm túc mới có được kinh
nghiệm, mới hình thành dần các kỹ năng lắng nghe. Mỗi người có cách lắng
nghe riêng nhưng chung quy lại là chủ động lắng nghe và hoà nhịp cùng người
nói. Quy trình nghe được diễn tả bằng sơ đồ sau đây
Sóng âm _ màng nhĩ_ não _ nghĩa
Quá trình truyền thông là một tiến trình tương hỗ và tuần hoàn, trong đó
có kẻ nói người nghe tuy nhiên không phải ai cũng chú ý nghe và lắng nghe.
Vậy tại sao phải lắng nghe ?
. Trong giao tiếp thông thường,lắng nghe có mấy lợi ích sau:
Thoả mãn nhu cầu của đối tượng, không có gì chán bằng khi mình nói mà
không ai nghe. Vì vậy khi bạn lắng nghe người ta nói, chứng tỏ bạn tôn trọng
người khác và có thể thoả mãn nhu cầu tự trọng của họ.
. Thu thập được nhiều thông tin hơn bằng cách khuyến khích người ta nói
bạn sẽ có được nhiều thông tin, từ đó có cơ sở để quyết định,bạn càng có được
nhiều thông tin thì quyết định của bạn càng chính xác.

6
. Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Khi một người tìm được một
người có cảm tình lắng nghe thì sẽ nảy sinh mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe
giúp tình bằn hữu tăng trưởng và kết quả sẽ là sự hợp tác trong hoạt động.
. Tìm hiểu được người khác một cách một cách tốt hơn. Lắng nghe giúp
bạn nắm được tính cách, tính nết và quan điểm của họ vì họ sẽ bộc lộ con người
của họ trong khi nói.
. Giúp người khác có được sự lắng nghe hiểu quả. Bằng cách tạo dựng
một không khí lắng nghe tốt bạn sẽ thấy rằng những người nói chuyện với bạn
trở thành những người lắng nghe có hiệu quả.
. Lắng nghe giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. Có nhiều vấn đề
nhiều sự mâu thuẫn không giải quyết được chỉ vì hai bên không chịu lắng nghe
để hiểu nhau. Bằng sự cởi mở của bản thân, bằng cách khuyến khích người ta
nói, hai bên sẽ phát hiện ra những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn và cùng nhau
giải quyết để thoát khỏi xự xung đột đó.
Kỹ năng lắng nghe :ngồi 1/3 ghế,người đổ về phía trước,tránh ngồi ngả ra
phía sau, chân, chân sau ngang bằng, buông tự nhiên tạo ra sự thoải mái. Hai tay
áp vào má hoặc chống cằm chăm chú hướng về đối tác, đầu gật gật theo .... ủng
hộ, khích lệ bằng cử chỉ,tiếng để kèm theo những câu cảm thán biểu hiện sự
thích thú như: vâng, dạ, thế ạ, thế à, ừ, à,nhất trí, đồng ý, nhún vai, nhíu mày…
Tuỳ theo tuổi tác,trên dưới hoặc mức độ thân mật. Nói là bạc, im lặng là vàng,
lắng nghe là kim cương.
Chữ “thính” (nghe) là chữ tượng hình Trung Quốc với nhiều ý nghĩa hàm
chứa cả các chữ: nhĩ, vương, nhãn, nhất, tâm.
Lắng nghe có hiệu quả: nghe với 5 mức độ khác nhau:
. Làm lơ: thực sự không nghe gì cả
. Giả vờ nghe: để làm người khác quan tâm bằng cách lặp đi lặp lại một
cách máy móc và đôi khi không đúng chỗ: ư`, đúng đúng …
. Nghe và chọn lọc: tức là chỉ nghe một phần lúc nói chuyện.
. Chăm chú nghe: tập trung chú ý và sức lực vào những lời mình nghe

được.
7
. Nghe thấu cảm: có rất ít người thực hiện được mức độ nghe này, đây là
hình thức nghe cao nhất, là đặt mình vào vị trí, tình cảm của người khác để hiểu
được họ có cảm nghĩ như thế nào? Khi nghe thấu cảm bạn sẽ đi sâu vào người
khác, qua đó bạn phát hiện và nhìn cuộc đời theo cách nhìn của người khác,bạn
hiểu được tâm tư, tình cảm của họ.
Người nói bao giờ cũng có tâm lí :khi nói chuyện muốn được người khác
chú ý lắng nghe, muốn được tôn trọng,vì thế người có văn hoá là người lắng
nghe chăm chú, tập trung cao độ,không làm việc khác, không ngoái đi ngoái
lại,không nghe điện thoại di động,không chê bai, dè bỉu, cắt ngang, lên mặt, đốp
chát, sỗ sang…gây cho người nói có tâm lí bị xem thường, khó chịu, bị xúc
phạm thậm chí có những trường hợp phải dùng chữ “nhẫn” mà nghe. Nếu đã
không muốn nghe thì mọi diễn đạt phải dùng lời nói, bằng tay, bằng miệng,
bằng cử chỉ hoạt động khác cũng đều vô nghĩa
“Điếc hơn người điếc là người không muốn nghe ”
3. Nụ cười
Cười được xem như một cách nói, nụ cười là sứ giả đầu tiên trong giao
tiếp, luôn giữ được nụ cười trên môi là yếu tố hang đầu gây được thiện cảm. Nụ
cười là món quà vô giá của tạo hoá.
Mác nói: “Nhân loại vừa cười vừa tách ra khỏi quá khứ .”
Vua hề Sáclô: “tiếng cười sẽ cứu thế giới”
Victo Hugo nói “Nụ cười xua tan mùa đông trên khuôn mặt con người”
L.Tônxtôi : “Không có gì làm người ta xích lại gần nhau như nụ cười
hiền lành”
Puskin: “một nụ cươi chỉ nở trong khoảnh khắc nhưng có khi làm người ta
nhớ suốt đời”.
Đêstôiepxki: “Nếu bạn muốn xét đoán một người và nhận biết tâm hồn
người đó thì bạn hãy tìm hiểu không phải anh ta im lặng, nói năng, khóc lóc hay
đang xúc động những ý tưởng cao thượng, tốt nhất hãy nhìn anh ta cười”.

8

×