Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

báo cáo tốt nghiệp: Hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.18 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các
phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu
quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng
thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao
thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng
đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái
phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh
tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của giá",
bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu tượng
vốn có của bản thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm
mà trái lại, là cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử
dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý những vấn đề
cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy,
nhận thức một cách đúng đắn và sử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá hối
đoái là một nghệ thuật.
Trong khi công cụ tỷ giá luôn được các quốc gia trên thế giới đề cao thì
ở Việt Nam, tỷ giá dường như chưa được hiểu theo đúng nghĩa của
nó.Khoảng thời gian mười năm trước,người ta dường như hờ hững với mọi
biến động của tỷ giá và cho rằng vấn đề tỷ giá là mảng đề tài cổ lỗ, rằng
trong mối tương quan với hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ giá không có ảnh
hưởng gì mấy. Tuy nhiên, thời gian gần đây,s ự can thiệp của Nhà nước vào
tỷ giá rõ ràng là ngày càng suy giảm và dường như đang theo một cơ chế
truyền động có chủ đích để tiến tới bước đi cuối cùng là xóa bỏ tỷ giá bình
quân liên ngân hàng. Đây có lẽ chính là điểm khởi sự đầu tiên cho một chính
sách tỷ giá thả nổi có quản lý một cách thực chất, theo hướng tỷ giá phải linh
1
hoạt hơn nữa theo khuyến cáo của IMF và phù hợp với việc Việt Nam là


thành viên của WTO. Khi cơ chế tỷ giá linh hoạt, thì rủi ro tỷ giá sẽ xẩy ra
thường xuyên hơn, mức độ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
lớn hơn. Thời gian gần đây trên báo chí những tiêu đề như “ảnh hưởng của
biến động tỷ giá” hay “khó khăn về tỷ giá”, “thiệt đơn thiệt kép vì USD”
xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của biến động tỷ
giá đã bắt đầu được các doanh nghiệp quan tâm. Nhằm đảm bảo hiệu quả
sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các ngân hàng và các thành viên tham gia thị
trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa biến động tỷ giá.
Xuất phát từ những lý do trên đây, em đã chọn đề tài cho đề án của
mình là "Hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam”.Với sự quan tâm hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo
Nguyễn Quang Huy đã giúp em hoàn thành đề tài này.Em xin cảm ơn thầy rất
nhiều. Dưới đây em xin trình bầy nội dung đề án của mình.
I/ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HẠN CHẾ RỦI RO
TỶ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM
1. Tỷ giá hối đoái
1.1 khái niệm.
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh
Châu Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ)
Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết
là quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng tiền
của các nước khác nhau với nhau, đông tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó
nảy sinh khái niệm “ tỷ giá hối đoái”:
“tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằn
tiền tệ của một nước khác”, hay được coi là “ hằng số chuyển đổi” đồng tiền
của nước này sang đồng tiền của nước khác.
2
Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng

đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và
Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để
mua một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (en): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến
nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng hàng ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát
giữa các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
1.2 Các phương pháp niêm yết tỷ giá
1.2.1 phương pháp yết giá trực tiếp
 Một số lượng cố định ngoại tệ được biểu hiện bằng một số lượng biến
đổi nội tệ
 Đồng tiền yết giá là ngoại tệ, đồng tiền định giá là nội tệ
 Đa số các nước biểu diễn theo phương pháp trực tiếp và đồng USD là
đồng tiền yết giá
1.2.2 phương pháp yết giá giản tiếp
 Một số lượng cố định nội tệ được biểu hiện bằng một số lượng biến đổi
ngoại tệ
 Đồng tiền yết giá là nội tệ, đồng tiền định giá là ngoại tệ
 England (GBP), Autraylia (AUD), New zealand (NZD), (IEP), SDR và
EUR sử dụng phương pháp gián tiếp, và USD là đồng tiền định giá
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái
3
1.3.1 Cán cân thương mại
Trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một nước tăng
thì đường cung về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển về phía bên phải, tỷ giá

hối đoái giảm xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền của nước ấy sẽ
dịch chuyển sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên.
1.3.2. Tỷ giá lạm phát tương đối
Nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước
khác thì nước đó sẽ cần nhiêù tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của
nước kia. Điều này làm cho cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái
giảm xuống.
1.3.3.Sự vận động của vốn
Khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh.
Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì
các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước
ngoài muốn mua tài sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền của nước đó
dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái của nó. Đây là một trong
những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá ở các nước phát triển cao.
1.3.4. Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ
Tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có
thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên
lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá
trị tiền tệ mỗi ngày. Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển
đường cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này đến lượt nó
sẽ gây ra những dao động của tỷ giá hối đoái, và như vậy phản ứng dây
chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế
trong nước.
2.Rủi ro tỷ giá và sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tỷ giá
4
2.1. Khái quát chung về rủi ro tỷ giá
2.1.1 khái niệm
“Rùi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giác làm ảnh
hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai.”
 Mọi hoạt động mà dòng tiền thu vào phát sinh bằng một loại đồng

tiền trong khi dòng tiền chi ra lại phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều
chứa nguy cơ rủi ro tỷ giá.
2.2.2 Các loại rủi ro tỷ giá thường gặp
Về cơ bản rủi ro tỷ giá phát sinh trong 3 hoạt động chủ yếu của doanh
nghiệp là : hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng.
- Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với công ty
đa quốc gia hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa
dạng hoá trên bình diện quốc tế. Lý do là vốn đầu tư và doanh thu được tính
bằng các loại đồng tiền khác nhau.
Ví dụ: một công ty nước ngoài đầu tư sản xuất nước giải khát tại
Việt Nam có vốn bỏ ra bằng ngoại tệ để thiết lập nhà máy và nhập khẩu
nguyên vật liệu để sản xuất, như vậy phần lớn các chi phí của công ty này
đều phát sinh từ ngoại tệ. Hàng hoá sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
trong nước, do đó doanh thu lại chủ yếu bằng VND. Nếu tỷ giá tăng thì chi
phí sản xuất gia tăng tương đối so với doanh thu làm cho lợi nhuận giảm đi
thậm chí còn có thể làm đảo lộn kết quả kinh doanh.
- Rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập là loại rủi ro tỷ giá thường
xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt động xuất
nhập khẩu mạnh. Sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ so với nội tệ làm thay đổi giá trị
kỳ vọng của các khoản thu hoặc chi ngoại tệ trong tương lai khiến cho hiệu
quả hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng đáng kể.
Ví dụ: tổng công ty may 10 ký hợp đồng xuất nhập khẩu trị giá 500.000
5
USD ngày 08/05/20007, hợp đồng được thanh toán sau 6 tháng kể từ ngày ký
–08/11/2007. tại thời điểm ký kết tỷ giá USD/VND= 16.200. Vào ngày thanh
toán tỷ giá USD/VND= 16.000. như vậy, cứ mỗi USD xuất khẩu công ty bị
thiệt 200VND. toàn bộ hợp đồng trị giá 500.000VND, công ty sẽ bị mất 10
triệu VND. khoản tiền này không phải là lớn với 1 hợp đồng nhưng nếu tính
chung cho hoạt động xuất khẩu của công ty với ba trăm hợp đồng thì đó là
một con số không nhỏ.

- Hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng bằng ngoại tệ cũng chứa
đựng rủi ro tỷ giá rất lớn. Khoản nợ có thể trở nên trầm trọng hơn khi tỷ giá
biến động
Ví dụ: công ty ABC xin vay vốn ngân hàng VP Bank với số tiền 2
triệu USD, lãi suất vay là 5,5 %/ năm trong thời hạn 1 năm. Như vậy sau 1
năm số tiền mà công ty phải trả nhà băng là 2(1 + 0,055)= 2,1 triệu USD, tại
thời điểm hiện tại với tỷ giá USD/VND= 16.000, tương đương 33.600 triệu.
Nhưng nếu 1 năm sau tỷ giá USD/VND= 16.200 thì khoản tiền phải trả tương
đương 34.020 triệu VND. Như vậy công ty phải trả thêm 420 triệu so với dự
tính ban đầu.
Như vậy, mức độ rủi ro tỷ giá phụ thuộc vào biến động tỷ giá nhiều hay
ít, giá trị hợp đồng hay giá trị khoản thu chi lớn hay nhỏ.
2.2 Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tỷ giá
Để phục vụ cho mục tiêu vĩ mô, trong một thời gian dài qua, tỷ giá hối
đoái được nhà nước giữ ở mức ổn định tương đối, biến động tỷ giá không ảnh
hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh, khiến các doanh nghiệp chưa
quan tâm nhiều đến rủi ro tỷ giá. Nhưng tình hình đã thay đổi khi nền kinh tế
Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, với những cải cách
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Để ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa,
hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều chính sách đã được đề ra trong đó có
việc Ngân hàng nhà nước liên tục nới rộng biên độ tỷ giá. Cơ chế này cùng
6
với sự biên động chung của kinh tế toàn cầu đã khiến cho tỷ giá biến động
tương đối trong khoảng 2 năm gần đây. Cơ chế càng linh hoạt thì rủi ro tỷ giá
càng lớn và hiện tại rủi ro tỉ giá đang được đanh giá là một trong 5 áp lực
chính mà doanh nghiệp phải đối mặt trong kinh doanh bên cạnh chính sách
thuế,môi trường cạnh tranh,năng lực vốn, biến động thị trường. Do đó công
tác quản lý rủi ro tỷ giá được đặt ra như là một nhu cầu cần thiết tất yếu đối
với các doanh nghiệp có hoạt động thu chi bằng ngoại tệ.
II / TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA

DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Khái quát chung tình hình biến động tỷ giá ở Việt Nam qua các
thời kỳ
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt
nam được tính theo đồng Rúp clearing(sau này đổi là rúp chuyển
khoản_transferableruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch
giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài
khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy
định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc
trưng của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều
mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái
trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm
các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta là nghuyên nhân dẫn đến tình
trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ
trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã
từng bước xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh
tế được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng cáccông ty
được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với
việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản;
7
chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối
đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế.
Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị
trường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của
các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của
nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo
quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan
trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự
quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có

khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
1.1.Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1
dưới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến
động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá
VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị
trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung
cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
+ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
8
+ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên
những cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.
+ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
+ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla.
Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập
khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng
quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết
định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới
công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
1.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
(số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995
và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời
gian này không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà
nước làm cơ sở tính toán. qua bảng số liệu (bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng
tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc đọ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ

cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố đối ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996_ đã không
khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu
hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
9
(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố
HCM qua các năm 1996-1997-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất
khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình
trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hặc phải vay nợ nước ngoài
để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập
máy móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất
nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 -
1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với
USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so
với hàng nhập ngoại.
Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước
ta với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm
hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập
siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm
1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đén nay nhà nước đã có
những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng
mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở
LC At Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập
10
khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất,

dựa vào huy động vốn trung và dai hạn ngày càng được nâng cao và huy
động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
1.3. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ
chế thị trường (1992 - 1997)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hàng
nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho
lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng
mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài
vàonhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội
năm, giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà nội
năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh
hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng
nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD.
Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân
hàng phải mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền
này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một
cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu tổ chức, hai trung tâm
giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia vào giao
dịch tăng nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và
mở rộng. Trước tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường
ngoại tệ liên Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao
dịch. Bởi thị trường liên Ngân hàng có qui mô lớn hơn và mang tính thị
trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của
Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn.
Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt nắm được nhu
11
cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp thời

tỷ giá hối đoái. Ngân hàng nhà nước đã thông qua thị trường liên ngân hàng
để nắm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố
hàng ngày và biên độ qui định tỷ giá giao dịch cho các ngân hàng thương mại
làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo mục
tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà
nước về ngoại tệ cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan
sức mua của đồng tiền Việt Nam và quan hệ cung - cầu ngoại tệ của nền kinh
tế, đủ điều kiện cho phép Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ
chế điều hành tỷ giá.
Thực tế tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát
với thực tế và biên độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã được mở
rộng liên tục (từ 0,5% , +_ 0,1% đến 5% so với tỷ giá chính thức )
* Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và
chuyển sang trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991. Từ năm 1992, tỷ giá hối
đoái được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung,
tỷ giá hối đoái đã có những bước tiến lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá
hối đoái qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày càng nhỏ ( điều đó chứng
tỏ khả năng chi phối của Ngân hàng trung ương đối với tỷ giá hối đoái ), mức
tỷ giá hối đoái đã phản ánh giá trị ngoại tệ và quan hệ cung cầu.
1.4 Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước
từ năm 1997 đến nay
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường
ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua
ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc
ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so
với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6
tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải
12
mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá
mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu

rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại
từ 1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần
giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ
Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so với 1,4 tỷ
USĐ vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực
châu á đã ảnh hưởng gây sức ép VNĐ do yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy
tỷ giá ở thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống
Ngân hàng Việt Nam, một năm với những khó khăn và thử thách trên hầu hết
các lĩnh vực Mặc dù có những tổn thất mất mát nhưng hoạt động ngân hàng
vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc đẩy sự phát triển
của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo. Những kết quả
nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung, góp phần kiềm chế lạm phát ở
mức thấp. Nhưng vẫn đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định.
- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc
điều hành lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt
nhất yêu cầu của nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo
điều kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp
phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù
năm đó giá cao su giảm 42% dầu thô giảm 30% giầy da và may mặc cũng
giảm mạnh
Bước qua năm 1998, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng trở
nên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có ngày thay đổi giá vài
13
lần điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nhiều doanh
nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch.
Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị hoặc

L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ
tăngđột biến sẽ không trả được nợ.
Đồng ngoại tệ đóng băng, Ngân hàng không mua không bán và cho vay
bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, chính phủ đã có một quyết định đúng
nhằm kiểm soát ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban hành quyết
định 37/1998/ QĐ- TTg ( ngày 14/2/1998 ) " về một số biện pháp quản lý
ngoại tệ " Đây là một bước thành công lớn của nhà nước ta trong vấn đề quản
lý và kiểm soát ngoại tệ, nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ. Giá
USD ở thị trường tự do hơn một tháng nay đã giảm đến mức thấp, bình quân
là 13.020 VNĐ/USD. Tỷ giá thị trường tự do, thị trường có tổ chức ( thị
trường liên ngân hàng , ngân hàng ) đã sát lại gần nhau. Hiện nay ngân hàng
đã kiểm soát được trên 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường, đã thu
hút từ nhiều nguồn một lượng ngoại tệ tăng thêm.
2. Thực trang rủi ro tỷ giá với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại
Việt Nam hiện nay
Rủi ro tỷ giá hối đoái luôn tồn tại và nó là một nhân tố ảnh hưởng tới kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam trong
thời gian qua còn chưa quan tâm đến tác động này, vì tỷ giá vẫn được nhà
nước “bảo hô”. Mặc dù đồng USD có nhiều biến động trên thị trường thế giới
nhưng trong một thời gian dài tỷ giá tại Việt Nam được giữ ở mức ổn định
tương đối với biến động bình quân 1 năm chỉ khoảng 1%. Sự ổn định đó làm
mở nhạt đi những rủi ro về tỷ giá, thuận lợi cho cá doanh nghiệp xuất khẩu
ngay cả khi đồng USD là đồng tiền chiếm khoảng 80% trong thanh toán.
Khi mà quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên
14
sâu rộng và thực chất thì hội nhập về tỷ giá là điều không thể tránh khỏi. Sự
“bảo hộ” tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong tương lai sẽ dần nới lỏng. Cơ
chế tỷ giá từng bước được thả nổi đã dần hiện hữu khi vào cuối năm 2005
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chính thức công nhận VN thực hiện hoàn toàn
việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Năm 2006, thị trường ngoại hối của

Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới
(WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đã sớm cảnh báo về việc Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) cần tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối
cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn. Sự can thiệp về tỷ giá hối
đoái kịp thời sẽ góp phần giảm áp lực trong điều hành tiền tệ của NHNN. Do
đó, việc nới rộng biên độ tỷ giá là yêu cầu tất yếu. Nếu quan sát thường xuyên
những diễn biến phương thức điều hành tỷ giá của NHNN trong khoảng thời
gian gần đây, chúng ta dễ cảm nhận về một sự chuyển động khá âm thầm
nhưng không kém phần mạnh mẽ. Cụ thể:
- Ngày 1/7/2002 biên độ tỷ giá được mở rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% ,
- Ngày 2/1/2007, tức là sau khoảng 5 năm không thay đổi, biên độ tỷ
giá được mở rộng lên thành +/-0,5%,
- Ngày 24/12/2007, cách lần thay đổi gần nhất gần 1 năm, biên độ tỷ giá
được điều chỉnh lên thành +/- 0,75%,
- Sau đó hơn 2 tháng, ngày 10/3/2008, biên độ lại được đưa lên mức +/-1%.
Chính bởi những biến động đó, rủi ro tỷ giá trở thành một trong những
áp lực kinh doanh đối với DN. Sự biến động thất thường, phức tạp của tỷ giá
tác động không nhỏ đến việc mua nguyên, nhiên liệu đầu vào cho đến doanh
thu của DN.
Đối với doanh nghiệp XNK, họ còn phải chịu tác động trực tiếp và nặng
nề hơn một khi tỷ giá đồng tiền giao dịch biến động theo chiều bất lợi.
Chẳng hạn, giá trị một hợp đồng nhập khẩu của công ty A ký vào ngày
15
3/7/2007 với tỷ giá USD/VND là 16.139. Họ phải thanh toán vào thời điểm
3/8/2007, lúc đó tỷ giá là 16.164. Chênh lệch tỷ giá là 25 đồng. Như vậy, với
mỗi một USD phải thanh toán, DN phải bù thêm 25 đồng. Nếu đó là hợp đồng
trị giá 1 triệu USD, VND phải bù đắp do chênh lệch tỷ giá là 25 triệu đồng.
Công ty B xuất khẩu gỗ chế biến sang EU sẽ nhận thanh toán bằng euro.
Ví dụ, giá trị hợp đồng là 1 triệu euro. Ngày công ty này ký hợp đồng với đối

tác tỷ giá EUR/VND là 20.220, tương đương 20,22 tỷ đồng. Đến thời điểm
thanh toán, tỷ giá EUR/VND là 20.100. Khi đó, công ty B đã bị thiệt hại 120
triệu đồng do sự biến động của tỷ giá EUR/VND.
Đó là chưa kể, tỷ giá một đồng tiền này so với đồng tiền của một quốc
gia khác chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, như các chính sách kinh tế,
chính sách tiền tệ, tương quan kinh tế giữa quốc gia này và quốc gia khác và
các chỉ số kinh tế.
Tại Việt Nam, năm nay, tỷ giá USD/VND có biến động rất lớn. Trên
thực tế, có những trường đoạn tỷ giá giao dịch thực tế chạy hoặc kịch trần
(thời điểm tháng 8) hoặc chạm sàn (từ tháng 10 trở đi) mà Ngân hàng Nhà
nước cho phép (mặc dù từ tháng 1/2007, biên độ dao động đã nới lỏng từ +/-
0,25% lên +/- 0,5 %).
“Theo bà Nguyễn Thuỳ Chi, cán bộ Phòng Nguồn vốn và Kinh doanh
ngoại tệ (Ngân hàng TMCP Quân đội - MB), cho biết, những năm qua, nhiều
ngân hàng đã triển khai thực hiện các nghiệp vụ phái sinh, đặc biệt là nghiệp
vụ quyền chọn, song DN vẫn chưa mặn mà với nghiệp vụ này.” ( theo
vnexpress.net)
Theo phân tích, đó là sự biến động tỷ giá trên thị trường thế giới chưa
gây tác động mạnh đến DN. Các công ty cũng phải đối mặt với rất nhiều sức
ép khác trong kinh doanh mà tạm thời bỏ qua tác động của tỷ giá. Hơn nữa,
USD là ngoại tệ được giao dịch chủ yếu trên thị trường Việt Nam nhưng tỷ
giá USD/VND lại được Ngân hàng Nhà nước bảo đảm, chỉ biến động trong
16
biên độ là +/- 0,25%.
Đến nay, khi Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, sự tác
động của tỷ giá đã có ảnh hưởng không nhỏ đến DN. Mặt khác, Ngân hàng
Nhà nước đã nới lỏng biên độ dao động tỷ giá USD/VND lên 0,5%, ngày
càng phản ánh tỷ giá thực tế trên thị trường. Thêm vào đó, tình hình thế giới
biến động mạnh mẽ và liên tục đảo chiều khiến các DN quan tâm hơn đến
việc sử dụng các công cụ phái sinh, hạn chế tới mức thấp nhất tác động từ

biến động của tỷ giá.
Ngoài ra, trong hoạt động XNK của DN cũng có rất nhiều các rủi ro
khác, như rủi ro từ đối tác (có thể ngăn ngừa thông qua sử dụng tín dụng
chứng từ, tín dụng dự phòng và các bảo lãnh thanh toán); rủi ro kinh tế
(điển hình là Tổng Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) năm 1995
phải đền 5 triệu USD do không thực hiện được việc giao gạo cho một đối tác
phương Tây, Vietnam Airlines thua kiện tại Italy do không dự phiên tòa sơ
thẩm năm 1995, có khả năng mất 5,2 triệu euro ).
Rủi ro tỷ giá gây khó cho doanh nghiệp niêm yết
Sau mùa báo cáo kết quả kinh doanh quý 2/2010 đến loạt báo cáo giải
trình biến động tài chính. Một nguyên nhân nổi bật tạo biến động tài chính tại
nhiều doanh nghiệp niêm yết là rủi ro tỷ giá.
Theo quy định hiện hành, chênh lệch tỷ giá sẽ được xác định tại thời
điểm lập báo cáo tài chính năm. Tuy nhiên, qua các thông tin giải trình cho
thấy, những rủi ro liên quan tiếp tục gây khó cho nhiều doanh nghiệp niêm yết
trong nửa đầu năm 2010.
Quý 2/2010, lợi nhuận của Công ty Cổ phần Hóa dầu Petrolimex (mã
PLC-HNX) tăng hơn 12,26 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2009. Thông tin giải
trình vừa công bố cho biết, một trong những thuận lợi để có kết quả đó là chi
phí tài chính quý 2/2010 của Công ty thấp hơn 42,10% so với quý 2/2009, chủ
yếu là do các khoản lỗ chênh lệch tỷ giá giảm so với cùng kỳ.
Nhưng những trường hợp như PLC (theo thông tin đã công bố) hiện
17
không nhiều. Loạt văn bản giải trình thời gian gần đây cho thấy, trên cả hai
sàn niêm yết HOSE và HNX, có nhiều trường hợp lợi nhuận năm nay có thể
bị ảnh hưởng lớn từ rủi ro tỷ giá.
Có trường hợp khoản lỗ ghi nhận từ nguyên nhân này chỉ vài trăm triệu
đồng, nhưng có những trường hợp nếu xác định ngay phải ghi nhận cả trăm tỷ
đồng. Chênh lệch tỷ giá được ghi nhận chủ yếu từ các khoản vay ngoại tệ,
ngay cả với những khoản vay ngắn hạn.

Một số ví dụ điển hình như :
*) Theo thông tin từ Công ty Cổ phần Truyền thông số 1 (mã ONE-
HNX), cuối năm 2009, Công ty phải vay một khoản ngoại tệ lớn ngắn hạn để
trả cho nhà cung cấp nước ngoài. Chênh lệch tỷ giá hạch toán và tỷ giá thực tế
phát sinh lớn dẫn đến lỗ chênh lệch tỷ giá cao. Và khoản lỗ chênh lệch tỷ giá
đã thực hiện là 1,8 tỷ đồng.
*) Tại Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô (mã DDM-HOSE), chênh
lệch chi phí tài chính đội lên sau kiểm toán 6,24 tỷ đồng một phần cũng do
chênh lệch tỷ giá trong thanh toán là 2,35 tỷ đồng. Và đây cũng là một yếu tố
khiến lợi nhuận sau thuế sau kiểm toán lỗ 17,9 tỷ đồng, thay vì lỗ 11,45 tỷ
đồng trước kiểm toán.
*) Với Công ty Cổ phần Vận tải xăng dầu Vipco (mã VIP-HOSE), lợi
nhuận 6 tháng đầu năm 2010 phải “chia sẻ” khoản trích lập dự phòng chênh
lệch tỷ giá đối với khoản vay ngoại tệ tới 10 tỷ đồng, là một trong những
nguyên nhân dẫn tới lợi nhuận giảm tới 27,74% so với cùng kỳ năm 2009.
Tại một số doanh nghiệp khác, khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá từ năm trước
vẫn tiếp tục đeo bám. Như tại Công ty Cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt
Nam (mã VST-HOSE), lỗ từ chênh lệch tỷ giá tính đến thời điểm 31/12/2009 lên
đến gần 59 tỷ đồng, và đến tháng 7/2010 Hội đồng Quản trị phải ra nghị quyết
dùng toàn bộ số dư quỹ dự phòng tài chính (12,6 tỷ đồng) để bù đắp.
Hay các khoản vay bằng đồng Won và USD của Công ty Cổ phần Nhiệt
18
điện Bà Rịa (mã BTP-HOSE) cũng phát sinh nhiều chi phí từ biến động của
tỷ giá. Trong năm 2009, công ty này có lợi nhuận sản xuất kinh doanh điện là
96,28 tỷ đồng; trong khi lỗ chênh lệch tỷ giá đánh giá chưa thực hiện đánh giá
lại số dư ngoại tệ cuối kỳ là 123,53 tỷ đồng; Công ty phải phân bổ 96,28 tỷ
đồng vào kết quả kinh doanh năm 2009 dẫn đến lợi nhuận trước thuế bằng 0.
Còn lại khoản lỗ gần 27,25 tỷ đồng chưa phân bổ, trong 6 tháng đầu năm
2010 Công ty chưa kết chuyển vào chi phí.
Trong dư nợ của BTP có ghi nhận hơn 43,7 tỷ Won và 15 triệu USD, số

tiền chênh lệch tỷ giá tính từ thời điểm 31/12/2009 đến 30/6/2010 là hơn 16,5
tỷ đồng. Tuy nhiên Công ty chưa đánh giá lại vào thời điểm 30/6/2010 mà sẽ
được đánh giá vào thời điểm 31/12/2010.
*) Tương tự, thuyết minh báo cáo tài chính quý 2/2010 của Công ty Cổ
phần Nhiệt điện Phả Lại (mã PPC-HOSE) cho biết, khoản nợ vay có nguồn
gốc ngoại tệ của Công ty đến thời điểm 30/6/2010 là 33,421 tỷ JPY; tỷ giá
giữa VND với JPY do Ngân hàng Nhà nước thông báo tại ngày 30/6/2010 là
1 JPY = 204,12VND, tăng 3,42 VND so với 31/12/2009. Thời điểm quý
2/2010 căn cứ tỷ giá tại 30/6/2010, chi phí chênh lệch tỷ giá dự kiến theo ước
tính là 114,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, chênh lệch tỷ giá
sẽ được xác định tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm nên Công ty chưa
thực hiện xác định chênh lệch tỷ giá tại thời điểm hiện tại…
Với những khoản vay bằng USD, trong 6 tháng đầu năm 2010, sau lần
điều chỉnh ngày 11/2 (tăng hơn 3%), tỷ giá được giữ ổn định. Tuy nhiên, ngày
18/8 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã tăng thêm gần 2,1% và chưa thể khẳng
định đó là lần điều chỉnh cuối cùng của năm 2010 hay không.
Với những khoản vay bằng JPY, tỷ giá tính chéo của VND so với JPY
áp dụng tính thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu do Ngân hàng Nhà nước công
bố cũng đã tăng mạnh trong thời gian gần đây; mức áp dụng từ ngày 21/8 đến
31/8/2010 đã là 1 JPY = 221,48 VND, tăng tới 10,35% so với thời điểm
19
31/12/2009.
=>Kết luận : Từ những số liệu thống kê tình hình thực tiễn như trên,
chúng ta có thể thấy được rủi ro tỷ giá với doanh nghiệp đang biến động rất
phức tạp, đồng thời cũng thấy được rằng, doanh nghiệp của chúng ta cũng còn
rất non nớt và thiếu nhanh nhạy trong việc nắm bắt thay đổi tỷ giá cũng như
tìm ra giải pháp khắc hục tình hình. Những biến động đó dự đoán trong tương
lai sẽ tiếp tục gây khó khăn đối với doanh nghiệp, trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp niêm yết
có các khoản vay bằng ngoại tệ - một bộ phận có thông tin tài chính công khai

và đại chúng.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TỶ GIÁ
1. Những giải pháp mang tính vĩ mô
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận là từ khi gia nhập WTO, bài học từ
Trung Quốc, đã ngày càng phải điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn. Điều này có
thể xem là minh chứng cho một thực tế đó chính là hội nhập kinh tế đã tạo ra
một áp lực buộc các nước này phải thay đổi chính sách tỷ giá của mình, phải
chấp nhận để cho đồng tiền có tính chuyển đổi trong hoạt động thương mại
lẫn đầu tư, đồng thời cũng không thể theo đuổi một chính sách tỷ giá “gần
như cố định” như của Trung Quốc trước đây được.
Nhìn từ góc độ VN sau khi trở thành một nước thành viên của WTO
giống như Trung Quốc, chúng ta sẽ thấy VN cũng khó mà không đi theo con
đường của Trung Quốc, nghĩa là phải chấp nhận một chế độ tỷ giá “linh hoạt
hơn”, có nghĩa là tỷ giá có lên có xuống. Nếu gọi bằng một cái tên ít được ưa
thích, thì đó sẽ là “bất ổn hơn”.
Tại sao phải chấp nhận một chế độ tỷ giá bất ổn hơn? Trước hết do sức
ép từ bên ngoài. Nhìn ở góc độ lạc quan nhất, VN chúng ta được đánh giá là
một trong số những nền kinh tế đáng chú ý trong thời gian sắp tới trong mắt
các nhà đầu tư và các đối thủ cạnh tranh về thương mại. Và như vậy, chắc
20
chắn không ít nước sẽ xem chúng ta là “đối thủ tiềm năng” của họ trên đấu
trường kinh tế, và vì vậy, sẽ làm mọi cách để hạn chế tác động bất lợi cho họ từ
việc lớn mạnh của nước ta, từ thực hiện các biện pháp tích cực như đề nghị làm
đối tác chiến lược để tác động phân chia thị phần theo lợi thế đến các biện pháp
tiêu cực như kiện bán phá giá, áp đặt các hàng rào mậu dịch ẩn, và yêu cầu thay
đổi tỷ giá. Liệu VN có thể đứng vững trước áp lực của cộng đồng quốc tế, khi
mà Trung Quốc đang ở vị thế tốt hơn VN còn chưa thể làm được?
Điều quan trọng hơn sức ép từ nước ngoài chính là áp lực phải thay đổi
của chính nền kinh tế trong nước. Như cảnh báo từ World Bank, các nước
đang phát triển hiện đang đứng trước một rủi ro rất lớn của việc các dòng vốn

đầu tư gián tiếp đổ vào ào ạt. Đó chính là rủi ro tiềm ẩn của việc các dòng vốn
này sẽ chảy ra nhanh gấp nhiều lần chảy vào, và gây ra khủng hoảng tài
chính.
Nếu giữ mãi việc bảo đảm tỷ giá sẽ “ổn định” trong một khung quá hẹp
1-2% trong 1 năm, thì sẽ làm thị trường chủ quan và dựa dẫm vào Nhà nước,
“không thèm” sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro, đến lúc xảy ra “sự cố” sẽ
trở nên hoang mang và phản ứng thái quá (điều này đã từng xảy ra ở nhiều
nước đang phát triển, và cũng đã xảy ra trong năm nay ở VN). Như vậy, có vẻ
như nhiều khả năng VN phải chấp nhận một chế độ tỷ giá “bất ổn” hơn, mà
cụ thể là tỷ giá USD/VND phải được dao động trong biên độ rộng hơn nữa, vì
sức ép từ bên ngoài lẫn bên trong của quá trình hội nhập kinh tế.
“Linh hoạt trong tỷ giá” cần phải được hiểu là tỷ giá USD/VND có thể
giảm (VND lên giá) nhưng tuyệt nhiên không thể là liên tục giảm như trong
thời gian qua. Do NHNN đưa ra “tín hiệu” kiên quyết không mua vào ngoại tệ
nên các ngân hàng thương mại biết chắc là tỷ giá chỉ có giảm và giảm nên họ
không dại gì mua vào vì chỉ có lỗ. Biên độ tỷ giá vì vậy nếu có mở rộng đến
5-10% đi chăng nữa cũng không thể giải quyết được mâu thuẫn hiện tại: ngân
hàng không dám mua vào USD trong khi nhu cầu vốn USD cho nền kinh tế
21
thì đang có dấu hiệu ngày càng gia tăng. Muốn cho tỷ giá linh hoạt (có lên có
xuống), NHNN nên ưu tiên mua vào lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp
xuất khẩu. Giải pháp này có thể giúp giải quyết phần nào tốc độ lên giá quá
mức của VND. Hơn nữa để cho VND lên giá liên tục và lên giá mạnh mẽ
càng khiến cho dòng vốn ngoại ngắn hạn chảy vào rất nguy hiểm cho nền
kinh tế.
Với cách điều hành chính sách như trong thời gian qua có thể tạo cho các
doanh nghiệp cú sốc mạnh vượt quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp
trong khi các doanh nghiệp chưa sẵn sàng về tâm lý và chiến lược quản trị rủi
ro. Chẳng hạn như diễn biến hiện tại, có tới 4 cú sốc liên tục dội vào các
doanh nghiệp xuất khẩu:

(1) lạm phát làm cho chi phí đầu vào cao
(2) xuất khẩu mất thị phần
(3) không bán được USD
(4) không vay được vốn ngân hàng hoặc vay với lãi suất quá cao.
Vấn đề là cần phải có một sự chuẩn bị tâm lý tốt hơn cho doanh nghiệp.
Như vậy họ sẽ biết cách mà điều chỉnh chính sách phòng ngừa rủi ro cho phù
hợp, để xem họ cần chấp nhận rủi ro hay phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Trung
Quốc trước khi thả nổi nhiều hơn đã thông báo là doanh nghiệp và người dân
cần làm quen với công cụ phòng ngừa, là một cách bắn đi tín hiệu rõ ràng là:
rủi ro tỷ giá sẽ lớn hơn, và các doanh nghiệp phải tự quyết định có nên phòng
ngừa hay không, nhưng không được chủ quan nữa.
Rủi ro tỷ giá là câu chuyện bình thường trong nền kinh tế thị trường. Để
đối phó với rủi ro này một mặt các doanh nghiệp VN cần phải nâng cao nhận
thức và học cách tự phòng vệ, mặt khác các cơ quan điều hành chính sách nên
thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt hướng về thị trường và tạo ra văn hóa
quản trị rủi ro cho toàn xã hội
2. Những giải pháp cụ thể với doanh nghiệp nhập khẩu
22
2.1. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá
Trên thị trường tài chính nói chung và thị trường hối đoái nói riêng các
chuyên gia thường dùng 2 cách phân tích sau đây để dự báo giá: phân tích kỹ
thuật (Technical analysis) và phân tích cơ bản (Fundamental analysis).
+ Phân tích cơ bản (Fundamental analysis) là phương pháp phân tích tập
trung vào việc nghiên cứu các lý do hoặc nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc
giảm xuống. Nó chú ý đến các lực lượng tác động đến cung cầu tiền tệ trên thị
trường: lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu tư…
Ý tưởng của phương pháp này là tiến đến một giá trị dự đoán về giá trị
sinh lời tiềm ẩn của một thị trường để xác định xem thị trường được đánh
giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Phần khó nhất của phương pháp này là
quyết định xem thông tin nào và bao nhiêu tiền đã được tính vào cơ cấu giá

hiện hành.
Các lý thuyết chính của phân tích cơ bản là :
Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá lãi suất (IRP), mô
hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn,…
+ Phân tích kỹ thuật (Technical analysis) đơn giản là một phương pháp
dự báo dựa vào nghiên cứu về quá khứ, tâm lý và quy luật xác suất. Phân tích
kỹ thuật chủ yếu là dựa vào đồ thị tỉ giá và số lượng mua bán của quá khứ đã
được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỉ giá trong tương lai. Phân
tích kỹ thuật có tính linh hoạt, dễ sử dụng và nhanh chóng, những nhà kinh
doanh ngắn hạn, trung hạn, dài hạn được tự do chọn lựa. Điều lưu ý là phân
tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu hướng đúng, nhưng nó phải
được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không phải theo cảm
tính. Thời gian lập biểu đồ phân tích là do mỗi nhà kinh doanh lựa chọn có
thể sử dụng phân tích kỹ thuật trong ngày (các dạng 5 phút, 30 phút hay mỗi
giờ), trong tuần hoặc trong tháng. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật
là: lý thuyết Dow, lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave… Trong phân tích
23
kỹ thuật có các giả định: thị trường phản ứng trước mọi sự kiện xảy ra, giá cả
biến động theo một khuynh hướng nhất định, sự biến động giá cả thườnglập lại
theo chu kỳ và có sự lập lại của giá cả trong quá khứ vào tương lai.
Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu
riêng. Vì vậy nhà kinh doanh phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cộng với
quyết định trực quan của mình để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
2.2. Lựa chọn ngoại tệ thanh toán
Sự biến động tỷ giá của từng loại ngoại tệ khác nhau, phụ thuộc vào tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia. Như vậy mức độ rủi ro tỷ giá
phát sinh với mỗi loại ngoại tệ cũng không giống nhau. Việc lựa chọn loại
ngoại tệ có giá trị tương đối ổn định sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu tác
động của biến thiên tỷ giá.
Theo dự báo của các chuyên gia tiền tệ, xu hướng đồng đôla giảm giá so

với các ngoại tệ mạnh khác, trong đó có euro sẽ còn kéo dài ít nhất là đến hết
năm nay. Bởi trên thực tế, Mỹ vẫn đang lún sâu vào tình trạng thâm hụt kép
(thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai). Để cải thiện tình hình
này, Washington sẽ phải duy trì đồng đôla yếu trong một thời gian nữa. Do
đó các doanh nghiệp cần thận trọng dự báo xu hướng giá của đồng tiền mình
lựa chọn, nên đa dạng hóa các loại tiền thanh toán để giảm bớt rủi ro về tỷ
giá. Tuy nhiên để có thể giành lợi thế trong đàm phán, ký kết hợp đồng (lựa
chọn ngoại tệ) thì sức cạnh tranh hàng hóa của doanh nghiệp phải đủ lớn.
2.3. Sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu song hành
Đây là phương pháp tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá đơn giản bằng cách tiến
hành song hành cùng một lúc cả hai hợp đồng xuất khẩu và nhập khẩu có giá
trị và thời hạn tương đương nhau. Bằng cách này, nếu USD lên giá so với
VND thì công ty sẽ sử dụng phần lãi do biến động tỷ giá từ hợp đồng xuất
khẩu để bù đắp phần tổn thất do biến động tỷ giá của hợp động nhập khẩu.
Ngược lại, nếu USD giảm giá so với VND thì công ty sẽ sử dụng phần lợi do
24

×