Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

quá trình giải quyết các vấn đề xã hội cần kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.52 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
A.Phần mở đầu
1
B.Nội dung
2
1.Khái niệm mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội
2
1.1 Mục tiêu kinh tế là gì?
2
1.2 Mục tiêu xã hội là gì?
2
2.Cần kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong quá trình giải
quyết các vấn đề xã hội
2
2.1 Mục tiêu kinh tế là nền tảng, là cơ sở để thực hiện mục tiêu xã hội
2
2.2 Mục tiêu xã hội có tính độc lập tương đối và tác động lại mục tiêu kinh
tế 3
2.3 Mục tiêu kinh tế, xã hội đều thống nhất ở chỗ là phát triển con người
5
2.4 Mục tiêu kinh tế chạy theo lợi nhuận gây ra hậu quả cho xã hội
7
2.5. Kết hợp mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội nhằm mục tiêu phát triển bền
vững

.…
8
3. Liên hệ thực tế ở nước ta trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội cần
phải kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội
9
C.Kết luận


20
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Nước Việt Nam là một nước có lịch sử và truyền thống lâu đời với hơn
4000 năm xây dựng và phát triển. Chính vì vậy mà nền văn hóa –xã hội là một
trong những niềm tự hào đáng quý của dân tộc. Hiện nay, nước ta đã là nhà nước
xã hội chủ nghĩa, một hình thức xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích của nhân
dân. Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm duy trì, củng cố, phát triển
xã hội. Tuy nhiên, xã hội nước ta vẫn còn nhiều vấn đề nan giải cần giải quyết,
các vấn đề về xã hội ngày càng gia tăng và ngày càng phức tạp mà xã hội không
thể giải quyết triệt để như tham nhũng, chiếm đoạt tài sản…, để giải quyết một
cách triệt để thì đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa nhiều yếu tố khác mới có thể
giải quyết được. Muốn giải quyết các vấn đề xã hội đều phải kết hợp các mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội vì bền vững về mặt xã hội là bảo đảm vừa
đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội. Trong phát triển bền
vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà nhập vào nhau. Sự
kết hợp của hai yếu tố này đã góp phần vào việc giải quyết vấn đề xã hội một
cách nhanh chóng và hiệu quả. Đây có thể coi là nhiệm vụ trọng điểm làm cơ sở
cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác.Cho thấy tầm quan trọng của việc xây
dựng một nền kinh tế phát triển bền vững song song với đó là một xã hội văn
minh tốt đẹp, do đó nhóm em đã chọn đề tài tiểu luận: “TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CẦN PHẢI KẾT HỢP CÁC MỤC
TIÊU KINH TẾ VÀ MỤC TIÊU XÃ HỘI”
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội của nước
ta, hiểu rõ sự kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội thông qua các mục đã nghiên cứu: mục tiêu kinh tế là
nền tảng, là cơ sở để thực hiện mục tiêu xã hội; mục tiêu xã hội có tính độc lập
tương đối và tác động lại mục tiêu kinh tế; mục tiêu kinh tế, xã hội đều thống
nhất ở chỗ là phát triển con người; mục tiêu kinh tế chạy theo lợi nhuận gây hậu
quả cho xã hội; kết hợp mục tiêu xã hội để lường trước và giải quyết hậu quả do
mục tiêu kinh tế gây ra.Thấy rõ được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa mục

tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: diễn dịch, sưu tầm tài liệu, lấy ví dụ.
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội:
1.1Mục tiêu kinh tế là trạng thái kinh tế mà chủ thể quản lý mong muốn,
cần và có thể đạt tới trong hoặc sau một thời gian dài hoạt động và tiến hành
quản lý. Hay hiểu một cách đơn giản hơn mục tiêu kinh tế là các mục tiêu được
đặt ra để nhằm đạt được sự phát triển và tạo ra tăng trưởng kinh tế, nâng cao và
phát triển để trên cơ sở đó cải thiện và tăng cường đời sống nhân dân.
1.2 Mục tiêu xã hội là những mục tiêu để nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người, đảm bảo công bằng xã hội, dân chủ và văn minh, nhằm tạo
nên một xã hội ổn định, năng động và phát triển bền vững trên tất cả mọi lĩnh
vực như văn hóa, giáo dục-đào tạo, y tế.
2. Cần phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong quá
trình giải quyết các vấn đề xã hội:
2.1. Mục tiêu kinh tế là nền tảng, là cơ sở để thực hiện mục tiêu xã hội:
Phát triển kinh tế là điều kiện tất yếu cho tiến bộ xã hội. Phát triển kinh
tế là nền tảng vững chắc để thực hiện mục tiêu xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội. Phát triển kinh tế cũng là nền tảng vật chất để giải quyết
các vấn đề về lao động, tiền lương, thu nhập, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát triển kĩ thuật công nghệ để phục vụ các hoạt động sản
xuất, nâng cao chất lượng y tế, đổi mới phương thức giáo dục, tăng cường quốc
phòng an ninh…
Các mô hình ở nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay
công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên
tục theo hướng phát triển bền vững. Mặc khác nếu sự tăng trưởng kinh tế không
đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội như những mô hình của các quốc
gia tăng trưởng kinh tế tiêu cực (tăng trưởng bất cần, tăng trưởng không lương
tâm, tăng trưởng không dân chủ, tăng trưởng không gốc rễ, không tương lai) thì
sự tăng trưởng này cũng không có ý nghĩamà còn gây ra những hậu quả nghiêm

trọng cho sự phát triển xã hội và môi trường thiên nhiên, làm trì trệ, không hiệu
quả quá trình phát triển đất nước và khó khăn trong việc đặt ra những đường lối,
chính sách tiếp theo. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm
gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên
mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội có thể triệt tiêu các động lực tăng trưởng
kinh tế, kết quả cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thể thực hiện
được. Mọi kế hoạch kinh tế phải tính đến các mục tiêu xã hội có liên quan trực
tiếp. Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến tác động và hậu quả xã hội có thể
xảy ra để chủ động xử lý. Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa kinh tế và
xã hội: kinh tế như thế nào thì xã hội như thế ấy, kinh tế phát triển thì cũng phài
có những chính sách xã hội phù hợp. Vì vậy phát triển kinh tế phải được định
hướng rõ mục tiêu không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà là nền tảng để thực hiện
tốt chính sách xã hội, hướng tới sự tiến bộ của xã hội
2.2. Mục tiêu xã hội có tính độc lập tương đối với mục tiêu kinh tế và
tácđộng lại mục tiêu kinh tế :
Một quốc gia có nền kinh tế không phát triển, nhưng ở xã hội về mặt văn
hóa vẫn phát triển. Nhưng sự phát triển chỉ nằm trong chừng mực vì không đáp
ứng đượcnhu cầu con người. Còn có những quốc gia có nền kinh tế phát triển
nhưng xã hội lại không phát triển, không phải mục tiêu kinh tế phát triển thì mục
tiêu xã hội cũng phát triển theo. Vì thế, mục tiêu xã hội vẫn có tính độc lập
tương đối đối với mục tiêu kinh tế.
Những chính sách xã hội được đưa ra nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của con người, bảo
đảm an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội,thúc đẩy sự tiến bộ về các mặt
như văn hóa-xã hội, chính trị, thỏa mãn những nhu cầu trí tuệ, tinh thần, tình
cảm, thẩm mỹ của con người. Tạo ra mối liên kết giữa người với người, đẩy
mạnh sự trao đổi về thông tin giữa cá nhân và cộng đồng, tăng cường chất lượng
y tế, giáo dục…
Mục tiêu xã hội ảnh hưởng đến con người. Mục tiêu xã hội đúng đắn sẽ
tác động tích cực đến tinh thần, tạo động lực mạnh mẽ để sản xuất, tăng năng

suất lao động xã hội. Kèm theo đó bình đẳng trong các quan hệ xã hội thì sẽ
khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Con người được sống trong một xã
hội ổn định và phát triển thì sẽ an tâm và có động lực lớn để chuyên tâm lao
động, sản xuất, sáng tạo, đồng thời tác động đến việc phát triển kinh tế.
Mục tiêu xã hội không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của mục tiêu
kinh tế. Khi các chính sách xã hội không theo kịp sự phát triển của phát triển
kinh tế thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, chính sách xã hội không đúng
đắn làm ảnh hưởng đến sự hoạt động của các doanh nghiệp, đến các hoạt động
kinh tế, ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, về cả vật chất và tinh thần. Khi
đã có những tác động xấu vào vật chất và tinh thần của con người, sẽ gây ra
những hoạt động nhằm phản đối lại mục tiêu xã hội không đúng đắn ấy, biểu
tình, xung đột nổ ra, sản xuất bị ngừng trệ, ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh
tế.
Đảng ta cho rằng, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát
triển. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội,
không thể có công bằng, tiến bộ xã hội nếu không dựa trên nền tảng tăng trưởng
kinh tế. Mặt khác, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện
quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
Mỗi bước tiến của tăng trưởng kinh tế gắn với việc từng bước thực hiện mục
tiêu tiến bộ, công bằng xã hội ở từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh
hưởng về mặt tinh thần, sự nhiệt tình trong lao động, và sau đó ảnh hưởng đến
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát
triển sản xuất. Mục tiêu xã hội là mục đích của hoạt động kinh tế. Tiến bộ, công
bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Do đó, cần có chính sách xã
hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu
cầu, khả năng đất nước.
Điểm quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và

tập thể đã chuyển sang tinh thần năng động, chủ động và tích cực xã hội của tất
cả các tầng lớp nhân dân. Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách
kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình
độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực
hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính sách trợ cấp và
bảo hiểm y tế cho người nghèo.Nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội,thực hiện những chính sách xã hội
đúng đắn trên nên kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm…
Vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
được xem xét trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Mục đích của xây
dựng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Điều đó cho thấy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối
quan hệ biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Như vậy,
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối
lập mà có quan hệ nhân quả với nhau, tăng trưởng kinh tế là cơ sở và tiền đề để
thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội cũng là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế.
2.3. Mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội đều thống nhất ở chỗ là phát triển
con người:
Mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, tuy có những định hướng riêng,
song lại có mục tiêu chung cao nhất là nhằm phát triển con người. Vì vậy, mọi
chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu trung tâm là
phát triển con người, phát huy nhân tố con người.
Mục tiêu xã hội là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, chính là thực hiện
giải phóng sức sản xuất, tiềm năng lao động, hướng tới xây dựng con người làm

chủ xã hội.
Mục tiêu kinh tế là nhằm để phát triển kinh tế, trên cơ sở tạo việc làm
cho người dân, giảm bớt các khâu lao động thủ công, cải thiện điều kiện lao
động, tăng năng suất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng số lượng và chất lượng hàng
hóa làm ra. Từ đó nguồn thu nhập của người dân lao động và nguồn phúc lợi vật
chất xã hội được gia tăng, tạo nên sự phồn vinh của cả cộng đồng.
Mục tiêu xã hội đưa ra những chính sách xã hội nhằm thúc đẩy những
tiến bộ về các mặt văn hóa, chính trị, xã hội, thỏa mãn những nhu cầu trí tuệ,
tinh thần, tình cảm, thẩm mỹ của con người, kể cả những nhu cầu giao tiếp xã
hội, thông tin rộng rãi giữa cá nhân và cộng đồng, thông qua việc mở rộng sinh
hoạt dân chủ, tự do, tăng cường các phúc lợi công cộng y tế, văn hóa, giáo dục,
giao thông, bưu điện. Những nhu cầu trên đây của con người được thỏa mãn
ngày càng cao thì càng tạo cho con người năng lực và nhiệt tình lao động để
phát triển kinh tế, tạo nên những của cải vật chất ngày càng dồi dào. Đồng thời,
sự tăng trưởng kinh tế rõ ràng tạo cơ sở vật chất và điều kiện thuận lợi cho việc
thỏa mãn những nhu cầu văn hóa, chính trị, tinh thần của con người.
Một trong những quan điểm lớn, giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm cho công
cuộc đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa là “Kết hợp tăng trưởng
kinh tế với từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục , giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” ( Được nêu trong Đại Hội X ).
Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người làm chủ, con người
được coi là vốn quý nhất, mục tiêu phục vụ của chủ nghĩa xã hội là nâng cao
chất lượng cuộc sống cho con người. Do vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn
tạo ra những khả năng khách quan để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, cải
thiện không ngừng các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề cho sự phát triển của cá
nhân, của người lao động để họ tự giác tham gia có hiệu quả các hoạt động sống,
cũng như xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung

tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng
cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ.
Do đó, kết hợp đồng bộ giữa chính sách kinh tế và xã hội là điều kiện
tiên quyết trong sự phát triển chung của xã hội, mà phát triển con người là cái
cốt lõi.
2.4. Mục tiêu kinh tế chạy theo lợi nhuận gây ra hậu quả cho xã hội,
nên cần kết hợp với mục tiêu xã hội để lường trước và giải quyết hậu quả
do mục tiêu kinh tế gây ra.
Khi mục tiêu kinh tế chạy theo lợi nhuận, nói nôm na là chạy theo đồng
tiền, điều đó sẽ kéo theo những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho xã hội. Con
người chạy theo đồng tiền, làm phá hủy truyền thống, đạo đức của con người,
làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội khác nhau, làm điều chỉnh tiêu chuẩn
hành vi, nhiều người sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm của người khác, văn hóa,
đạo đức luân lý. Một bộ phận con người vì tiền mà lạm dụng quá mức việc khai
thác tài nguyên, tàn phá thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng không
nhỏ đến cuộc sống của con người và làm chậm sự phát triển của xã hội. Thúc
đẩy quá trình phân hóa cơ cấu xã hội, thể hiện ở sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ rệt.Sự phân hóa này nếu không được quan tâm giải quyết có thể đem lại
những tác động không tốt đến hoạt động chính trị, quản lí, trật tự và sự ổn định
của một quốc gia. Nó có thể trở thành động lực thúc đẩy mâu thuẫn xã hội giữa
nhóm người giàu và nhóm người nghèo trong xã hội.
Vì vậy để giải quyết những hậu quả không mông muốn thì cần có một
chính sách đúng đắn để lường trước, kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã
hội để có thể lường trước và giải quyết hậu quả của nó gây ra. Áp dụng các
chính sách xã hội để có thể kiềm chế sự phát triển của kinh tế chạy theo đồng
tiền, làm giảm sự ảnh hưởng tiêu cực của nó lên toàn xã hội, nhưng không thể
xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó.
Sự đòi hỏi kết hợp ngay từ đầu giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội yêu
cầu Nhà nước phải kết hợp một cách đan xen phù hợp giữa tăng trưởng kinh tế
và thực hiện các mục tiêu xã hội. Tùy từng giai đoạn đòi hỏi Nhà nước đề ra

được những quyết sách tập trung phát triển các mũi nhọn kinh tế hay ưu tiên giải
quyết các vấn đề xã hội bức xúc.Do đó cần hoạch định đường lối đúng đắn, cho
từng trường hợp, để có thể giải quyết những hậu quả có thể gây ra. Đây là vấn
đề nan giải không dễ giải quyết cũng không thể lẫn tránh.
2.5. Kết hợp mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội nhằm mục tiêu phát triển
bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai. Nói cách
khác, phát triển bền vững phải đảm bảo có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội
công bằng và bảo vệ môi trường nhằm đạt mục tiêu phát triển toàn diện. Khái
niệm này đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới.
Khi có mục tiêu phát triển kinh tế đúng đắn sẽ tạo ra điều kiện, tiền đề
vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, và giải quyết tốt các vấn đề xã hội bằng
những chính sách phù hợp sẽ tạo ra cái nền ổn định xã hội để phát triển kinh
tế.Vàtrong phát triển bền vững, hai yếu tố kinh tế và xã hội phải hòa quyện vào
nhau, chỉ có sự phát triển nhịp nhàng giữa kinh tế và xã hội thì mới đảm bảo cho
sự phát triển bền vững.
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020 do Đảng
thông qua tại Đại hội XI, trong đó: Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta
có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết
sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh
để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải
luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh
tế-xã hội.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn
định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của

nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại
gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau. Mục tiêu phát triển bền vững về xã
hội là đạt kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm
chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được
nâng cao, mọi người đều có cơ hội học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói
nghèo và hạn chế khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội,
giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội. Mục tiêu của phát triển
bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xửlý và kiểm soát có hiệu quả ô
nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; khắc phục suy thoái và cải thiện
chất lượng môi trường. Khi chúng ta đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có
về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã
hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường thì khi đó mới có sự phát triển bền vững.
3. Liên hệ thực tế ở nước ta trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội cần
phải kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội:
- CHÍNH SÁCH VAY VỐN CHO HSSV (HỌC SINH SINH VIÊN):
Hiện nay, việc kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội là hết sức
cần thiết, đối với sinh viên vấn đề kinh tế rất quan trọng trong quá trình học tập,
việc đáp ứng nhu cầu kinh tế sẽ giúp cho sinh viên có điều kiện khó khăn vẫn
theo đuổi được con đường học tập của mình. Chính vì thế, việc nhà nước đưa ra
những chính sách vay vốn, tín dụng cho sinh viên nghèo vay vốn đi học, để ai
cũng được đi học, cũng được tiếp cận với tri thức, đó là một hình thức công
bằng xã hội. Việc làm này có tính nhân văn sâu sắc, tính xã hội hóa cao có ý
nghĩa cả về kinh tế, chính trị và xã hội, hợp lòng dân. Với việc sinh viên được
làm chủ tri thức, được bồi dưỡng cả về văn hóa, phát triển con người về mọi
mặt, cũng là một mục tiêu của việc kết hợp kinh tế và xã hội.
Chỉ thị số 21/2007/CT-TTg về thực hiện “chế độ cho vay ưu đãi để học

Đại học, Cao đẳng và dạy nghề” được ban hành ngày 4-9-12007 của Thủ tướng
chính phủ. Chính sách đã thực sự góp phần hỗ trợ cho HSSV có hoàn cảnh khó
khăn tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, góp phần trang trải chi phí
cho việc học tập, sinh hoạt cho quá trình học tại trường. Bên cạnh đó, đây là một
chủ trương, chính sách lớn của nhà nước với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao, đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ cho đất nước. Chính sách
này tạo điều kiện cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn về cuộc sống có điều
kiện tiếp tục đến trường. Đất nước không lãng phí nguồn nhân lực cho tương lai.
Mặt khác chính sách nhằm mục tiêu giảm bớt áp lực lên Ngân sách nhà nước,
mở rộng hệ thống Giáo dục- Đào tạo, đáp ứng nguồn lao động cho khu vực các
ngành trong nền kinh tế. Giảm bớt khó khăn tài chính cho sinh viên đồng thời
tăng cường trách nhiệm của họ (chính họ sẽ phải tự chịu trách nhiệm với số tiền
được vay ưu đãi đó). Bên cạnh những mục đích cần đạt được của chính sách vay
vốn đối với HSSV thì chính sách còn có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội.
Chính sách còn là một trong các chính sách của nhà nước nhằm thực hiện công
bằng xã hội, tạo công bằng cho HSSV tiếp cận với nền giáo dục có chất lượng
cao hơn, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của sự nghiệp giáo dục
quốc gia. Cho sinh viên vay vốn về bản chất là để tăng thêm mức gánh chịu chi
phí của sinh viên, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước theo cách chuyển
sự gánh chịu của họ từ hiện tại sang tương lai khi sinh viên “đã có khả năng chi
trả”. Như vậy, một mặt sinh viên nghèo không phải bỏ học khác với việc viện
trợ của nhà nước mới có công bằng hơn so với khi thực hiện chính sách học phí
thấp.
Chính sách cho vay đối với HSSV của Thủ tướng chính phủ là những
chủ trương kịp thời, có ý nghĩa chính trị to lớn được đông đảo nhân dân quan
tâm và ủng hộ nhàm hỗ trợ HSSV thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận
với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước trang trải chi phí cho việc học tập sinh hoạt
trong quá trình theo học tại trường đồng thời thể hiện rõ tính công bằng xã hội
của Nhà nước. Chủ trương, chính sách này sẽ đẩy mạnh việc đào tạo gắn liền
với xóa đói giảm nghèo.

Ngoài ra, chính sách vay vốn HSSV còn góp phần ổn định xã hội đưa
thanh thiếu niên vào trường học, giảm các vấn đề xã hội do thanh thiếu niên gây
ra: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút Hơn nữa có một số gương điển hình sinh viên
vượt khó đã vượt qua hoàn cảnh khó khăn để có tấm bằng đại học nhờ quỹ tín
dụng này. Giờ đây họ đã trở thành những người có đóng góp quan trọng cho sự
nghiệp phát triển của nước nhà.
Như vậy, chính sách vay vốn cho sinh viên học sinh có tác dụng trong
phạm vi to lớn cả về mặt kinh tế và xã hội; từ thành thị đến nông thôn; từ các
bậc phụ huynh đến những HSSV nhất là các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn
về tài chính.
Trước khi chưa có chính sách trên thì những gia đình khó khăn không có
khả năng cho con em mình đi học vào các trường đại học, cao đẳng, học nghề
làm cho cuộc sống gặp phải nhừng khó khăn triền miên từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Còn các gia đình khá giả thì con em họ con em họ lại được tiếp cận với
những văn minh và khoa học mới còn những con em gia đình khó khăn thì
không có khả năng đi học thì dễ sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè,
ma túy
Bên cạnh đó chính sách còn có tác động tích cực về phía nhà trường tạo
nguồn thu kinh phí ổn định, tránh tình trạng nợ học phí của sinh viên. Mặt khác
chính sách này cũng tạo ra tâm lý yên tâm cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn có
thể tiếp tục học tập, phấn đấu tạo chỗ đứng cho mình trong xã hội.
Chính sách này ra đời giúp lấp dần khoảng cách giữa những người giàu
và nghèo, giúp xã hội công bằng hơn, đất nước đào tạo được nhiều nhân tài hơn,
giúp đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Bên cạnh những ưu điểm chính sách này còn rất nhiều bất cập, ngân sách
Nhà nước và các ngân hàng chính sách xã hội có đủ yêu cầu về vốn hay không
đó chính là một hạn chế của chính sách. Thủ tục không rõ ràng, rườm rà đã
không xác định đúng đối tượng, còn cho thấy việc quản lý thiếu chặt chẽ trong
công tác triển khai chính sách. Khả năng trả nợ khi mới ra trường, với mức
lương thấp của sinh viên, học sinh là rất khó nên nợ quá hạn khó đòi là rất cao.

Có thể nói chính sách vay vốn đối với học sinh sinh viên đã thực sự đi
vào cuộc sống, nguồn vốn vay của nhà nước đã giúp hàng ngàn học sinh sinh
viên có đủ kinh phí trang trải học phí và sinh hoạt phí để theo học, giúp hàng
trăm ngàn họ gia đình có điều kiện cho con em đi học. Chính sách này đã cho
thấy Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu cho sự nghiệp giáo dục của nước
nhà. Đảm bảo được công bằng xã hội hướng tới một xã hội có nguồn nhân lực
chất lượng tốt, thể hiện tính nhân văn, tính nhân đạo sâu sắc. Góp phần phát
triển sự nghiệp phát triển đất nước.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN HÀI HÒA GIỮA KINH TẾ VÀ
XÃ HỘI TRONG THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
1- Từ cơ chế thị trường đến kinh tế thị trường với việc giải quyết nhiệm
vụ tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng chính sách và trong mỗi bước đi của phát triển
Việt Nam đã từng tồn tại mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp và áp dụng phương thức phân phối bình quân. Mô hình ấy đã phát
huy tác dụng tích cực của nó, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ chiến tranh giải
phóng, cho phép huy động tối đa và tổng lực các nguồn lực cho công cuộc
kháng chiến cứu nước vì mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc. Song trong điều
kiện hòa bình, khi lợi ích và nhu cầu chính đáng của người dân trong điều kiện
bình thường đòi hỏi phải được chú trọng thì mô hình kinh tế và quản lý kinh tế
đó đã không còn phù hợp và tỏ rõ sự bất cập.
Bước vào Đổi mới, cùng với đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Việt
Nam đã chuyển đổi mạnh mẽ mô hình phát triển kinh tế để phát triển xã hội.
Những bước chuyển đổi về mô hình, cơ chế, chính sách và cả thể chế luật pháp,
thiết chế tổ chức bộ máy đã diễn ra như một quá trình suốt hơn hai thập kỷ qua
không hề đơn giản, dễ dàng.
Thực tiễn đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận, đã gợi ý và thúc đẩy
những điều chỉnh, những thay đổi để sự phát triển kinh tế - xã hội đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước đạt được sự cân đối, nhịp nhàng trong phát
triển. Những dấu mốc nổi bật của quá trình đó là những bước chuyển căn bản

sau đây:
- Từ sở hữu đơn nhất, thuần nhất (công hữu) sang đa dạng sở hữu và
đa dạng thành phần kinh tế, phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh có sở
hữu hỗn hợp; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Từ xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp và bình quân sang áp dụng cơ
chế thị trường có sự điều tiết của kế hoạch và quản lý của Nhà nước.
- Từ cơ chế thị trường với cạnh tranh phân hóa vượt trội sang xây
dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường và giờ đây là phát triển mạnh mẽ kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi tất cả các thành phần kinh tế, kể cả
kinh tế tư nhân gồm nhiều loại đều nằm trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân
thống nhất, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển lâu dài.
- Từ cách hiểu không đúng về công bằng xã hội là bình quân chia đều
sang cách hiểu đúng, xác thực, phải phân phối lợi ích theo kết quả lao động,
đồng thời phải đa dạng các hình thức phân phối lợi ích, có cạnh tranh và vượt
trội, thấy đúng thực chất của công bằng trước hết là công bằng về cơ hội phát
triển.
- Từ chỗ chưa gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, nhận thức chưa đầy đủ vai trò của đầu tư về mặt xã hội, coi đầu tư vào việc
giải quyết các vấn đề xã hội là đầu tư không sinh lợi, phi kinh tế, đơn thuần là
phúc lợi xã hội đến chỗ thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội
thành chính sách phát triển, nhận thức rõ đầu tư về mặt xã hội chính là đầu tư
theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển, giải quyết mối liên hệ khăng khít giữa nội
dung xã hội trong chính sách kinh tế, tác dụng thúc đẩy kinh tế của chính sách
xã hội, phát triển kinh tế để phát triển xã hội, phát triển cá nhân và cộng đồng
Giải quyết các bước chuyển tiếp đó, những thành tựu kinh tế - xã hội
trong Đổi mới của Việt Nam đã cho thấy mục tiêu phát triển con người là chỗ
đến, là tính hướng đích của phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn lại hơn 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc độ
tăng trưởng cao, liên tục với các chỉ số dao động bình quân từ 7,5% đến 8%, ở
những thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, mức tăng trưởng còn cao hơn

nhiều, từ trên 10% đến 11% - 12%, GDP tính theo đầu người từ chỗ 200 USD
đến 550 - 600 USD và hướng tới trên 1.000 USD trong những năm tới. Đó là
những chỉ số phát triển đã đạt được và đang tiếp tục nâng cao nhờ có Đổi mới.
Trước đây, Việt Nam thường xuyên thiếu lương thực, phải nhập khẩu, mà đây
cũng có phần là tình trạng thiếu giả tạo do các nguồn lực ách tắc, không được
lưu thông, do một thời "ngăn sông cấm chợ", không tạo ra thị trường, không
hạch toán kinh doanh, "lãi giả, lỗ thật", giờ đây, Việt Nam đã có mặt trong số các
quốc gia hàng đầu xuất khẩu gạo, đã hình thành những vùng phát triển trọng
điểm, đã chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trong phạm vi ngành, trong địa
phương và cả nước.
Nhờ nhận thức rõ vai trò của chính sách xã hội và sự cần thiết phải tăng
cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam đã chú trọng giải quyết
những tiền đề và điều kiện cho phát triển con người và cộng đồng bằng cải cách
tiền lương, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện lao động, ăn ở, đẩy mạnh dạy
nghề, đào tạo, bồi dưỡng nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho lao
động, giải quyết có hiệu quả việc làm cho lao động, kể cả xuất khẩu lao động,
chú trọng phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, đang triển khai mạnh mẽ cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, sửa đổi và hoàn thiện các bộ luật quan trọng về
kinh tế, trong đó có Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Doanh
nghiệp
Trên phương diện xã hội, hàng loạt chính sách nhằm bảo đảm an sinh xã
hội, an ninh trong cuộc sống, an toàn trong lao động, chăm sóc các đối tượng
yếu thế, các đối tượng được hưởng ưu đãi, các chính sách phát triển ở vùng dân
tộc thiểu số, chăm sóc trẻ em, người già, phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trong
phát triển được thực hiện có hiệu quả. Đó là sự kết hợp kinh tế - xã hội trong
phát triển, thực hiện tăng trưởng kinh tế để chăm lo cải thiện cuộc sống cho mọi
đối tượng người dân, bảo đảm công bằng xã hội để kích thích tăng trưởng kinh
tế
Cũng trong thực tế vận hành của cơ chế thị trường, những tác động, mặt
trái của nó mới dần dần bộc lộ ra và sẽ ngày càng gay gắt hơn. Do đó, để bảo

đảm sự phát triển kinh tế và xã hội trong mối quan hệ tương tác, hài hòa, lành
mạnh, tích cực, phải chú trọng thực hiện những biện pháp điều chỉnh, bổ sung để
giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh như là những hệ quả tiêu cực. Đó chính là
sự bổ sung trên hai bình diện luật pháp và đạo đức mà các học giả, chuyên gia
về kinh tế thị trường, về quản lý xã hội ví như "hai cột chống đỡ", "hai đập chắn
sóng" làm giảm thiểu những tác động mặt trái của cơ chế thị trường. Chính vì
thế, những năm gần đây và hiện nay, ở Việt Nam trong khi phát triển mạnh mẽ
kinh tế thị trường, áp dụng cơ chế thị trường cạnh tranh, phân hóa đã chú trọng
hơn tới vai trò của luật pháp, đề cao tính nghiêm minh của luật pháp trong quản
lý nhà nước, trong xét xử, đồng thời chú trọng giáo dục đạo đức, giáo dục truyền
thống, chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, làm giàu phi pháp, gây tổn
hại tới xã hội, đặc biệt là đề cao đạo đức công chức, kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ
luật kỷ cương, chế độ trách nhiệm, áp dụng các biện pháp quản lý công khai
minh bạch để chống tham nhũng, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cải cách nền hành chính công.
2 - Xóa đói, giảm nghèo hướng tới tăng giàu, khuyến khích mọi người
làm giàu hợp pháp, thu hẹp khoảng cách phân hóa giàu nghèo, không để xảy ra
tình trạng bần cùng hóa, phát triển toàn diện nông thôn - nông nghiệp - nông dân
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong hơn 20 năm đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, Việt Nam
đã thực hiện có hiệu quả các chính sách và chương trình quốc gia về xóa đói,
giảm nghèo, trọng điểm là nông thôn, nhất là nông thôn miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn. Nhà nước đã đầu tư nguồn
kinh phí lớn nhiều nghìn tỉ đồng để thực hiện và theo phương thức lồng ghép
các chương trình và các mục tiêu, cả bức xúc trước mắt và cơ bản lâu dài.
Xóa đói là tiền đề để giảm nghèo, giúp cho người dân và các hộ dân chủ
động vươn lên vượt qua ngưỡng đói nghèo đồng thời chú trọng đầu tư vào phát
triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm, bảo đảm ổn định đời sống, phòng chống
hiện tượng tái nghèo khổ, nhất là ở những vùng thuần nông.
Xóa đói, giảm nghèo là lĩnh vực kết hợp khá điển hình của kinh tế và xã

hội, cả chính sách kinh tế lẫn chính sách xã hội, cả cứu trợ xã hội, phúc lợi xã
hội và ưu đãi xã hội theo từng đối tượng.
Qua thực hiện các chương trình và dự án, việc xóa đói giảm nghèo đã
đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân thông qua những chính sách đất đai, bảo
đảm cho họ có đất sản xuất, đất ở, có điều kiện vượt đói nghèo bằng tạo nghề,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong trồng trọt, chăn nuôi, làm nghề thủ công, khôi
phục và phát triển các làng nghề truyền thống để thu hút lao động. Dạy nghề và
trợ giúp kỹ thuật - công nghệ còn giúp cho nông dân ở các vùng, các khu công
nghiệp có việc làm mới, theo hướng công nghiệp. Phương châm "cho cần câu
chứ không cho con cá có sẵn" là một bảo đảm cơ bản cho ổn định cuộc sống của
các hộ nông dân nghèo, tức là hỗ trợ cho họ phát triển.
Tuy nhiên, như đánh giá của Đảng, thành công trong xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam chưa thật vững chắc, khi chuẩn nghèo nâng lên thì tỷ lệ đói
nghèo hoặc tái nghèo khổ lại gia tăng, chủ yếu vẫn là nông dân ở nông thôn, đặc
biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, việc xóa đói giảm nghèo vẫn chỉ là xóa
đói nghèo về kinh tế, mới chỉ là những nhu cầu bức xúc về tồn tại. Đói nghèo về
văn hóa chưa được quan tâm giải quyết đúng mức, từ thông tin, học vấn, hiểu
biết pháp luật, chính sách và phát triển đời sống văn hóa tinh thần. Về lâu dài,
đây là một hạn chế phải khắc phục để có đủ tiền đề cho phát triển nhanh và bền
vững.
Ở địa bàn nông thôn, khi bắt đầu đổi mới (Đại hội VI - 1986), chúng ta
mới chỉ đặt vấn đề phát triển kinh tế nông thôn theo ba chương trình: lương thực
- thực phẩm, nghề thủ công truyền thống (hàng tiêu dùng) và xuất khẩu nông
sản. Phải qua thực tiễn, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mới được
nhận thức ở tầm chiến lược, cơ bản, lâu dài hơn, mới hình thành chương trình
phát triển toàn diện, nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông), mới xác định
mô hình liên kết "5 nhà" để chăm lo phát triển sức dân đi liền với bồi dưỡng sức
dân, tiết kiệm sức dân. Đó là nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp, nhà tín dụng để phục vụ cho cuộc sống của nông dân, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; gắn liền với quá trình đó là

các quá trình dân chủ hóa nông thôn, đô thị hóa nông thôn, thực hiện các biện
pháp "dồn điền - đổi thửa" để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, tập
trung đất để phát triển vùng chuyên canh, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, đẩy
mạnh sản xuất các hàng hóa nông sản có giá trị kinh tế cao, tăng thu nhập cho
các hộ dân bằng kinh tế trang trại, đồi rừng, bằng các mô hình tổng hợp chăn
nuôi - trồng trọt - nghề thủ công - dịch vụ, thâm canh tăng vụ.
Với vùng dân tộc thiểu số còn đẩy mạnh giao đất, giao rừng, thực hiện
định canh, định cư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đầu tư vào hạ tầng cơ sở, lo nước
sạch cho dân, điện thắp sáng, xây dựng trường sở, trạm xá theo mô hình "điện -
đường - trường - trạm". Những đầu tư xã hội đó chẳng những góp phần ổn định
cuộc sống mà còn tác động tới sản xuất, phát triển kinh tế.
Tình trạng mất đất sản xuất là một thực tế xảy ra ở một số vùng nông
thôn trong sự phân hóa giàu nghèo, bởi tác động của kinh tế thị trường. Vấn đề
đặt ra là bảo đảm cho người nông dân có đất sản xuất và đất ở bằng các hình
thức chuộc lại hoặc điều chỉnh, điều tiết với sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng
đồng.
Phải làm cho người dân có nghề mới để dù không còn làm ruộng nhưng
ra đô thị vẫn kiếm được việc làm, bảo đảm cho con em các gia đình nông dân
đến trường lớp, không bỏ học, thất học, mù chữ. Chế độ miễn học phí, miễn phí
khám bệnh cho con em nông dân, áp dụng bảo hiểm y tế, chăm lo sức khỏe cộng
đồng để từng bước làm cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận được các dịch vụ
công cộng và thụ hưởng lợi ích từ chính sách và phúc lợi xã hội, nhất là vùng
đặc biệt khó khăn. Đó là những nỗ lực để đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội
trong phát triển.
3 - Bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng
miền, kết hợp các nguồn lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, tận dụng và phát huy lợi thế so sánh để phát triển trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Sự phát triển hài hòa, đồng bộ kinh tế và xã hội đặt ra yêu cầu phải bảo

đảm phát triển cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực, các địa phương, vùng miền
để tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế và nâng cao trình độ, chất
lượng của phát triển xã hội. Bảo đảm tính cân đối trong cơ cấu, tính đồng đều
trong trình độ phát triển. Khắc phục khoảng cách chênh lệch quá xa giữa phát
triển vùng miền, giữa phát triển đô thị với phát triển nông thôn, miền núi, vùng
đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số làm ăn và sinh sống.
Theo yêu cầu ấy, cần thiết phải có chính sách thúc đẩy nhịp độ và gia
tăng hiệu quả của các nguồn vốn, dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào đồng thời
phải có các chính sách, các biện pháp huy động vốn trong dân phục vụ sản xuất
kinh doanh đem lại lợi ích chính đáng, thiết thực, công bằng và hợp lý cho các
đối tượng, cá nhân, tập thể và xã hội.
Để phát triển cân đối, giữa các ngành kinh tế, trong những năm qua Việt
Nam đã đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, làm cho nông
nghiệp vượt qua giới hạn của nền kinh tế tiểu nông, hình thành nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa có giá trị cao, vừa bảo đảm an ninh lương thực quốc gia vừa
tăng cường xuất khẩu những loại hàng hóa đem lại nguồn thu lớn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam đòi hỏi phải đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn để xây dựng kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp hàng hóa
vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước vừa tăng cường xuất khẩu ra thị
trường thế giới những mặt hàng sản xuất có giá trị kinh tế cao, thuộc lợi thế so
sánh. Do đó, cùng với tích tụ ruộng đất để xây dựng vùng chuyên canh, phải đẩy
mạnh việc đưa tiến bộ kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Phải phân
công lại lao động nông nghiệp, giảm thiểu và vượt qua giới hạn thuần nông, phát
triển các ngành nghề tiểu thủ công, công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu
dùng, phát triển các dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Đào tạo nghề cho nông dân là một vấn đề lớn không chỉ tạo thêm nghề
mới và việc làm mới cho nông thôn mà còn hướng tới xây dựng nông nghiệp và
nông thôn hiện đại với đội ngũ nông dân mới có học vấn, có kỹ thuật.
Việt Nam cũng đồng thời chú trọng tới vấn đề môi trường, khắc phục

tình trạng môi trường bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu tới sản xuất và đời sống
cho người lao động, ở cả nông thôn và thành thị.
Phát triển vùng, đảm bảo cho các vùng, miền, các địa phương phát triển
đồng đều, rút ngắn khoảng cách chênh lệch quá lớn giữa các vùng, nhất là các
vùng đặc biệt khó khăn. Phát triển vùng, miền tạo ra sự phát triển cân đối, đồng
bộ trong cả nước theo hướng phát triển nhanh và bền vững, tạo dựng và phát
huy mọi khả năng, tiềm năng, lợi thế so sánh của từng vùng.
Việt Nam, đặc biệt chú trọng giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội và
văn hóa, khắc phục tình trạng lạc hậu, chậm phát triển của các vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam bộ, nơi có nhiều cộng đồng đa tộc người cư trú, làm
ăn, sinh sống.
Xây dựng và mở rộng các vùng kinh tế trọng điểm ở trong nước, mở
rộng thị trường, gắn liền với thị trường khu vực và thế giới. Muốn vậy phải giải
quyết đồng bộ các nguồn lực từ vốn đến công nghệ và đặc biệt là nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực trẻ, nâng tỷ lệ lao động được đào tạo và thành thạo nghề,
chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên, nhà quản lý lành nghề ở
các ngành nghề mũi nhọn.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát
triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát
triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời
thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự kết
hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội nhằm mục tiêu phát triển bền vững
mọi mặt của xã hội. Đây là phương pháp giải quyết có hiệu quả mà nhà nước ta
đang thực hiện nhằm ổn định xã hội và phát triển kinh tế bền vững .
Sau hơn 20 năm đổi mới chính sách xã hội, nhận thức về vấn đề phát
triển xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực.
Việc kết hợp mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội
là rất cần thiết và quan trọng. Hai vấn đề tuy có tính độc lập tương đối với nhau
nhưng khi kết hợp lại mang đến sự thay đổi về mặt xã hội và kinh tế. Xã hội ổn

định hơn, các vấn đề mang tính xã hội đã được giải quyết , không còn các vấn
nạn xã hội, người dân sống trong môi trường lành mạnh,nâng cao mức sống, có
quyền và nghĩa vụ như nhau và tạo được điều kiện làm giàu. Việc xã hội ổn định
đã góp phần phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Tại Đại hội X của
Đảng cũng đã nêu rõ: “Cần phải kết hợp mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước,ở từng lĩnh vực, địa phương…”
Một quốc gia muốn phát triển toàn diện thì cần phải phát triển nhiều mặt.
Thế nên cần phải phát triển kinh tế nhưng cũng không quên phát triển xã hội.
Việc kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội là con đường phát triển bền
vững không chỉ hiện tại mà còn ở tương lai.

×