Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY BIA HÀ NỘI – HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.97 KB, 82 trang )

Page 1 of 82
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển đã và đang góp phần vào xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân. Nếu có một kế hoạch phát
triển hợp lý, thì sức ép của sự phát triển lên môi trường ngày càng ít hơn. Sự
tăng trưởng kinh tế, nếu không được quản lý một cách hợp lý, có thể gây những
ảnh hưởng tiêu cực, sự bền vững của hệ sinh thái và thậm chí của cả nền kinh tế
có thể bị phá vỡ.
Các dự án phát triển ngoài việc mang lại các lợi ích kinh tế cho xã hội, còn gây
ra những tác động tiêu cực cho con người và tài nguyên thiên nhiên. Nhiều nước
trong quá trình phát triển thường quan tâm đến những lợi ích kinh tế trước mắt,
vì thế trong quá trình lập kế hoạch phát triển công tác bảo vệ môi trường chưa
được quan tâm đến một cách đúng mức. Sự yếu kém của việc lập kế hoạch phát
triển đã gây ra tác động tiêu cực cho chính các hoạt động này ở trong nước.Việc
đầu tiên của công tác bảo vệ môi trường trong quá trình lập kế hoạch thực hiện
một dự án là triển khai đánh giá TĐMT. Vì vậy, việc thực hiện đánh giá TĐMT
giúp ngăn ngừa và giảm thiểu các hậu quả tiêu cực và phát huy các kết quả tích
cực về môi trường và xã hội của các dự án phát triển.
Phát triển bền vững có mục đích gắn kết các nhu cầu về phát triển kinh tế xã hội
và bảo vệ môi trường để đạt được những mục tiêu sau:
Nâng cao mức sống của nhân dân trong một thời gian ngắn.
Đạt được lợi ích thực sự, đảm bảo sự cân bằng giữa con người, tự nhiên và các
nguồn lợi kinh tế không những cho thế hệ hôm nay mà còn cho cả thế hệ mai
sau.
Đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, hai đặc điểm chính quyết
định sự phát triển bền vững, đó là:
Có hầu hết các hệ sinh thái năng suất cao và các vùng sinh thái nhạy cảm của thế
giới, đó là rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, …
Sự yếu kém trong quá trình phát triển vẫn còn là chở ngại chủ yếu tiếp tục gây
nên suy thoái môi trường.


Đánh giá tác động môi trường cần được sử dụng như một công cụ hữu hiệu để
góp phần quản lý môi trường và phát triển bền vững.
Trong 5 năm gần đây, do tác động của những yếu tố chính như tốc độ tăng GDP,
đời sống thu nhập được nâng cao, tăng dân số, đô thị hóa, du lịch, tốc độ đầu tư,
sắp xếp tổ chức sản xuất,…ngành công nghiệp Bia Việt Nam đã có tốc độ tăng
trưởng cao, bình quân 8 – 12% năm. Đặc biệt năm 2003, sản lượng bia đạt 1.290
triệu lít, đạt 79% so công suất thiết kế, tăng 20,7% so với thực hiện năm 2002,
tăng 90 triệu lít theo Quy hoạch, nộp ngân sách khoảng 3650 tỉ đồng. Năm 2004
đạt 1.387,5 triệu lít ( tăng 15,6% so Quy hoạch năm 2005) và năm 2005 đạt
1500 triệu lít ( tăng 25% so Quy hoạch). Tiêu thụ bình quân đầu người đạt
khoảng 18 lít/người/năm, tăng gấp đôi năm 1997 ( 8,5 lít/người/năm).
Căn cứ Quyết định số 18/2007/QĐBCN ngày 8/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia – RượuNước giải khát Việt
Nam đến năm 2010 được điều chỉnh bổ sung như sau:
a. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng ngành Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam thành một ngành kinh
tế mạnh. Khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, phát triển sản xuất các
sản phẩm chất lượng cao, có uy tín, thương hiệu hàng hóa mạnh trên thị trường,
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đa dạng hóa về chủng loại, cải tiến bao bì,
Page 2 of 82
mẫu mã; phấn đấu hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu
trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách, hội nhập vững
chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp mạnh, tập đoàn kinh tế trên cơ sở
góp vốn liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất biarượunước giải
khát thuộc mọi thành phần kinh tế.
b. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2010 sản xuất 3.500 triệu lít bia, 145 triệu lít rượu và 1.650 triệu lít
nước giải khát.
Về quy hoạch sản xuất bia: Tập trung đầu tư các nhà máy có công suất lớn thiết

bị hiện đại, sản xuất kinh doanh hiệu quả, đáp ứng yêu cầu về môi trường theo
quy chuẩn của nhà nước. Sản phẩm bia phải tuân thủ các điều kiện về vệ sinh an
toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng và giá thành được người tiêu dùng chấp
nhận.
Trên cơ sở các phân tích về tình hình sản xuất và khu vực; thực trạng ngành
công nghiệp sản xuất bia Việt Nam; quy hoạch tổng thể phát triển ngành bia
rượu nước giải khát; tình hình thị trường và sản xuất kinh doanh của Tổng công
ty BiaRượu – Nước giải khát Hà Nội. Công ty Cổ phần đầu tư phát triển công
nghệ BiaRượuNước giải khát Hà Nội quyết định đầu tư xây dựng mới Nhà máy
bia công suất 50 triệu lít/năm tại tỉnh Hưng Yên.
Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài : “ Đánh giá tác động môi trường dự án
đầu tư xây dựng nhà máy bia Hà Nội – Hưng Yên ( công suất 50 triệu lít/năm) “.
Page 3 of 82
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này cung cấp thông tin để hướng tới sự phát triển bền
vững:
Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định của nhà quản lý.
Lường trước tác động đến môi trường trước khi đưa ra quyết định quản lý.
Gíup chủ đầu tư phòng tránh sự cố trong quá trình vận hành.
Có thể thực hiện theo các phương án của hoạt động phát triển, so sánh lợi hại
theo các phương án, đề xuất lựa chọn phương án.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Bia là nước giải khát có từ lâu đời 7000 năm trước công nguyên đã có ghi chép
về sản xuất bia. Hiện nay nhu cầu bia trên thế giới cũng như ở Việt Nam rất lớn
vì bia là loại nước uống mát, có độ cồn thấp, có hương vị đặc trưng,…Đặc biệt,
CO2 bão hòa trong bia có tác dụng làm giảm nhanh cơn khát của người uống,
nhờ những ưu điểm này mà bia được sử dụng rộng rãi ở hầu khắp các nước trên
thế giới và sản lượng ngày càng tăng.
Trên cơ sở đó Nước giải khát Bia Hà Nội quyết định đầu tư xây dựng nhà máy
bia tại Hưng Yên.

Do đó đối tượng nghiên cứu là : “Dự án đầu tư xây dựng nhà máy bia Hà Nội –
Hưng Yên ( công suất 50 triệu lít/năm)” .
Page 4 of 82
4. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Chuỗi số liệu được sử dụng để phân tích chủ yếu từ năm 2006 đến
năm 2008.
Về không gian : Xã Trưng Trắc, Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp được sử dụng gồm có:
Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập tài liệu liên quan đến dự án – dự án đầu
tư xây dựng Nhà máy bia Hà Nội – Hưng Yên tại KCN, thu thập các số liệu về
điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực xây dựng dự án.
Phương pháp nghiên cứu khảo sát thực địa:
Khảo sát đo đạc hiện trạng môi trường nền
Vị trí và các khu vực tiếp nhận nước thải
Hiện trạng nước mặt, nước ngầm khu vực thực hiện dự án
Đo đạc chất lượng môi trường nền: không khí, chất lượng nước mặt, nước ngầm,
chất lượng đất
Phương pháp phân tích: Tập hợp các số liệu thu thập được, so sánh với các tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam đã ban hành từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá các ảnh
hưởng đến môi trường do xây dựng và hoạt động của dự án.
Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các số liệu đã thu thập được, phân tích và rút
ra những kết luận về ảnh hưởng từ các hoạt động của dự án đến môi trường.
Đồng thời đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động ô nhiễm môi trường.
Page 5 of 82
6. Nguồn số liệu, dữ liệu
Đa số các nguồn số liệu, dữ liệu có trong chuyên đề đều là nguồn số liệu, dữ liệu
thứ cấp:
Công ty Bia – Rượu – Nước gỉai khát Hà Nội.
Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên.

Bộ Tài nguyên và Môi trường : Quyết định số 122/2006/QĐBTNMT ngày
18/12/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc bắt buộc áp
dụng Tiêu chuẩn Việt Nam về Môi trường.
Đánh giá tác động môi trường – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000
Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải – Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội,
tập I, II, III , 2001.
Hệ thống thông tin Địa lý GIS – Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Hà Nội,
2000.
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua
ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2006.
7. Kết cấu chuyên đề
Kết cấu của chuyên đề gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư
Chương 2: Đánh giá tác động môi trường của dự án đầu tư xây dựng nhà máy
bia Hà NộiHưng Yên ( Công suất 50 triệu lít/ năm)
Page 6 of 82
Chương 3: Một số giải pháp để bảo vệ môi trường của dự án đầu tư xây dựng
nhà máy bia Hà Nội – Hưng Yên (Công suất 50 triệu lít/năm)
Kết luận.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG CỦA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Page 7 of 82
1.1. TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm về dự án đầu tư
Từ những năm 60 trở lại đây thì nhận thức về dự án bắt đầu hoàn thiện, danh từ
dự án được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, các mối quan hệ, mục tiêu, phạm vi
khác nhau. Do vậy cơ cấu tổ chức của dự án cũng tương đối khác nhau. Các nhà
kinh tế học đã đưa ra nhiều khái niệm về dự án. Mỗi một khái niệm nhấn mạnh
một số khía cạnh của dự án cùng các đặc điểm quan trọng của nó trong từng
hoàn cảnh cụ thể.

Xét theo nghĩa chung nhất, dự án là một lĩnh vực hoạt động đặc thù, một nhiệm
vụ cụ thể cần phải đạt được thực hiện với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và
phải theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới. Như vậy theo định
nghĩa này thì: dự án không chỉ là một ý định phác thảo mà có tính cụ thể và mục
tiêu xác định; Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng mà phải cấu trúc
nên một thực thể mới.
Xét về hình thức: Dự án đầu tư được hiểu là một tập tài liệu tổng hợp bao gồm
các luận chứng cá biệt được trình bày một cách có hệ thống, chi tiết về một kế
hoạch đầu tư nhằm đầu tư các nguồn tài nguyên của một cá nhân, một tổ chức
vào một lĩnh vực hoạt động nào đó của xã hội để tạo ra một kết quả kinh tế, tài
chính kéo dài trong tương lai.
Xét trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ hoạch định nỗ lực có thời
hạn trong việc sử dụng vốn, vật tư, lao động nhằm tạo ra những sản phẩm mới
cho xã hội. Định nghĩa này nhấn mạnh hai đặc tính: Mọi dự án đầu tư đều có
điểm bắt đầu và điểm kết thúc xác định. Dự án kết thúc khi mục tiêu của dự án
Page 8 of 82
đã đạt được hoặc khi xác định rõ ràng mục tiêu không thể đạt được và dự án bị
loại bỏ; Sản phẩm hoặc dịch vụ mới được tạo ra khác biệt so với những sản
phẩm tương tự đã có hoặc dự án khác.
Xét trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư được xem là một kế hoạch chi tiết
để thực hiện chương trình đầu tư nhằm phát triển kinh tế, xã hội làm căn cứ đưa
ra quyết định đầu tư và sử dụng vốn đầu tư.
Dù các định nghĩa khác nhau nhưng có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của
khái niệm dự án như sau:
Dự án có mục đích, mục tiêu rõ ràng. Mỗi dự án thể hiện một hoặc một nhóm
nhiệm vụ cần được thực hiện với một bộ kết quả xác định nhằm thoả mãn một
nhu cầu nào đó. Dự án cũng là một hệ thống phức tạp nên cần được chia thành
nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện và quản lý nhưng phải dảm bảo các mục
tiêu cơ bản về thời gian, chi phí và việc hoàn thành với chất lượng cao.
Dự án có chu kỳ phát triển riêng và tồn tại hữu hạn. Nghĩa là giống như các thực

thể sống, dự án cũng trải qua các giai đoạn: hình thành, phát triển, có thời điểm
bắt đầu và kết thúc.
Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp giữa các bộ phận
quản lý chức năng với quản lý dự án Dự án nào cũng có sự tham gia của nhiều
bên hữu quan như chủ đầu tư, người hưởng thụ dự án, các nhà tư vấn, nhà thầu,
cơ quan quản lý Nhà nước Vì mục tiêu của dự án các nhà quản lý dự án duy trì
thường xuyên mối quan hệ với các bộ phận quản lý khác.
Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo. Khác với quá trình sản
xuất liên tục và gián đoạn kết quả của dự án không phải là sản phẩm sản xuất
Page 9 of 82
hàng loạt mà có tính khác biệt cao. Sản phẩm và dịch vụ do dự án đem lại là duy
nhất.
Môi trường hoạt động “va chạm”. Quan hệ giữa các dự án là quan hệ chia nhau
cùng một nguồn lực khan hiếm của một tổ chức. Dự án “cạnh tranh” lẫn nhau và
với các bộ phận chức năng khác về tiền vốn, nhân lực, thiết bị.
Tính bất định và rủi ro cao: Hầu hết các dự án đòi hỏi lượng tiền vốn, vật tư và
lao động rất lớn để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác,
thời gian đầu tư vào vận hành kéo dài nên các dự án đầu tư phát triển thường có
độ rủi ro cao.
1.1.2. Đặc điểm của dự án
Mặc dù mỗi một dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau có đặc điểm riêng của lĩnh
vực đó nhưng nói chung dự án có những đặc điểm chung cơ bản sau:
Dự án có tính thống nhất: Dự án là một thực thể độc lập trong một môi trường
xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách nhiệm.
Dự án có tính xác định: Dự án được xác định rõ ràng về mục tiêu cần phải đạt
được, thời hạn bắt đầu và thời hạn kết thúc cũng như nguồn lực cần có với một
số lượng, cơ cấu, chất lượng và thời điểm giao nhận.
Dự án có tính logic: Tính logic của dự án được thể hiện ở mốc quan hệ biện
chứng giữa các bộ phận cấu thành dự án.
Một dự án thường có 4 bộ phận sau:

Mục tiêu của dự án: Một dự án thường có 2 cấp mục tiêu là mục tiêu phát triển
và mục tiêu trực tiếp.
Page 10 of 82
Mục tiêu phát triển là mục tiêu mà dự án góp phần thực hiện. Mục tiêu phát triển
được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, của vùng.
Mục tiêu trực tiếp là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuôn khổ
nguồn lực nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.
Kết quả của dự án: là những đầu ra cụ thể của dự án được tạo ra từ các hoạt
động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của
dự án.
Các hoạt động của dự án: Là những công việc do dự án tiến hành nhằm chuyển
hoá các nguồn lực thành các kết quả của dự án. Mỗi hoạt động của dự án đều
đem lại kết quả tương ứng.
Nguồn lực của dự án: Là các đầu vào về mặt vật chất, tài chính, sức lao động
cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Nguồn lực là tiền đề để tạo nên
các hoạt động của dự án.
Bốn bộ phận trên của dự án có quan hệ logic chặt chẽ với nhau: Nguồn lực của
dự án được sử dụng tạo nên các hoạt động của dự án. Các hoạt động tạo nên các
kết quả (đầu ra). Các kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp
của dự án. Đạt được mục tiêu trực tiếp là tiền đề góp phần đạt được mục tiêu
phát triển.
1.1.3. Vai trò của dự án đầu tư
Đối với nhà đầu tư:
Một nhà đầu tư muốn đem tiền đi đầu tư thu lợi nhuận về cho bản thân thì căn
cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư có nên đầu tư hay không là dự án đầu tư. Nếu
Page 11 of 82
dự án đầu tư hứa hẹn đem lại khoản lợi cho chủ đầu tư thì nhất định sẽ thu hút
được chủ đầu tư thực hiện. Nhưng để có đủ vốn thực hiện dự án chủ đầu tư phải
thuyết phục các tổ chức tài chính tài chính cho vay vốn và cơ sở để các nhà tài

chính cho vay vốn thì phải dựa vào dự án có khả thi hay không? Vậy dự án đầu
tư là phương tiện thu hút vốn. Dựa vào dự án, các nhà đầu tư có cơ sở để xây
dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình thực hiện dự án.
Đồng thời bên cạnh chủ đầu tư thuyết phục các nhà tài chính cho vay vốn thì dự
án cũng là công cụ để tìm kiếm các đối tác liên doanh. Một dự án tuyệt vời sẽ có
nhiều đối tác để ý, mong muốn cùng tham gia để có phần lợi nhuận. Nhiều khi
các chủ đầu tư có vốn nhưng không biết mình nên đầu tư vào đâu có lợi, rủi ro ít
nhất, giảm thiểu chi phí cơ hội vì vậy dự án còn là một công cụ cho các nhà đầu
tư xem xét, tìm hiểu lựa chọn cơ hội đầu tư tốt nhất. Ngoài ra, dự án đầu tư còn
là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên doanh cũng như để giải quyết các mối quan
hệ tranh chấp giữa các đối tác trong quá trình thực hiện dự án.
Đối với Nhà nước.
Dự án đầu tư là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét duyệt cấp giấy phép đầu
tư, là căn cứ pháp lý để toà xem xét, giải quyết khi có tranh chấp giữa các bên
tham gia đầu tư trong quá trình thực hiện dự án sau này.
Đối với tổ chức tài trợ vốn.
Dự án đầu tư là căn cứ để cơ quan này xem xét tình khả thi của dự án để quyết
định nên tài trợ hay không, tài trợ đến mức độ nào cho dự án để đảm bảo rủi ro ít
nhất cho nhà tài trợ.
Page 12 of 82
Đối với việc hoạch định chiến lược phát triển.
Dự án là công cụ để triển khai thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch 5 năm, chương trình phát triển một cách có hiệu quả nhất.
Dự án là phương tiện để gắn kết kế hoạch và thị trường, nâng cao tính khả thi
của kế hoạch, đồng thời đảm bảo khả năng điều tiết thị trường theo định hướng
xác định của kế hoạch.
Dự án góp phần giải quyết quan hệ cung cầu về vốn trong phát triển kinh tế xã
hội và giải quyết quan hệ cung cầu về sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Dự án góp phần cải thiện đời sống dân cư và cải tiến bộ mặt kinh tế xã hội của
từng vùng và của cả nước, tạo tiền đề cho các công ty, doanh nghiệp phát triển.

Do dự án có vai trò quan trọng như vậy nên dự án phát triển chiếm vị trí cốt yếu
trong hệ thống kế hoạch hoá, trong chiến lược phát triển của công ty, của vùng,
của cả nước. Nó là công cụ để triển khai nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch với
hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
1.2. TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG
Thất bại thị trường là một thuật ngữ kinh tế học miêu tả tình trạng thị trường
không phân bổ thật hiệu quả các nguồn lực.
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường vô cùng đa dạng. Thiệt hại về lợi ích kinh tế,
sức khỏe người dân, suy giảm hệ sinh thái, ….Có rất nhiều doanh nghiệp đã vì
mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua trách nhiệm với xã hội, thờ ơ trước sức
khỏe của con người. Tất cả các hành vi đó đều vi phạm pháp luật, trái với đạo
đức và đi ngược với chủ trương xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững
của Đảng và Nhà nước, đi ngược với xu thế phát triển chung của thế giới.
Page 13 of 82
Các hành vi đó được gọi là sự thất bại thị trường, do những hành vi tư lợi dẫn
đến những kết quả không có hiệu quả.
Ngoại ứng xuất hiện khi một quá trình sản xuất hay tiêu dùng hàng hóa hay dịch
vụ nào đó gây tác động môi trường ( gây thiệt hại hay mang lại lợi ích) đến cả
những người không trực tiếp tham gia vào các giao dịch thị trường.
Khi một quá trình sản xuất hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ gây thiệt hại
cho ai đó mà người này không được đền bù thì ta nói quá trình đó đã gây ra một
ngoại ứng tiêu cực. Nói cách khác ngoại ứng tiêu cực xảy ra trong trường hợp
một hoạt động sản xuất hay tiêu dùng nào đó tác động tiêu cực (tạo ra một tổn
hại hay chi phí) cho người khác song người gây ra tác động lại không bị trừng
phạt bởi những gì mà anh ta gây ra.
Ngược lại, một hoạt động sản xuất hay tiêu dùng nhất định có thể gây ra ngoại
ứng tích cực nếu như nó đem lại lợi ích cho một người nào đó mà người này
không phải trả tiền.
Khi không có ngoại ứng, lợi ích hay chi phí xã hội trong việc sản xuất hay tiêu
dùng một khối lượng hàng hóa nào đó được thể hiện chính bằng lợi ích hay chi

phí mà chính những cá nhân trực tiếp tham gia vào các giao dịch thị trường có
liên quan được thụ hưởng hay bị gánh chịu. Nói một cách quy ước: trong trường
hợp này, lợi ích hay chi phí xã hội cũng chính là lợi ích hay chi phí tư nhân.
Trái lại, khi ngoại ứng xuất hiện, lợi ích hay chi phí xã hội trong việc sản xuất
hay tiêu dùng một khối lượng hàng hóa nào đó sẽ không trùng khớp với lợi ích
hay chi phí của các cá nhân (ta gọi là lợi ích hay chi phí tư nhân). Chẳng hạn,
nếu việc sản xuất hàng hóa của một doanh nghiệp gây ra ô nhiễm đối với môi
trường và những người dân sinh sống xung quanh không được doanh nghiệp đền
bù gì thì chi phí xã hội của việc sản xuất một khối lượng hàng hóa nhất định,
Page 14 of 82
ngoài những chi phí kinh tế mà doanh nghiệp phải bỏ ra hay hy sinh còn phải
bao hàm cả những tổn hại về môi trường mà người dân phải gánh chịu do có
việc sản xuất trên. Trong trường hợp ngoại ứng tiêu cực này, chi phí xã hội của
việc sản xuất một khối lượng hàng hóa nhất định rõ ràng lớn hơn chi phí tư nhân
của các nhà sản xuất.
Quá trình phát triển công nghiệp đã bộc lộ một số khiếm khuyết trong việc xử lý
chất thải và đảm bảo chất lượng môi trường, làm gia tăng lượng thải và các chất
gây ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường là một trong những ngoại ứng tiêu cực phát sinh trong quá
trình sản xuất. Chúng gây tổn hại lâu dài cho sinh hoạt cũng như hoạt động sản
xuất những người dân trong khu vực xung quanh khu công nghiệp nhưng không
được xử lý và đền bù thỏa đáng.
Ngoại ứng tiêu cực này gây tổn hại phúc lợi chung của xã hội, ảnh hưởng tới sự
phát triển bền vững, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Chính phủ.
Do đó tham gia lập, thẩm định và thực thi đánh giá tác động môi trường góp
phần vào việc quyết định phát triển thành công hay thất bại của một doanh
nghiệp.
Đánh giá tác động môi trường không chỉ thực hiện cho các dự án (hay các cơ sở
chưa đi vào hoạt động) mà nó còn được thực hiện với cả các cơ sở đang hoạt
động để biết được các hoạt động sản xuất kinh doanh đang và sẽ tác động tới

môi trường như thế nào.
Có thể khẳng định ĐMC, ĐTM là một trong những công cụ được Nhà nước sử
dụng trong công tác bảo vệ môi trường. Tham gia lập, thẩm định và thực thi
đánh giá tác động môi trường là tổ hợp các cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm
Page 15 of 82
quyền và cộng đồng dân cư có liên quan. Trong đó, vai trò của cộng đồng trong
quá trình lập
và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường là vô cùng quan trọng. Ghi
nhận vai trò này, Khoản 8 Điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định: “Ý
kiến của ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn, đại diện cộng đồng dân cư nơi
thực hiện dự án, các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại địa phương, hoặc
không tán thành đối với các giải pháp bảo vệ môi trường phải được nêu ra trong
báo cáo đánh giá tác động môi trường”.
Đối với một doanh nghiệp thì uy tín đối với cộng đồng nói chung và đối với
khách hàng nói riêng là điều sống còn, nó quyết định đến việc thành công hay
thất bại của một doanh nghiệp. Uy tín ở đây thể hiện ở lòng tin của cộng đồng
đối với sản phẩm doanh nghiệp sản xuất; những lợi ích mà doanh nghiệp đó đem
lại cho cuộc sống của cộng đồng. Tất cả những thứ đó tạo nên danh tiếng và
thương hiệu cho một doanh nghiệp.
Các nhà hoạch định chính sách hiểu rất rõ rằng: Doanh nghiệp có thể chấp nhận
những mức phạt hành chính cao nhưng doanh nghiệp lại không thể thờ ơ đứng
nhìn uy tín, thương hiệu của mình trở lên xấu xí trong mắt cộng đồng.
Điều này lí giải tại sao các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường sợ nhất khi
hành vi vi phạm bị phát giác và thông tin rộng rãi cho cộng đồng. Ở các thị
trường văn minh như Mỹ, EU, Singapore… khi “văn hóa tẩy chay” trở lên phổ
biến thì sức ép cộng đồng là một lá chắn hữu hiệu bảo vệ môi trường. Đứng
Page 16 of 82
trước sức ép này, doanh nghiệp buộc phải cân nhắc thiệt hơn khi có ý định coi
nhẹ các giải pháp bảo vệ môi trường.
1.3. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

Ở VIỆT NAM
Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh. Song mặt trái của quá trình
phát triển kinh tế xã hội có thể không tạo ra hiệu ứng tức thời tới cuộc sống của
chúng ta. Cùng với việc xây dựng các chương trình, dự án nhằm phát triển kinh
tế xã hội, tạo ra những thúc đẩy phát triển là các tác động làm thay đổi môi
trường, hệ sinh thái. Bên cạnh những thuận lợi từ những chính sách đổi mới giúp
Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định trong thời gian
qua. Định hướng phát triển nền kinh tế đa thành phần đã hậu thuẩn cho sự phát
triển kinh tế tư nhân và tạo những bước đà mới cho phát triển kinh tế. Đời sống
người dân qua đó được cải thiện đáng kể. Thì đã đặt một sức ép rất lớn lên môi
trường và hệ sinh thái Việt Nam. Do đó việc thực hiện đánh giá tác động môi
trường trở nên rất quan trọng. Tuy nhiên việc thực hiện đánh giá tác động môi
trường cũng gặp phải những khó khăn nhất định và được chia thành các phần
nhỏ dưới đây.
1.3.1. Các lực lượng thực thi đánh giá tác động môi trường
Page 17 of 82
Đáp ứng nhu cầu “ thị trường” trong bối cảnh các hoạt động đầu tư nở rộ trên
toàn quốc, số lượng người tham gia lập ĐTM, đã tăng nhanh một cách tự phát.
Đội ngũ chuyên gia, tổ chức và dịch vụ tư vấn ĐTM trong và ngoài nước đều dễ
dàng tiếp cận.
Tuy nhiên yêu cầu về năng lực đảm bảo thực hiện của ĐTM vẫn còn chưa được
quan tâm sâu sắc.
Cán bộ thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM cấp Trung ương, có nhiều cán bộ
được đào tạo, huấn luyện trong và ngoài nước nên năng lực, trình độ tăng đáng
kể.
Tuy nhiên, ở cấp tỉnh, đội ngũ cán bộ thẩm định ĐTM vẫn còn yếu và thiếu,
chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng, về kiến thức khoa học môi trường có liên
quan đến nhiều ngành khác nhau.
Do đó, cần có một hệ thống quy chuẩn và có thể nên tăng cường công tác tập
huấn nâng cao lực lượng, cho đội ngũ cán bộ làm công tác đánh giá tác động

môi trường của các địa phương để hạn chế các sai sót trong đánh giá tác động
môi trường.
1.3.2. Chính sách trong đánh giá tác động môi trường
Một số đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức, chưa
phản ánh được thực chất vấn đề;
Page 18 of 82
Sự quan tâm và nguồn kinh phí cho việc thực hiện các chương trình đánh giá tác
động môi trường chưa lớn;
Công việc giám sát đánh giá thực thi sau khi các dự án đã được phê duyệt còn ít
quan tâm;
Tiếng nói dư luận còn thiếu trọng lượng.
1.3.3. Đánh giá hiệu quả chính sách
Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức
Một bộ phận nhỏ chủ quản lý và đầu tư coi yêu cầu lập báo cáo ĐTM như là một
thủ tục trong quá trình chuẩn bị để thực hiện dự án, coi ĐTM như một lực cản
cho hoạt động phát triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo
cáo ĐTM chỉ làm lấy lệ.
Sự quan tâm và nguồn kinh phí thực hiện
Nguồn kinh phí thực hiện ĐTM chiếm một phần nhỏ trong việc. Bởi vậy, để có
báo cáo ĐTM có giá trị là một thách thức đối với việc thực hiện các công việc
phục vụ cho báo cáo, bên cạnh đó cũng thiếu sự quan tâm, chỉ đạo và việc phân
định vị trí, vai trò, chức năng, thẩm định của các dự án còn nhiều vấn đề chồng
chéo.
Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên
quan
Tâm lý của các chủ đầu tư vẫn còn coi nặng hiệu quả của kinh doanh theo
hướng có lợi nhất cho họ. Bỏ mặc quyền lợi chung của xã hội. Do đó việc thực
Page 19 of 82
hiện đánh giá tác động môi trường đôi khi vẫn chưa tốt và được quan tâm thích
đáng và đôi khi báo cáo sai sự thật. Việc này dẫn đến vi phạm pháp luật.

Vai trò của cộng đồng người dân trong đánh giá tác động môi trường
Vấn đề lấy ý kiến nhân dân đôi khi được thực hiện chưa tốt. Việc này minh
chứng bằng việc cho phép triển khai dự án thì xuất hiện nhiều ý kiến của cộng
đồng dân cư. Có những dự án mặc dù đã được cộng đồng các nhà khoa học,
cộng đồng địa phương phản ánh là nguy hại đến môi trường song vẫn được
triển khai.
1.4. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.4.1. Khái niệm về đánh giá tác động môi trường
Cho đến nay đã có nhiều định nghĩa về ĐTM; những định nghĩa đó về nội dung
cơ bản thống nhất với nhau, trong nhiều cách diễn đạt khác nhau là do sự chú ý
nhấn mạnh của từng tác giả tới một khía cạnh nào đó trong ĐTM.
Trên cơ sở xem xét những định nghĩa đã được nhiều nhà nghiên cứu đề xuất, và
căn cứ vào sự phát triển về lý luận và thực tiễn của ĐTM trong thời gian qua, có
thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ về ĐTM như sau:
"ĐTM của một hoạt động phát triển kinh tế xã hội là xác định, phân tích và dự
báo những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài mà việc thực hiện hoạt
động đó có thể gây ra cho tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường sống
của con người tại nơi có liên quan đến hoạt động, trên cơ sở đó đề xuất các
biện pháp phòng, tránh, khắc phục các tác động tiêu cực".
Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Việt Nam thông qua vào tháng 12
năm 1993 có đưa ra khái niệm ĐTM như sau:
Page 20 of 82
"Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh
hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các
cơ sở sản xuất kinh doanh, công trình kinh tế khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hoá,
xã hội, an ninh quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích
hợp về bảo vệ môi trường".
Tác động môi trường là vấn đề cốt lõi của những sự quan tâm tới phát triển bền
vững. Đánh giá tác động môi trường là một công cụ giúp cho sự phòng ngừa và
ngăn chặn những ảnh hưởng tới môi trường trong chính sách môi trường và đây

là công cụ lồng ghép trong quá trình kế hoạch hoá về môi trường. Mục đích của
ĐTM là xem xét bao quát toàn diện và đánh giá những ảnh hưởng môi trường
tiềm năng của những dự án công cộng hay cá nhân đã được đề xuất trong lựa
chọn ưu tiên thực hiện. Một ĐTM cần phải được xem xét tât cả những ảnh
hưởng mong đợi đối với sức khoẻ con người, hệ sinh thái (bao gồm thực vật và
động vật), khí hậu và khí quyển. Một ĐTM cần phải đảm bảo rằng tất cả những
hậu quả cần phải được xem xét trong suốt quá trình thiết kế, thực hiện và vận
hành của dự án.
Tương tự, một ĐTM bao gồm những sự quan tâm của các đảng phái và tổ chức
(có nghĩa là cộng đồng địa phương, các nhà chính trị, các nhà đầu tư) và lồng
ghép những ảnh hưởng xã hội liên quan đến những giải pháp về giới hoặc liên
quan tới các nhóm xã hội đặc biệt trong các dự án (có nghĩa là tái định cư của
người dân bản địa vì sự thay đổi cảnh quan hoặc môi trường, vị trí khảo cổ học,
đài tưởng niệm).
Một ĐTM đòi hỏi phải ưu tiên cho những dự án là nguyên nhân của những thay
đổi đáng kể đối với nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh, sự thay đổi có ý
nghĩa đối với hoạt động thực tiễn của nghề đánh cá và nghề nông và xem xét tới
Page 21 of 82
khai thác tài nguyên thuỷ điện. Các dự án hạ tầng, hoạt động công nghiệp, các
dự án đổ bỏ và quản lý chất thải cũng cần một ĐTM.
Tất cả những hậu quả có hại tới môi trường cần phải được tính toán bằng biện
pháp giảm nhẹ, biện pháp bảo vệ môi trường hoặc thay thế. Những biện pháp
giảm nhẹ này thường được trình bày bằng một kế hoạch quản lý môi trường.
Một kết luận của ĐTM cần phải được xem xét lại, sau đó các nhà làm kế hoạch
dự án có thể thiết kế đề xuất dự án với mục tiêu tối thiểu hoá tác động tới môi
trường.
1.4.2. Vai trò và lợi ích của đánh giá tác động môi trường
Các dự án phát triển, ngoài việc mang lại các lợi ích kinh tế cho xã hội, còn gây
ra những tác động tiêu cực cho con người và tài nguyên thiên nhiên. Nhiều nước
trong quá trình phát triển thường quan tâm đến những lợi ích kinh tế trước mắt,

vì thế trong quá trình lập kế hoạch phát triển, công tác bảo vệ môi trường chưa
được quan tâm đến một cách đúng mức. Sự yếu kém của việc lập kế hoạch phát
triển đã gây ra tác động tiêu cực cho chính các hoạt động này của các nước. Việc
đầu tiên của công tác bảo vệ môi trường trong quá trình lập kế hoạch thực hiện
một dự án là triển khai đánh giá tác động môi trường. Vì vậy, cho đến nay hầu
hết các nước đã thực hiện đánh giá tác động môi trường để ngăn ngừa và giảm
thiểu các hậu quả tiêu cực và phát huy các kết quả tích cực về môi trường và xã
hội của các dự án phát triển.
Sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển đã góp phần xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân. Nếu có một kế hoạch phát triển hợp lý,
thì sức ép của sự phát triển sau này lên môi trường ngày càng ít hơn. Sự tăng
trưởng kinh tế, nếu không được quản lý một cách hợp lý có thể gây nên những
Page 22 of 82
ảnh hưởng tiêu cực, sự bền vững của hệ sinh thái và thậm chí của cả nền kinh tế
có thể bị phá vỡ.
Phát triển bền vững có mục đích gắn kết các nhu cầu về phát triển kinh tế xã hội
và bảo vệ môi trường để đạt được những mục tiêu sau:
Nâng cao mức sống của nhân dân trong một thời gian ngắn
Đạt được lợi ích thực sự, đảm bảo sự cân bằng giữa con người, tự nhiên và các
nguồn lợi kinh tế không những cho thế hệ hôm nay mà còn cho cả các thế hệ
mai sau.
Đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, hai đặc điểm chính quyết
định sự phát triển bền vững là:
Có hầu hết các hệ sinh thái năng suất cao và các vùng sinh thái nhạy cảm của thế
giới, đó là rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, hệ thống các đảo nhỏ, ….
Sự yếu kém trong quá trình phát triển vẫn còn là trở ngại chủ yếu tiếp tục gây
nên suy thoái môi trường.
Trong quá trình phát triển hiện nay, các vấn đề môi trường vẫn chưa được ưu
tiên đúng mức. Đông Nam Á đang đứng trước những thách thức về phát triển.
Nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo thông qua phát triển có xem xét đầy đủ các vấn

đề môi trường và xã hội là nhiệm vụ hết sức cấp bách và quan trọng. Những vấn
đề này bao gồm suy thoái đất, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, các khu dân cư
không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh môi trường cho một cuộc sống bình thường
(nhà ở, vệ sinh và cấp nước; không khí, đất và nước bị ô nhiễm ) và những vấn
đề quan trọng chung của toàn cầu như sự ấm lên của trái đất, suy thoái tầng
ozon, suy giảm đa dạng sinh học. Sức ép về dân số, sự lạc hậu về kinh tế xã hội
đã góp phần đưa môi trường đến tình trạng hiện nay. Để khắc phục tình trạng
Page 23 of 82
nêu trên, đánh giá tác động môi trường cần được sử dụng như một công cụ hữu
hiệu để góp phần quản lý môi trường và phát triển bền vững.
Đánh giá tác động môi trường có các lợi ích trực tiếp và gián tiếp. Đóng góp
trực tiếp của đánh giá tác động môi trường là mang lại những lợi ích môi
trường, như giúp chủ dự án hoàn thành thiết kế hoặc thay đổi vị trí của dự án.
Đóng góp gián tiếp có thể là những lợi ích môi trường do dự án tạo ra, như việc
xây dựng các đập thủy điện kéo theo sự phát triển của một số ngành (du lịch,
nuôi trồng hải sản). Triển khai quá trình đánh giá tác động môi trường càng sớm
vào chu trình dự án, lợi ích mang lại của nó càng nhiều.
Nhìn chung những lợi ích của đánh giá tác động môi trường bao gồm:
Hoàn thiện thiết kế và lựa chọn vị trí dự án
Cung cấp thông tin chuẩn xác cho việc ra quyết định
Tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình phát triển
Đưa dự án vào đúng bối cảnh môi trường và xã hội của nó
Gỉam bớt những thiệt hại môi trường
Làm cho dự án có hiệu quả hơn về mặt kinh tếxã hội
Đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững
1.4.3. Đánh giá tác động môi trường và chu trình dự án
Luật pháp của nhiều nước Châu Á yêu cầu thực hiện đánh giá tác động môi
trường đối với tất cả các dự án phát triển quan trọng. Tại nhiều nước, đánh giá
tác động môi trường là một phần nghiên cứu khả thi của dự án. Khi đã có hiệu
Page 24 of 82

lực, những quy định luật pháp về đánh giá tác động môi trường có ý nghĩa to
lớn, thúc đẩy sự phát triển bền vững. Một vấn đề khác liên quan đến đánh giá tác
động môi trường, đó là tài chính của dự án. Đánh giá tác động môi trường được
tiến hành bằng chính kinh phí của dự án. Một số các ngân hàng và các nhà đầu
tư khi thực hiện dự án không chú ý đến các tiêu chuẩn môi trường nên đã gặp rủi
ro trong đầu tư. Vì thế phải triển khai đồng bộ đánh giá môi trường vào các
bước khác nhau của chu trình dự án.
Chu trình dự án được khái quát theo 6 bước chính:
Hình thành dự án
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi
Thiết kế và công nghệ
Thực hiện
Gíam sát và đánh giá
Vai trò của đánh giá tác động môi trường trong các giai đoạn của chu trình dự án
cũng khác nhau. Các hoạt động đánh giá tác động môi trường được tiến hành
chủ yếu trong giai đoạn tiền khả thi, khả thi và thiết kế công nghệ, ít tập trung
hơn cho giai đoạn thực hiện, giám sát và đánh giá dự án.
Trong những giai đoạn đầu của chu trình dự án ứng với các bước nghiên cứu
tiền khả thi, đánh giá tác động môi trường tập trung vào việc đánh giá lựa chọn
vị trí thực hiện dự án. Sàng lọc môi trường của dự án, xác định phạm vi tác động
môi trường của dự án. Tiếp theo, trong bước nghiên cứu khả thi thực hiện đánh
Page 25 of 82

×