1
MỞ ĐẦU
Việt Nam cho đến nay về cơ bản vẫn là một nước nơng nghiệp, dẫu đang
trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng XHCN
thì nơng nghiệp vẫn đã, đang và sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân và trong việc góp phần cải thiện đời sống nhân dân cả nước. Trong bối
cảnh ấy thì ruộng đất ln ln là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu, nó là tư liệu sản xuất chủ yếu nhất đóng góp vào q trình sản xuất lương
thực thực phẩm khơng những ni sống xã hội mà còn là nguồn hàng xuất khẩu
có giá trị. Hiện nay nước ta đang đứng thứ ba về xuất khẩu gạo trên thế giới, sản
phẩm của chúng ta đã có mặt trên hầu khắp các quốc gia. Do vậy, nghiên cứu về
ruộng đất ln là một đề tài nổi cộm có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Nền văn minh
nơng nghiệp lúa nước đã tồn tại trên mảnh đất này hàng nghìn năm kê từ khi lồi
người xuất hiện. Trong tiến trình của lịch sử nó khơng bao giờ tách rời với đời
sống của nhân dân nói chung và ruộng đất vốn dĩ là một hình thức bóc lột của
triêù đình phong kiến đối với nơng dân nghèo. Q trình ấy đã kéo lùi lịch sử
xuống hàng trăm năm để đến ngày nay nước ta vẫn lã một nước nghèo so với thế
giới.
Dọc theo chiều dài của lịch sử dân tộc ta từ thời kỳ dựng nước vấn đề
ruộng đất đã được nhiều sử gia đặc biệt quan tâm. Vào đầu thế kỷ XIX sở hữu
ruộng đất ở nước ta gồm ba loại: Sở hữu Nhà nước, sở hữu ruộng đất cơng làng
xã và sở hữu tư nhân. Trong bài viết này tơi chỉ xin đi sâu hơn vào một bộ phận
ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân ở nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn. Đây là
một loại hình đã phát triển cực thịnh cả về chất lượng và số lượng từ đầu thế kỷ
XVIII. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân về ruộng đất là thuộc
tính của chế độ phong kiến. Sự mở rộng sở hữu lớn của tư nhân về ruộng đất là
bản chất, là chỉ tiêu đánh giá tính điển hình của phương thức sản xuất phong
kiến. Sở hữu ruộng đất nói chung có hai bộ phận: Sở hữu địa chủ lớn, nhỏ và sở
hữu nhỏ của nơng dân tự canh. Cùng với nhiều ngun nhân khác nữa, trong lúc
quyền tư hữu ruộng đất nói chung phát triển thì bộ phận thứ nhất nói trên đã có
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
2
xu thế mạnh hơn, tạo nên nạn kiêm tính ruộng đất trầm trọng gây ra sự phá sản
củ nơng dân nghèo và hạng trung.
Muốn hiểu rõ tình hình sở hữu ruộng đất tư nhân nửa đầu thế kỷ XIX,
thấy rõ được xu thế phát triển của nó trong lịch sử trước hết ta cần hiểu một cách
khái qt về những đặc điểm của loại hình này vào cuối thế kỷ XVIII. Bên cạnh
đó chúng ta cũng cần hiểu được về loại hình sở hữu cơng làng xã để từ đó có sự
so sánh khách quan và trung thực nhất, thấy được ưu thế cũng như hạn chế của
mỗi loại hình sở hữu ruộng đất ấy trong lịch sử.
Cho đến thế kỷ XVIII, trong khi đại đa số nhân dân u cầu quyền tư hữu
nhỏ về ruộng đất thì quyền sở hữu địa chủ dần dần trở nên lỗi thời và bị đặt
trước nguy cơ bế tắc. Hồn cảnh này đòi hỏi được giải quyết bằng sự nảy sinh
và phát triển các nhân tố quan hệ tư bản chủ nghĩa. Nhà nước phong kiến lúc
này chỉ có thể hành động theo một hướng: hạn chế bớt sự phát triển của sở hữu
địa chủ để kéo dài tuổi thọ của nó. Điều này dẫn đến quyền sở hữu tư nhân nói
chung về ruộng đất lại bị quy định lại ở điều kiện thuế lệ. Kể từ năm 1722 ruộng
đất tư hữu nói chung lại bị đánh thuế. Sự phát triển đến cao độ của sở hữu tư
nhân với sự phân hố hai cực ở thế kỷ XVIII là đặc điểm của thế kỷ này. Nó là
một trong những ngun nhân chính gây nên tình trạng nơng dân lưu tán và một
cao trào khởi nghĩa nơng dân rầm rộ báo hiệu lịch sử đã bắt đầu chất vấn lý do
tồn tại của chế độ phong kiến.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
3
I. Thiết chế pháp lý của ruộng đất tư hữu
Bất kể một loại hình sở hữu ruộng đất nào trong lịch sử, muốn tồn tại và
phát triển đều cần phải có những thiết chế pháp lý cần thiết của nó. Loại hình
ruộng đất tư hữu này cũng khơng nằm ngồi quy luật nói trên. Dưới sự cai trị
của triều đình phong kiến nhà Nguyễn mở đầu là Gia Long, hàng loạt các thiết
chế đã được ban hành nhằm quy định rõ những loại ruộng chủ yếu của loại hình
sở hữu tư nhân này đồng thời đặt ra những ngun tắc chung, những quy định
trong cơng cuộc khai hoang ruộng đất.
Các loại ruộng đất tư hữu thời kỳ này bao gồm:
* Loại bản thơn điền thổ của các xã thơn: Loại ruộng này làng xã có
quyền mua bán và tồn quyền quản lý sử dụng. Nhà nước coi là ruộng tư của xã
thơn và do đó thu thuế loại ruộng này theo thuế lệ ruộng đất tư. Như vậy nó
thuộc quyền sở hữu thực sự và dứt khốt của làng xã và nó tồn tại đến tận những
năm 50 của thế kỷ XX. Sử dụng loại ruộng này bằng cách có thể được đem chia
như cơng điền, hay được dùng như các loại ruộng tế lễ, hoặc đem phát canh thu
tơ nhẹ giống như các ruộng tư nhân, thậm chí đem bán đi.
* Các loại ruộng phe, giáp nếu được mua tậu từ ruộng tư , ruộng hậu,
ruộng hương hoả, ruộng giỗ.
Ruộng hậu, ruộng hương hoả, ruộng giỗ là ruộng của tư nhân giao cho
một đồn thể theo những điều kiện nhất định đó đạt một mục đích nhất định .
Ruộng phe, ruộng giáp hay ruộng hậu ... là ruộng tư của các đồn thể ấy,
chỉ đồn thể ấy mới có quyền sử dụng mà thơi.
Đây thực sự là một quan điểm rõ ràng, quan niệm quan phương, chính
thống có tính chất pháp chế của Nhà nước phong kiến.
Ruộng phe, ruộng giáp hoặc do vua tậu hoặc do làng trích cơng điền mà
cấp cho. Đó là hai bộ phận: một nằm trong cơng điền, một nằm trong ruộng tư.
Ruộng hậu: là loại ruộng của các tư nhân cúng cho giáp, cho họ hay cho
làng sau khi chết mà khơng có người nối dõi, để mong làng cúng lễ hương khói
cho.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
4
Ruộng hương hoả hay ruộng giỗ cũng là loại ruộng tư được chuyển
nhượng lại cho con cháu người sở hữu đã chết. Số ruộng này thường giao cho
người con trưởng quản nhận để chi phí vào việc giỗ tết. Nó cũng có thể được
đem bán.
Ruộng chùa hoặc ruộng tam bảo: có nguồn gốc từ tư điền, ra đời khi đã có
các chùa. Nó phát triển nhất vào thời Lý - Trần thế kỷ X - XIV. Loại ruộng này
thuộc quyền sở hữu của nhà chùa, nhà chùa có thể bán đi để chi tiêu vào việc
trùng tu hay những việc khác của nhà chùa.
Nhìn chung, tất cả các loại ruộng kể trên đều nộp thuế cho Nhà nước theo
thể lệ ruộng tư, về nguồn gốc vốn dĩ là ruộng tư .
Ruộng tư điền trong tay các cá nhân chịu thuế theo lệ ruộng đất tư và
được xác nhận bằng giấy tờ sổ sách của làng hay các loại văn tự, văn khế.
Trong thế kỷ XIX ruộng đất tư hữu với tư cách là sản phẩm khách quan
của lịch sử khơng thể bị xố bỏ trước chính sách cơng điền. Trái lại nó vẫn có
sức sống của nó, vẫn duy trì, thậm chí phát triển. Nhà Nguyễn vẫn phải mở một
con đường hợp pháp cho ruộng đất tư hữu, hay nói đúng hơn cho địa chủ lớn -
nhỏ được phát triển.
Bên cạnh việc ra những thiết chế quy định các loại ruộng thuộc sở hữu tư
nhân, nhà Nguyễn còn đặt ra những ngun tắc chung: Trong cơng cuộc khai
hoang, một cơng việc hết sức khẩn thiết ở thế kỷ này, người bỏ cơng khai phá có
thể được từ nửa tới tồn bộ diện tích đã khai phá nhận làm ruộng đất tư hữu.
Năm 1831 quyết định: Quan lại các cấp khắp nơi trong nước đều phải sức cho
tồn dân và binh lính, bất kể chính hộ hay khách hộ, hãy làm đơn trình xin khai
khẩn cây trồng theo thổ ngơi thích hợp, tất cả những chỗ đất nào còn hoang, dù
đất đó trước là cơng hay tư, ai xin lĩnh trưng trước thì được. Sau 3 năm tính từ
ngày nộp đơn xin, các quan sở tại kiểm tra trực tình làm tờ trình lên trình tỉnh. 3
năm tiếp theo nữa, đối với các ruộng đất trồng lúa, ngơ, đậu, vừng thì khơng kể
trước đó là cơng hay tư đều cho người khai khẩn nhận làm của riêng cho theo
hạng ruộng đất tư bắt đầu thu thuế để tỏ là kích thích.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
5
Quyt nh ny ln u tiờn m ra mt con ng phỏt trin vụ cựng rng
rói v thun li cho rung t t hu . õy thc s l mt quyn t do.
Trờn phng din ton quc cũn cú mt quyt nh khỏc cho phộp lp
rung t t i vi mt loi ngi c bit tc cỏc phm nhõn.
Nhng quyt nh trờn õy m phm vi hiu lc ca nú tri rng trờn ton
quc, to iu kin thun li ln cho s phỏt trin s hu t nhõn v rung t
k c s hu a ch. Ngoi ra cũn mt s quyt nh khỏc nu cú tỏc dng i
vi tng ni c th.
Vớ d: Bc K nm 1822 Nguyn Cụng Tr xin m dõn cp cho lm
rung khai hoang ti Nam nh , sau ba nm thnh rung chiu l rung t
ỏnh thu . Nm 1835, Minh Mnh li bng lũng cho ụng sai cỏc m binh i
khai hoang xó Minh Huyn - Hi Dng khi thnh rung thỡ cp cho lm
rung th nghip, theo l rung t trng thu.
Nam K, s hu t nhõn phỏt trin t lõu mt cỏch t do. n nm 1837
triu Nguyn mi ỏp dng ch cụng in cụng th. Sau 1837 li cú thờm mt
s quyt nh cho phộp lp rung t t mt s ni. Nm 1852 triu Nguyn
cho tt c cỏc tự phm ht hn tr xung khp 6 tnh Nam K cho i khai
hoang, s khai khn c bao nhiờu cho lm th nghip.
Kt hp nhng quyờt nh trờn ton quc v cỏc a phng ta thy rừ
trờn nguyờn tc quyn s hu t nhõn v rung t bao gm c s hu a ch
ln nh v t hu nh ca nụng dõn, c hỡnh thnh v phỏt trin tng i t
do v nhiu thun li. Hin tng ny m u t nhng nm 20 v 30 ca th k
XIX.
T nm 1802 n 1827, rung t v rung cụng u c min thu v
ng tin theo mt mc ngang nhau. Rung t t núi chung ch c nhỡn
nhn ỳng mc trong trng hp u ói, trong khi rung cụng lng xó li c
nhỡn nhn ỳng mc v vt mc , tu theo hoc trng hp bỡnh thng hoc
trng hp u ói.
T nm 1827 v sau rung t t c nhỡn nhn quyn s hu rừ rt v
cao hn rung t cụng. Song mc nhỡn nhn cú chiu hng gim bt i.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
6
Thit ch phỏp lý ca rung t t hu vỡ th mang thờm mt tớnh cht hai mt
na, ú l tớnh cht va c nhỡn nhn li va khụng c nhỡn nhn hay c
nhỡn nhn mc thp hn mc ỏng c cú.
Nhỡn chung, ngi ta ó thy thit ch phỏp lý ca rung t t hu bao
hm trc ht l phớa m rng phỏt trin v khng nh. Sau ú l phớa lng
phõn hai mt. Cũn mt phớa na l ph nhn:
Ngi dõn d dng cú quyn s hu t nhõn v rung t nhng ng
thi h cng d dng mt ht quyn ú. õy l c im ca ch rung t t
hu na u th k XIX. Vic mt quyn s hu núi chung cú hai dng: tm
thi v vnh vin. Tm thi l nhng trng hp ngi dõn lu tỏn i xa. Vnh
vin l trng hp ngi dõn lu tỏn khỏ lõu, rung c xung vo rung cụng
vỡ khụng mun rung t ngh ngi khi dõn chỳng liờn tc cht úi. Nhng ch
yu l vỡ nh Nguyn cũn nhiu thu cho cỏc khon chi tiờu ngy cng bi lờn
va tin hng cỏc cuc n ỏp v nuụi dng b mỏy quan liờu, va tha
món nhng yờu cu xa x ti t.
Triu i Tõy Sn cú tch thu mt s rung t ca bn a ch lm
quan tri v rung ng li. Sang th k XIX, Gia Long khụi phc li quyn s
hu rung t ny tr v bn y. Nhng n 1802, ch rung khụng tr v nhn
thỡ Nh nc sung cụng, gp vo rung cụng ca xó thụn s ti.
Ch rung khụng lu tỏn, vn lin vi rung t ca h nhng vỡ lý do
no ú khụng tip tc cy cy c na m nh b hoang thỡ Nh nc sung
cụng.
Nu ch rung n lu khụng chu np thu rung cho Nh nc thỡ rung
t b tch thu. õy cng l mt l chung cho tt c cỏc ch rung trờn ton
quc.
Trng hp tc ot quyn s hu t nhõn v rung t mt cỏnh thng
tay, khụng hp hin, xut phỏt t quyn uy ti cao ca vua trong ch quõn
ch chuyờn ch cc oan. Vic ny cú nhng lý do c th song nú u nm
ngoi hai gii gn v quyn t hu rung t.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
7
Tt c nhng trng hp mt quyn s hu t nhõn v rung t k trờn
chng t rng quyn t hu rung t vn cú th b Nh nc tc ot trong
mt s iu kin nht nh.
Nh vy quyn t hu rung t c gii hn hai iu kin cú tớnh tiờu
chun: quyn t do mua bỏn v ngha v np thu cho Nh nc. Quyn t hu
ny trong mt vi trng hp cỏ bit phi phc tựng quyn vụ thng ca vua.
Thit ch phỏp lý, quyn t hu rung t bao gm hai mt: c tha
nhn, m rng, xỏc lp, khng nh, ng thi cũn b coi nh, xõm phm v tc
ot.
II. Thu tụ rung t t hu
Vit Nam th k XIX, tụ v thu cú phõn bit nhau nhng s phõn bit
ú khụng hon ton trit , bi vy bt k hỡnh thc tụ no cng mang tớnh
cht thu v ngc li bt k hỡnh thc thu rung no cng mang tớnh cht tụ.
u th k XIX c bit chỳ ý ti vai trũ ca tụ thu rung i vi quyn
s hu. Trong thu rung t cú tớnh cht tụ chng mc nht nh.
Di thi Gia Long, thu tụ rung t t cng c chia ra 4 khu vc nh
rung t cụng. Khu vc I gm cỏc ph t Qung Bỡnh n Diờn Khỏnh, khu
vc II t Ngh An n Phng Thiờn, khu vc III gm 6 trn Yờn Qung, Hng
Húa, Thỏi Nguyờn, Lng Sn, Tuyờn Quang, Cao Bng, khu vc IV t Bỡnh
Thun tr vo. Mc thu tụ theo con s tuyt i ca rung t gim dn t Nam
ra Bc. Trỏi li mc chờnh lch ca thu tụ rung t so vi tụ thu rung cụng
li tng lờn t Nam ra Bc.
Ngoi ra cú quy nh v thu tụ ca nhng rung t vng ch m ngi
khỏc ó tm cy cy. iu ny phn ỏnh tõm lý hi h v vột thu tụ sao cho
nhiu, cho nhanh, m cũn chng t s can thip ca Nh nc vỏo quen t hu
rung t.
Di thi Minh Mnh (1820 - 1840) cú hai s kin ỏng lu ý: th nht l
do cuc o c rung t Nam K ln u tiờn c thc hin v hon thnh
nm 1836. Th hai l vic sỏp nhp khu vc III thi Gia Long vo khu vc II
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN