Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bản chất phạm trù cái đẹp trong mỹ học của Immanuel Kant

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.59 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bản chất phạm trù cái đẹp trong mỹ học của Immanuel Kant
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới, điều này làm cho tiến
trình quốc tế hóa diễn ra hết sức mạnh mẽ, kéo theo đó là sự giao lưu, xâm nhập
của các nền văn hóa. Ngoài những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó là có
thể dẫn tới sự đồng hóa văn hóa, sự phai nhạt, biến mất của văn hóa dân tộc.
Chính vì vậy chúng ta cần phải có những nhận thức đúng đắn về mọi lĩnh vực
kinh tế - chính trị, văn hóa nghệ thuật… Trong đó văn hóa nghệ thuật mà cụ thể
là thẩm mĩ học đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống tri thức về thẩm mỹ một
cách toàn diện để có thể xem xét, đánh giá một cách khoa học, toàn diện về cái
đẹp, giá trị đẹp…
Nằm trong hệ thống tri thức mỹ học, mỹ học của Immanuel Kant là một
bộ phận không thể tách rời của mỹ học. Đặc biệt với những quan điểm mỹ học,
nhất là quan điểm về cái đẹp trong mỹ học. Kant đã được suy tôn là ông tổ của
chủ nghĩa lãng mạn. Thậm chí đánh giá về mỹ học của Immanuel Kan, Otfied
Hoffe đã đưa ra nhận xét như sau: “Kant đã đặt cơ sở mới mẻ thật sự có ý nghĩa
vạch thời đại cho mỹ học, vì đã thiết lập được tính độc lập và tính quy luật riêng
của nó trong quan hệ với nhận thức khoa học và thực hành luân lý, chính trị…”
Như vậy việc nghiên cứu về mỹ học của Immanuel Kant nói chung và quan
điểm về phạm trù cái đẹp của Kant nói riêng là hết sức cần thiết.
Mặt khác trong quá trình học tập bộ môn triết học, em thực sự thấy hứng
thú với học phần triết học cổ điền Đức mà cụ thể là triết học của I.Kant, trong đó
có thẩm mỹ học của I.Kant. Do đó em đã lựa chọn đề tài về phạm trù cái đẹp
trong tư tưởng mỹ học của I.Kant cho niên luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cái đẹp và bản chất của cái đẹp là một đề tài gây nhiều tranh cãi trong
khoa học và nghệ thuật. Chính vì thế đã có nhiều người nghiên cứu về cái đẹp và
bản chất của nó. Song những nghiên cứu về hệ thống mỹ học nói chung và phạm
trù cái đẹp nói riêng của I.Kant chủ yếu đều ở góc độ chúng là một bộ phận


trong toàn bộ hệ thống triết học của I.Kant. Những nghiên cứu đó chỉ dừng lại
ở mức độ khái quát trong các giáo trình triết học lịch sử, lịch sử mỹ học nói
chung và trong các tập bài giảng dùng cho sinh viên chuyên ngành mỹ học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của niên luận
Mục đích của niên luận này là: Niên luận muốn đi sâu vào cái đẹp với tư
cách là phạm trù chủ chốt của mỹ học I.Kant và nhằm nêu lên một cách khái
quát nhất về bản chất của phạm trù cái đẹp trong mỹ học của I.Kant.
Để thực hiện được mục đích đó thì nhiệm vụ đầu tiên và cũng là duy nhất
của niên luận đó là :Làm sáng tỏ quan điểm của I. Kant về cái đẹp, thông qua
việc trình bày một cách hệ thống những quan điểm của ông về cái đẹp.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận của đề tài này chính là những quan điểm về cái đẹp của I.
Kant trong tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán”, cùng các đánh giá, luận
giải về các quan điểm đó của các nhà nghiên cứu về triết học I. Kant và mỹ học
của ông.
Bài viết dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác về lịch sử và phương
pháp nghiên cứu biện chứng. Trên cơ sở đó bài viết sử dụng phương pháp
nghiên cứu phân tích và tổng hợp.
5. Đóng góp của niên luận
Đóng góp của niên luận này là góp phần làm sáng tỏ bản chất của phạm
trù cái đẹp trong mỹ học của I. Kant.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Về mặt lí luận, niên luận đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm về
cái đẹp của I. Kant.
Về mặt thực tiễn, niên luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các bạn sinh
viên có hứng thú với vấn đề cái đẹp trong mỹ học của I. Kant.
2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: IMMANUEL KANT VÀ THỜI ĐẠI
1.1. Thời đại

Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và
phát triển ở hầu hết các nước tư bản Tây Âu, và thành quả cuộc cách mạng công
nghiệp đã tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất,
khẳng định tính ưu việt của nó. Trong khi đó nước Đức vẫn tồn tại chế độ phong
kiến bảo thủ, trì trệ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Khắp nước Đức lúc này
lúc này bao trùm một không khí của sự bất bình nhất là ở giai cấp tư sản Đức.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX cũng được đánh dấu bởi sự phát triển
của các thành tựu khoa học kĩ thuật với các thành tựu khoa học kĩ thuật với các
thành tựu như: việc phát hiện và chứng minh được định luật bảo toàn năng
lượng, học thuyết tế bào, tìm ra ôxi và bản chất của sự cháy… Những thành tựu
mới của khoa học kỹ thuật đã chứng minh rằng phương pháp tư duy siêu hình đã
không còn phù hợp, hệ thống lí luận siêu hình của các triết gia thời cận đại như
Descartes, Leibniz, Spinoza… đã không thể lí giải được những vấn đề mới của
thế giới hiện thực sinh động đang tồn tại, và đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống
lí luận mới có thể hệ thống và giải thích những hiện tượng của giới tự nhiên, xã
hội một cách chính xác, toàn điện và biện chứng.
Cùng với sự thiết lập và phát triển của chủ nghĩa tư bản thay thế cho chế
độ phong kiến đã lỗi thời, thì trong triết học cũng diễn ra một quá trình biến đổi
sâu sắc. Đó là, lúc này, triết học đã trút bỏ chiếc áo choàng mang màu sắc tôn
giáo, thần học để hướng tới một nền triết học duy vật, duy lí khám phá và luận
giải cho khả năng khám phá, nhận thức thế giới, những nhu cầu trên đã thúc đẩy
I. Kant đưa ra hệ thống triết học phê phán mở đầu triết học cổ điển Đức.
1.2. Tiểu sử của Immanuel Kant
I. Kant sinh năm 1724, mất năm 1804 tại thành phố Konigberg nay là
Kaleiningrat Đức, trong một gia đình thợ thủ công.
3
Năm 1740, I. Kant vào học khoa triết học tại Đại Học Konigrgerg và tốt
nghiệp loại xuất sắc vào năm 1745.
I. Kant đã giảng dạy siêu hình học, logic học, triết học đạo đức… tại
Konigssberg.

I. Kant đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp triết học. Ba tác phẩm thể
hiện toàn bộ hệ thống triết học của Kan là “phê phán lí tính thuần túy” (1781),
“phê phán lí tính thực tiễn” (1788) và “phê phán năng lực phán đoán” (1790).
Trong đó tác phẩm thứ ba “phê phán năng lực phán đoán” là tác phẩm thể hiện
những quan điểm của Kant về mỹ học.
Phê phán năn lực phán đoán được đánh giá là tác phẩm hoàn thiện hệ
thống triết học Kant, là “viên đã đỉnh vòm” của tòa nhà triết học Kant [ 3, VII]
1.3. Hai giai đoạn sáng tạo triết học Kant
Triết học Kant là sự kế thừa thành tựu khắc phục những khuyết điểm của
nền triết học siêu hình thời cận đại. Chính vì vậy triết học của I. Kant được chia
làm 2 giai đoạn là tiền phền phán và phê phán.
Giai đoạn tiền phê phán (1746 - 1770), là giai đoạn I. Kant chịu ảnh
hưởng sâu sắc của những quan niệm duy vật siêu hình của Descartes. Newton.
Trong giai đoạn này I. Kant đặc biệt đề cao nhận thức lí tính, lí tính được coi
như một công cụ vạn năng trong hoạt động nhận thức của con người, ông đã đưa
ra luận điểm nổi tiếng khẳng định tính chất duy vật và duy lí trong thế giới quan
và phương pháp luận của mình là: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới
từ nó, nghĩa là hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các bạn thấy thế giới được sinh
ra từ nó như thế nào”. Một trong số những thành tựu nổi bật của triết học tiền
phê phán của I. Kant chính là thuyết tinh vân giải thích sự hình thành của vũ trụ.
Giai đoạn phê phán (1770-1804), là giai đoạn I. Kant hướng triết học của
mình vào việc giải quyết những vấn đề con người. Ông đã đặt ra ba câu hỏi:
“Tôi có thể biết được cái ?”, “Tôi cần phải làm gì?” và “tôi có thể hy vọng vào
cái gì?”. Và trả lời ba câu hỏi này ông đã viết bộ ba tác phẩm phê phán. Trong
đó tác phẩm thứ ba “phê phán năng lực phán đoán”, trả lời cho câu hỏi thứ ba
“Tôi có thể hy vọng vào cái gì?”.
4
Trong cuốn “phê phán năng lực phán đoán”, I. Kant đặt ra vấn đề “không
có khoa học về cái đẹp, chỉ có sự phán đoán về cái đẹp”. Như vậy I. Kant đã phê
phán việc sử dụng tư duy lí tính để tìm ra quy luật của cái đẹp và cho rằng cái

đẹp có tính chủ quan.
“Phê phán năng lực phán đoán” là tác phẩm hoàn thiện hệ thống triết học
phê phán của I. Kant, nói một cách khác thì thẩm mỹ học của I. Kant chính là
chiếc cầu nối giữa hoạt động lý luận hay triết học lí luận với hoạt động thực tiễn
hay triết học thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có cơ sở triết học của mình chính là
tư tưởng về nguyên lí tính hệ thống và nguyên lí vô cùng tận của đối tượng nhận
thức trong triết học phê phán của I. Kant. Biểu hiện của hai nguyên lí này chính
là khái niệm về “vật tự nó”.
Khái niệm “vật tự nó” của I. Kant về phương diện nhận thức luận là bản
chất của sự vật khách quan. Nó tồn tại tự nó không phụ thuộc vào những hình
thức nhận thức và logic của con người. Con người không bao giờ nhận thức
được “vật tự nó”. Về mặt đạo đức, thì “vật tự nó” chính là những chuẩn mực
đạo đức lí tưởng có tính chất hoàn thiện tuyệt đối mà con người luôn cố gắng
vươn tới nhưng không bao giờ đạt được.
Quá trình nhận thức của con người chính là quá trình nhận thức về “vật tự
nó”. Con người không thể nhận thức được vật tự nó” mà chỉ có thể nhận thức
được những sự vật, hiện tượng do giới hạn của lí tính, giới hạn của năng lực
nhận thức con người. Đây chính là hạn chế của nhận thức lý tính.
Để khắc phục hạn chế này I. Kant đưa ra một cách nhận thức mới là nhận
thức ngoài khái niệm. Tức là sử dụng các hình ảnh, biểu tượng và năng lực cảm
nhận về đối tượng thông qua sự chiêm nghiệm về đối tượng để đưa ra phán đoán
về nó. Đây chính là phương pháp của mỹ học và phán đoán đưa ra là phán đoán
thẩm mỹ.
5
CHƯƠNG 2: BẢN CHẤT CỦA CÁI ĐẸP TRONG THẨM MỸ HỌC CỦA
IMMANUEL KANT
2.1. Các năng lực thẩm mỹ của con người
Để có thể đưa ra được một phán đoán thẩm mỹ con người cần phải có các
năng lực như: năng lực nhận thức thẩm mỹ, năng lực đánh giá thẩm mỹ và năng
lực thỏa mãn thẩm mỹ.

- Năng lực nhận thức thẩm mỹ
Năng lực nhận thức thẩm mỹ hay còn gọi là năng lực cảm thụ thẩm mỹ
chính là cảm nhận thẩm mỹ của con người. Theo I. Kant năng lực này chính là
một cảm nhận phán tỉnh, một loại trực giác của con người. Loại trực giác mang
cảm xúc của con người khi con người khát vọng đạt được sự tự do tuyệt đối
trong tính hài hòa, hoàn hảo đầy thẩm mỹ. Từ khát vọng ấy con người luôn
muốn vươn cao hơn trong những sản phẩm, tác phẩm do mình sáng tạo ra.
- Năng lực đánh giá thẩm mỹ
Năng lực đánh giá thẩm mỹ chính là khả năng khám phá, nhận định về
cái đẹp và nó được thể hiện qua thị hiếu thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ là năng lực tổng hợp những suy tư, cảm nhận… là sự
nhạy bén của chủ thể thẩm mỹ khi chiêm nghiệm về một đối tượng thẩm mỹ tạo
thành một trình độ và có thể đưa ra một lựa chọn tức thời trong sự cảm nhận về
đối tượng thẩm mỹ. Nói một cách khác thị hiếu thẩm mỹ chính là một năng lực
“tiên nghiệm” của chủ thể thẩm mỹ.
- Năng lực thỏa mãn thẩm mỹ
Năng lực này chính là sự đáp ứng mục đích, đánh giá về đối tượng thẩm
mỹ đang được chiêm ngưỡng thậm chí là chính bản thân mình của chủ thể thẩm
mỹ. Đây chính là năng lực thưởng ngoạn trong sự khám phá cái đẹp thẩm mỹ
tuyệt đối, để cảm nhận sự tự do tuyệt đối mà con người luôn muốn vươn tới.
2.2. Phán đoán thẩm mỹ
Khi đã có các năng lực về nhận thức, đánh giá và thỏa mãn thẩm mỹ, chủ
thể thẩm mỹ có thể đưa ra phán đoán thẩm mỹ về đối tượng thẩm mỹ đang được
chiêm ngưỡng. Vậy phán đoán thẩm mỹ là gì?
6

×