Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Biện chứng cái đẹp, cái đẹp trong trang phục Việt Nam (dân tộc Việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.79 KB, 28 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biện chứng cái đẹp, cái đẹp trong trang phục Việt Nam (dân tộc Việt)
A. BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP
Khi nghiên cứu các phạm trù của khách thể thẩm mĩ, phạm trù cái
đẹp là một phạm trù mà không một nhà nghiên cứu nào có thể bỏ qua.
Điều đó không có gì là khó hiểu cả, bởi “trong cuộc sống của con người,
cái đẹp luôn là người bạn đồng hành, có mặt khắp mọi nơi; cái đẹp vây
quanh con người trong mỗi bước đi, mỗi việc làm, mỗi hành vi ứng xử. Ở
đâu có cuộc sống của con người là ở đó có cái đẹp. Cái đẹp đem lại niềm
vui, niềm hạnh phúc, nâng đỡ con người trong mọi khó khăn, tiếp thêm
sức mạnh để con người vượt qua thử thách. Nhờ có cái đẹp mà con người
không mất lòng tin vào cuộc sống, vào chân lí, vào ngày mai. Cái đẹp
luôn là khát khao vươn tới của con người”.
(Lê Văn Dương)
Cái đẹp được biểu hiện qua muôn vàn những sự vật, hiện tượng tồn
tại xung quanh ta. Có những cái đẹp của thế giới tự nhiên do tạo hoá sinh
ra như sông, núi, biển, trời, trăng, sao…; cũng có những cái đẹp do chính
bàn tay con người làm ra - họ chính là những người nghệ sĩ, bằng tài năng
và tâm huyết của mình, đã tạo ra những tác phẩm độc đáo, sinh động làm
đẹp cho đời (được gọi là cái đẹp trong nghệ thuật). Tuy nhiên, điều mà
chúng ta muốn đề cập đến ở đây lại là cái đẹp tồn tại trong một trạng thái
khác, đó là cái đẹp trong xã hội. Chúng ta sẽ phần nào hiểu rõ hơn về nó
khi đi vào tìm hiểu nếp sống tình cảm của con ngươì thông qua Ngũ luân.
Và lẽ dĩ nhiên, theo quy luật tất yếu, trước khi đi vào nghiên cứu
sâu một khía cạnh nào đó của vấn đề đặt ra, chúng ta phải có nền tảng
chung, hay nói cách khác là, phải có hiểu biết nhất định về vấn đề đó. Bởi
vậy, để hiểu rõ được cái đẹp trong xã hội thông qua Ngũ luân, những hiểu
biết chung về cái đẹp là một điều hết sức cần thiết. Dưới đây sẽ là những
phần mà bài viết đề cập đến:
* Phần I: Tìm hiểu chung về cái đẹp.
* Phần II: Biện chứng cái đẹp trong xã hội thông qua Ngũ luân.


* Phần III: Kết luận chung
PHẦN I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ CÁI ĐẸP
1. Cái đẹp là gì ?
1.1. Vị trí của cái đẹp trong quan hệ thẩm mĩ
Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, cái đẹp là phạm trù thẩm mĩ xuất
hiện sớm nhất. Mặc dù những quan điểm cụ thể về cái đẹp có thể rất khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau đối với những trường phái mĩ học khác
nhau, song có một điểm chung không thể phủ nhận là: bao giờ cái đẹp
cũng được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, là điểm tựa
trung tâm để con người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ.
Với tư cách là chủ thể thẩm mĩ, con người luôn đi tìm cái đẹp, khám
phá cái đẹp và cao hơn là sáng tạo ra cái đẹp. Bởi vậy, con người cũng
đánh giá các sự vật, hiện tượng xung quanh mình theo tiêu chí đẹp hay
không đẹp. Cứ thế, nhu cầu cái đẹp của con người là vô tận, khát khao
vươn tới cái đẹp của con người là không cùng.
Nếu như đứng ở góc độ khách thể thẩm mĩ mà xét, các phạm trù
thẩm mĩ như: cái xấu, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt đều ẩn chứa trong đó
mối quan hệ với cái đẹp, dù là trực tiếp hay gián tiếp:
- Phạm trù cái xấu: là phạm trù đối nghịch với phạm trù cái đẹp.
- Phạm trù cái bi, bản chất của nó chính là sự xung đột trực diện
giữa một bộ phận ưu tú của cái đẹp với toàn bộ cái xấu. Trong qúa trình
giao tranh ấy, một bộ phận ưu tú của cái đẹp bị cái xấu tiêu diệt.
- Phạm trù cái hài, bản chất của nó là sự xung đột giữa cái đẹp với
một bộ phận của cái xấu. Một bộ phận của cái xấu tìm cách chui vào thế
giới của cái đẹp hòng lũng đoạn, khống chế cái đẹp. Chỉ khi nào cái đẹp
đủ sức phát sáng, đuổi cái xấu xa ra khỏi thế giới của mình thì cái hài
xuất hiện.
2
- Phạm trù cái trác tuyệt, là phạm trù liên quan trực tiếp và gần gũi
nhất với cái đẹp. Nói như Hegel, đó là “cái đẹp ở mức tuyệt đỉnh” là cái

đẹp mang một tầm vóc lớn lao, phi thường, là cái đẹp quá mức bình
thường.
Như vậy, ở mức độ này hay mức độ káhoàn cảnh thì cái đẹp đều liên
quan, chi phối đến các phạm trù khác. Nó được xem là tiêu chuẩn, là điểm
tựa để khái quát nên các phạm trù khác. Nếu không có cái đẹp thì nghĩa là
không có các phạm trù kia.
Tóm lại, dù xét từ phương diện nào, khách thể hay chủ thể, thì cái
đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ của
con người với hiện thực.
1.2. Bản chất của cái đẹp
Cái đẹp là một phạm trù hết sức phức tạp, vì thế không dễ gì nhận
diện được bản chất mang tính khái quát của nó.
Trước khi mĩ học Mác - Lênin ra đời, lịch sử tư tưởng mĩ học đã
từng ghi nhận ít nhất là có ba khuynh hướng quan niệm khác nhau về bản
chất của cái đẹp: khuynh hướng duy tâm khách quan, duy tâm chủ quan và
khuynh hướng duy vật. Mỗi học thuyết đều có lí riêng của mình.
- Mĩ học duy tâm khách quan (Platon, Hêgel…) không tìm thấy cơ
sở của cái đẹp ở trong các sự vật, hiện tượng của thế giới hiện thực, họ lí
giải nguồn gốc của nó trong thế giới ý niệm. Bởi vậy, cái đẹp, theo họ là
một phạm trù vĩnh cửu, bất biến.
- Mĩ học duy tâm chủ quan (Hume, Lalo, Kant…) lại có quan niệm
khác, họ tuyệt đối hoá cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc
cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc chủ quan của cá nhân.
“Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con
mắt của kẻ si tình”.
- Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, mĩ học duy vật trước Mác lại tập
trung sự chú ý vào phương diện khách quan của cái đẹp. Họ cho rằng, cái
đẹp là một thuộc tính tự nhiên, vốn có của sự vật, sự vật tự nó đã đẹp rồi,
3
con người chẳng qua chỉ là kẻ thưởng ngoạn vẻ đẹp ấy một cách bị động

mà thôi.
- Mĩ học Mác - Lênin đã lí giải về bản chất của cái đẹp trên một
chất lượng mới. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mĩ học
Mác xít quan niệm rằng, bản chất của cái đẹp là sự thống nhất biện chứng
giữa hai nhân tố khách quan và chủ quan.
Với cách nhìn biện chứng như vậy, mĩ học Mác - Lênin đã khắc
phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình khi nó chỉ nhìn thấy
mặt khách quan của cái đẹp; đồng thời cũng chỉ ra tính chất phiến diện
của chủ nghĩa duy tâm khi họ quan niệm rằng cái đẹp chỉ là kết quả của
cảm xúc chủ quan của con người.
1.3. Đặc điểm cơ bản của cái đẹp
a- Cái đẹp vừa mang tính lịch sử, thời sự; vừa mang tính muôn thủa,
vĩnh viễn. Có những cái đẹp chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, nhưng cũng có cái đẹp tồn tại mãi với thời gian.
b- Cái đẹp bao gồm những phẩm chất: hài hoà, cân đối, mực thước,
chất lượng, tiến bộ. Trong bất cứ cái đẹp nào, chúng ta cũng dễ dàng nhận
thấy những phẩm chất đó.
c- Cái đẹp có hai hệ tiêu chí: đó là chân, thiện, mĩ và tính nhân dân,
tính dân tộc, tính nhân loại. Để đánh giá cái đẹp một cách chính xác, toàn
diện, chúng ta cần căn cứ trên hai hệ tiêu chí đó.
2. Cái đẹp trong xã hội
Như chúng ta đá biết, cái đẹp biểu hiện ở trên ba lĩnh vực: cái đẹp
trong tự nhiên, cái đẹp trong nghệ thuật và cái đẹp trong xã hội. Tuy
nhiên, trong phạm vi của bài tiểu luận nhỏ này, chúng ta chỉ đi sâu vào
nghiên cứu cái đẹp trong xã hội.
Khác với cái đẹp trong tự nhiên là sản phẩm khách quan của tạo
hoá, cái đẹp trong xã hội là kết quả của hoạt động thực tiễn của con
người. Cái đẹp ấy được biểu hiện qua tập quán, lễ nghi, phép ứng xử của
con người với tự nhiên, con người với xã hội trong một phạm vi hẹp vi
4

mô là gia đình đến một phạm vi rộng vĩ mô là xã hội, mà nếu quy lại,
chúng được gọi là văn hoá ứng xử.
Ta có thể định nghĩa văn hoá ứng xử như sau :
“Văn hoá ứng xử là lối sống, lối suy nghĩ, hành động của con người
với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội qua những
luân thường đạo lý”.
Bản chất của văn hoá ứng xử là Tâm và Nhẫn : Tâm (tim) là nơi
thiêng liêng nhất, quan trọng nhất. Tâm còn có nghĩa là lương tâm, đạo
đức, tư cách, nhân ái. Theo Chu Dịch và Kinh Dịch của Chu Công Đán và
Chu Văn Vương (sau này được Khổng Tử phát triển thành Kinh Dịch).
Tâm có nghĩa là Đạo và Đức:
Đạo là ngũ thường, bao gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Đạo là Ngũ luân, trong nó bao hàm các mối quan hệ giữa : vua - tôi,
thầy - trò; bố mẹ - con cái, vợ - chống và anh em, bạn bè, hàng xóm .
“Đạo” là cái lí tự nhiên của trời đất, là con đường rộng ai cũng phải theo
mà đi, tức là cái công lệ trung chính để làm quy tắc cho hành động của
người đời. Ai theo đạo ấy mà ăn ở là hay, là người quân tử, không theo
được đạo cũng là dở, là kẻ tiểu nhân”.
(Khổng Tử)
Qua Ngũ luân, ta sẽ thấy được phần nào cái đẹp trong xã hội
PHẦN II: BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP TRONG XÃ HỘI QUA NGŨ
LUÂN
1. Quan hệ vua tôi
Trong Ngũ luân, quan hệ vua tôi là mối quan hệ đầu tiên mà nó đề
cập đến. Theo tư tưởng của Nho giáo thì quân quyền phải để một người
giữ cho rõ cái mối thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương,
ta thường gọi là vua. Vua phải lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, sự
dạy dỗ và sự mở mang cho dân. Ở trong nhà thì con phải hiếu với cha mẹ,
ở tỏng nước thì thần dân phải trung với quân. Vua thay trời trị dân. Vua
5

muốn làm điều gì là trời muốn làm điều ấy, không ai được cưỡng lại. Tuy
nhiên, khổng giáo còn quan niệm trời với dân là cùng đồng một thể, toàn
dân muốn thế nào là trời muốn thế ấy. Ông vua chỉ là một phần trong toàn
thể. Hễ ông vua làm điều gì trái với lòng dân, tức là trái mệnh trời. Thành
thử ông vua tuy đối với trời được thay quyền trời nhưng đối với dân phải
chịu hết cả các trách nhiệm. Mà dân thì tuy phải chịu quyền ông vua cai
trị nhưng vẫn có quyền bắt vua phải theo điều lành mà làm. Lòng tự nhiên
của dân là muốn điều lành, ghét điều ác, theo cái lòng ấy mà trị dân thì tất
là dân yêu mến như cha mẹ. Nếu ông vua nào trị dân mà yêu cái ghét của
dân và ghét cái mà dân yêu tức là trái mệnh trời thì người khác có quyền
“điếu dân phạt tội”, nghĩa là cứu dân mà đánh người có tội.
Tư tưởng trung quân của Nho giáo đã thực sự góp phần rõ nét vào
chủ nghĩa yêu nước. Trong lịch sử Việt Nam đã có biết bao tấm gương
sáng lưu lại muôn đời. Hẳn trong chúng ta, không một ai có thể quên được
sự kiện Lê Lai liều mình chết thay cho Lê Lợi trong lúc ông và quân đội
của ông lầm vào tình trạng:
“Khi Linh sơn lương cạn mấy tuần
Lúc khôi huyện quân không một lữ”.
Hẳn câu trả lời của Phan Đình Phùng với Hoàng Cao Khải, khiến
không ít người trong chúng ta phải suy nghĩ: “Nước mình mấy ngàn năm
nay đất nước chẳng rộng, quân lính không mạnh, tiền của chẳng giàu, cái
chỗ dựa để dựng nước là nhờ ở gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường
mà thôi”.
Hay như câu trả lời của Nguyễn Quang Bích trước quân Pháp: Nó
mộc mạc, chân thành tới mức ta có cảm giác ông đang bộc bạch về nỗi
lòng mình, bộc bạch đấy nhưng hết sức cứng rắn và cương quyết: “…
Nhưng chúng tôi lại nghĩ đến vua tôi đứng trong trời đất mà không hề
quản cái phận hoa di đã rõ ràng như sông Kinh, sông Vị, không dám quên
phận của mình, ấy chính cũng chỉ quyết giữ trọn cái nghĩa ấy thôi… Thà
6

chịu tội với quý quốc, quyết không chịu tội với nhà vua … chúng tôi cam
lòng chịu chết vì nghĩa vua tôi…”
Là một người con của đất Việt, lẽ nào bạn lại không cảm thấy tự
hào trước những tấm lòng đầy nghĩa khí như vậy?
Không chỉ có thế, thấm nhuần tư tưởng trung quân, các đế vương
Việt Nam đều coi nước là của mình, Lí Thường Kiệt viết :
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành ranh định phận ở sách trời…”.
Lê Thánh Tông cũng nói: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ
nào tự tiện vứt bỏ đi được… Kể nào dám đem một thước núi, một tấc đất
của vua Lê Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng”.
Hết lòng vì nước, vì dân, rất nhiều bậc đế vương đã hoàn thành tốt
trách nhiệm cao cả của mình - trách nhiệm “thay trời hành đạo”. Ví như
Vua Thuấn bên Tàu, vua Pie ở nước Nga, vì muốn hiểu rõ đời sống của
thần dân, muốn biết dân có hài lòng về mình không đã cải trang làm dân
thường đi vi hành khắp nơi. Hay như dưới thời vua Hammurabi ở Lưỡng
Hà cổ đại, người dân nơi đây đã thực sự được sống trong cảnh thanh bình,
no ấm, lòng đầy tự hào về vị vua anh minh của mình. Cũng với tinh thần
như vậy, ở Việt Nam ta, hiểu rõ tầm quan trọng của dân trong việc trị
nước, suốt cả cuộc đời mình, vua Minh Mệnh đã nêu tấm gương làm việc
bền bỉ không biết mỏi: “Ta là vua của một nước, vẫn nghĩ sâu sắc rằng,
mình là gốc của phong hoá phải làm gương cho thiên hạ”. Khi nghe tin
Bắc Kì bị tai nạn lũ lụt, Minh Mệnh đã ra chỉ dụ: “Trẫm là cha mẹ của
dân, sao nỡ vui nơi yến tiệc. Bắt đầu từ hôm nay, dâng cơm ngự thiện
phải giảm một nửa, bãi bỏ tất cả các việc ca nhạc…”.
Tuy nhiên, có lẽ cũng là việc thường tình, trong lịch sử nhân loại,
chuyện những vị vua dựa vào quyền lực của mình, hà hiếp dân lành, ăn
chơi trác táng, ham mê tửu sắc, không quan tâm đến triều chính cũng
không phải là hiếm. Chẳng hạn, ở Việt Nam ta, đó là hình ảnh của chúa
Trịnh Sâm, Lê Long Đĩnh hay bù nhìn Khải Định… và dĩ nhiên, những vị

7
vua ấy đã không thể ngồi vững trên ngai vàng của mình hẳn những câu ca
dao này đã phần nào phản ánh được quy luật tất yếu đó.
“Con vua thì lại làm vu
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Việc vua thì đã vậy, còn long dân ? Bên cạnh những tấm gương
cương trực như chúng ta đã biết, còn có những kẻ vì lợi ích cá nhân, vì cái
lợi trước mắt đã làm những việc trái lương tâm, đạo đức của con người.
Chắc chắn những kẻ bán mình, phản bội nhân dân, đất nước sẽ mãi bị lên
án, người người căm ghét.
2. Quan hệ thầy trò
Đã từ lâu, những câu tục ngữ như : “Không thầy đố mày làm nên”,
“nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… đã trở thành những câu cửa miệng, quen
thuộc với mọi người dân Việt Nam. Qua những câu nói ấy, vai trò to lớn
của người thầy, truyền thống “tôn sư trọng đạo” được bộc lộ rõ nét.
Trong Ngũ luân, mối quan hệ thầy trò được đặt lên trước mối quan
hệ cha mẹ với con cái bởi: cha mẹ cho ta thân xác, hình hài - cái đó được
gọi là tiểu ngã; còn người thầy cho ta kiến thức, vốn sống để làm người-
cái đó được gọi là đại ngã. Vì thế, đại ngã được đề cập trước tiểu ngã là
điều đương nhiên.
Người thầy cần phải có đủ đức và tài để truyền đạt kiến thức cho
học trò của mình, phải là tấm gương sáng để trò mình noi theo. Còn trò,
phải biết lòng kính trọng thầy, học hành chăm chỉ và đỗ đạt cao để không
phụ công thầy.
Trong câu chuyện “Người thầy đầu tiên” của nhà văn Ai-ma-dốp,
hình ảnh người thầy giáo Duy xen đã tự nguyện về một vùng quê nghèo,
vận động các gia đình cho con em mình đi học chữ đầy gian truân, khó
khăn hẳn đã làm không ít người trong chúng ta cảm phục về tấm lòng của

một người thầy. Người thầy ấyđã tự mua sách vở cho các em, đã tự mình
8
sửa lại đường đi để các em đi học được dễ dàng… Người thầy ấy đã được
học trò của mình hết sức yêu mến và kính trọng.
Ở Việt Nam ta, người thầy giáo Chu Văn An sẽ còn sống đến muôn
đời. Học trò của Thầy, ai cũng đỗ đạt cao, làm quan to, song với thầy, họ
lúc nào cũng hết mực kính trọng, biết ơn. Tôi chắc tất cả chúng ta còn nhớ
như in câu chuyện về người con trai Thuỷ thần được lưu truyền rộng rãi
trong dân gian. Cảm phục trước tài đức của thầy, người con ấy đã xin thầy
theo học. Khi trần thế bị hạn hán lâu ngày, tưởng chừng như không thể
chịu nổi, người học trò ấy đã làm theo tâm nguyện của thầy, sẵn sàng hi
sinh tính mạng để đem lại cuộc sống bình yên, no ấm cho tất cả mọi
người.
Ngày 20/11 hàng năm, nhà nước ta lấy đó làm ngày Nhà giáo Việt
Nam - ngày mà toàn xã hội hướng về những người thầy, người cô hết
mình cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
3. Quan hệ cha mẹ - con cái
Nho giáo coi sơi dây thiêng liêng ràng buộc người này với người
khac sau khi ra đời là tình nghĩa người con với người mẹ. Khi bắt đầu có
tình cảm, tư duy, trẻ con phải bắt đầu học tập để giữ đạo làm con. Người
có hiếu trước hết phải là người biết nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, chứ
không kính thì không phải là hiếu. Khi cha mẹ còn sống, không bao giờ
làm điều gì để cho cha mẹ lo buồn. Bởi vậy không nên đi đâu xa, có đi xa
thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi để cha mẹ khỏi lo. Khi cha mẹ có làm
điều gì trái đạo thì con phải dùng cách ôn hoà mà can ngắn. Việc giữ cái
danh tiết của cha mẹ được trong sạch là bổn phận người con hiểu đạo
hiếu. Hiếu là thước đo của đạo đức, là gốc của nhân luân, tạo nên phẩm
cách con người.
Nói về đạo làm con, ca dao Việt Nam ta phản ánh rất sinh động và
chân thực.

“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
9
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Hay : “Đói lòng ăn bát chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.
Hoặc: “Dẫu con đi hết cuộc đời
cũng không đi hết những lời mẹ ru…”
Không chỉ trong ca dao, trong tất cả các lĩnh vực nghệ thuật khác, ví
như trong các tác phẩm văn chương ở các thể loại khác, đạo làm con cũng
được bộc lộ rõ. Nàng Thuý Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn
Du đã hi sinh tuổi thanh xuân của mình để cứu cha. Hay như trong tích
chèo Trương Viên- Thị Phương, cô con dâu Thị Phương đã thay chống
làm tròn đạo hiếu với người mẹ già. Người con dâu ấy đã chấp nhận mọi
nguy hiểm, tai ương để cứu lấy mẹ, them chí cô còn lấy thịt từ người
mình cho mẹ ăn để mẹ khỏi chết đói. Trong cổ tích Việt Nam, chuyện
Chử Đồng Tử nhường cho cha cái khố duy nhất khi cha mất cũng phản
ánh sâu sắc lắm tấm lòng của người làm con…
Phận làm con thì đã hẳn là như vậy, phận làm cha mẹ cũng phải biết
sửa mình để ngay thẳng gia đình, lấy nghĩa lí dạy con trai, lấy nữ công nữ
tắc dạy con gái…
Cha mẹ còn luôn dành những tình cảm thương yêu nhất cho những
đứa con của mình. Hình ảnh Lão Hạc ăn uống kham khổ, tiết kiệm, thu
nhặt từng đồng, từng hào danh dụm cho con hẳn không phải là vô nghĩa.
Rồi như bà cụ Tứ, trước cái khổ, cái đói, với tấm lòng nhân hậu, thương
con của một người mẹ, bà vừa lo lắng cho con, vừa động viên con nhằm
mang lại niềm tin vào cuộc sống cho những đứa con của mình, và có ai
trong chúng ta lại không lớn lên từ tiếng à ơi, ru hời ngọt ngào, nồng ấm
của mẹ:

“Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ
Năm canh dài, mẹ thức đủ năm canh…”
10
… Mạch cảm hứng khơi nguồn sáng tạo từ mối quan hệ giữa cha mẹ
với con cái là vô tận, không cùng; nhưng cái chính là chúng ta đã cảm
nhận được cái vẻ đẹp chân thành, đầy ý nghĩa trong cách ứng xử của mối
quan hệ đó.
4. Quan hệ vợ - chồng
Cái đạo vợ chồng cũng là một mối cương thường rất quan trọng
trong Ngũ luân. Ở với nhau mà biết thương yêu nhau, quý trọng nhau thì
rất là phải đạo lắm. Tục ngữ ta có câu.
“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”
Hay :
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thường mình bấy nhiêu”.
Rồi :
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”
Trong truyện Phạm Công - Cúc Hoa, đôi vợ chồng ấy dù gặp bao
trắc trở, dù kẻ âm người dương, nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau và cuối
cùng hạnh phúc thực sự đã m,ỉm cười với họ.
Chiến tranh - sự kiện ấy cũng là một thử thách khắc nghiệt trong
quan hệ vợ chồng. Tôi đã cực kì xúc động khi nghe kể về chuyện một
ngươidf vợ đằng đẵng chờ chồng trong suet hai mươi năm dù không một
lá thư, không chút tin tức (vì anh là một tình báo). Hai mươi năm sau, anh
trở về, chi ôm anh vào lòng, không giấu được nước mặt, chị nói : “Cảm
ơn cuộc đời, cuộc đời đã cho chị nhiều lắm!”. Một hình tượng nữa, dù hết
sức giản dị song tình cảm vợ chồng cũng được biểu hiện rất sâu sắc - đó
chính là hình tượng núi vọng phu.
Nhưng tục ta lại trọng nam khinh nữ. Người vợ trên phải phụng

dưỡng cha mẹ, có khi phải nuôi chống; giữa thì giúp chồng lo lắng công
kia việc khác, gánh vác giang sơn cho nhà chồng, dưới thì săn sóc nuôi
em… trong khi đó nghĩa vụ của người chồng chỉ ở cho đúng đắn, biết yêu
11

×