Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Vận dụng hướng dẫn của OECD về nguyên tắc quản trị doanh nghiệp trong các tập đoàn kinh tế nhà nước tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.35 KB, 77 trang )

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
OECD là tên viết tắt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development), thành lập năm 1961.
Với mục tiêu thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế thị trường, mở rộng thương
mại tự do và góp phần phát triển kinh tế ở các nước công nghiệp.
Năm 2004, OECD ban hành tài liệu hướng dẫn về 6 nguyên tắc quản trị công
ty. Dựa trên các nguyên tắc QTDN do OECD hướng dẫn, hệ thống các quy định
về quản trị doanh nghiệp được đề cập tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật; bao
gồm các Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trước thực tế những vụ bê bối của những doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
trong những năm trờ lại đây như Vinashin năm 2010 làm thất thoát 84.000 tỷ đồng
hay việc làm ăn thua lỗ của Vinalines triền miên phần lớn xuất từ việc thực hiện
quản trị doanh nghiệp không tốt. Một câu hỏi được đặt ra là” Các tập đoàn kinh tế
nhà nước đã và đang thực hiện bộ quản trị doanh nghiệp của OECD như thế
nào?”
Thực tế, do sự khác biệt về cơ cấu tổ chức và chức năng của các tập đoàn
kinh tế nhà nước so với các doanh nghiệp khác mà bộ nguyên tắc quản trị doanh
nghiệp do OECD ban hành còn gặp nhiều khó khăn khi áp dụng tại các tập đoàn
kinh tế nhà nước. Mặt khác việc công bố thông tin về tài chính, cơ cấu quản lý, cơ
cấu quản trị, chính sách thù lao của các tập đoàn kinh tế nhà nước thường hạn chế
nhằm mục đích giữ uy tín cho nhà nước. Vì vậy với mục đích làm minh bạch các
thông tin về tập đoàn kinh tế nhà nước việc tìm hiểu, nghiên cứu quá trình áp dụng
bộ quản trị doanh nghiệp của OECD có tính mạnh dạn và cần thiết không chỉ đối
với các doanh nghiệp khác trong thị trường mà còn tạo niềm tin đối với người dân.
2. Lý do chọn đề tài.
Gần 30 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo cơ chế nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đã và
đang gặt hái được những thành tựu đáng kể. Mặt khác, trong quá trình hội nhập


kinh tế quốc tế và gần nhất là khối thị trường chung ASEAN vào cuối năm 2015
đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam một thách thức lớn là cần phải đổi mới toàn
diện nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Nhất là với một nền kinh tế thị trường
như Việt Nam với nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo thì doanh nghiệp nhà nước càng phải là khối tiên phong trong hoạt
động đổi mới bộ máy quản trị nhằm nâng cao chất lượng quản trị trong doanh
2
nghiệp tạo niềm tin không chỉ cho Nhà nước mà còn thúc đẩy các thành phần kinh
tế khác phát triển.
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế nhà
nước, đại diện cho khối doanh nghiệp nhà nước là các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước
(TĐKTNN) như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam v.v Ngoài mục tiêu kinh tế là phát triển và bảo toàn
vốn nhà nước, doanh nghiệp nhà nước còn phải hoàn thành mục tiêu xã hội là tạo
động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế.
Xuất phát từ chính vai trò của các TĐKTNN như vậy, Đảng và nhà nước đã
có những sự đổi mới tích cực thông qua các đề án thay đổi như: Đề án đổi mới
quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường, Đề án tái cơ cấu các
TĐKTNN v.v Để đảm bảo việc thực hiện các đề án nêu trên và nâng cao hiệu
quả hoạt động các TĐKTNN, đề tài"Vận dụng hướng dẫn của OECD về nguyên
tắc quản trị doanh nghiệp trong các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước tại Việt Nam"
là rất thiêt thực.
Như vậy, đề tài “Vận dụng hướng dẫn của OECD về nguyên tắc quản trị
doanh nghiệp trong các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước tại Việt Nam” sẽ phân tích,
làm rõ hơn về mức độ áp dụng bộ nguyên tắc của tổ chức OECD hiện nay để từ đó
đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Vận dụng bộ nguyên tắc QTDN của OECD đối với tập đoàn kinh tế nhà
nước tại VN.Từ đó, đề xuất các biện pháp đảm bảo tính khoa học nhằm nâng cao
chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp trong các TĐKTNN tại Việt Nam.

Đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư,
tổ chức tín dụng, hoàn thành các nhiệm vụ Đảng, Chính phủ đã giao cho các
TĐKTNN.
4. Đối tượng nghiên cứu- Phạm vi nghiên cứu.
- Bộ nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD.
- Tập đoàn kinh tế nhà nước ( vấn đề quản trị doanh nghiệp trong tập đoàn kinh tế
nhà nước).
5. Kết cấu của báo cáo
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của đề tài bao gồm 3 chương được kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận về doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp
trong nền kinht é thị trường
3
Chương 2: Giới thiệu bộ nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD
Chương 3: Giải pháp tăng cường và vận dụng nguyên tắc quản trị doanh
nghiệp của OECD trong các Tập đoàn kinh tế Nhà nước tại Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN
TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Lý luận chung về doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp
- Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài
chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng,
tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng,
thông qua đó tối đa hóa lợi của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các
mục tiêu xã hội.
+Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân. Tư
cách pháp nhân của một doanh nghiệp là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại
của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nó do Nhà nước khẳng định và xác
định. Việc khẳng định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp với tư cách là một
thực thể kinh tế, một mặt nó được nhà nước bảo hộ với các hoạt động sản xuất

kinh doanh, mặt khác nó phải có trách nhiệm đối với người tiêu dùng, nghĩa vụ
đóng góp với nhà nước, trách nhiệm đối với xã hội. Đòi hỏi doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ
khi phá sản hay giải thể.
+Doanh nghiệp là một tổ chức sống trong một thể sống (nền kinh tế quốc
dân) gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại.
+Doanh nghiệp là một tổ chức sống vì lẽ nó có quá trình hình thành từ một ý
chí và bản lĩnh của người sáng lập (tư nhân, tập thể hay Nhà nước); quá trình phát
triển thậm chí có khi tiêu vong, phá sản hoặc bị một doanh nghiệp khác thôn tính.
Vì vậy cuộc sống của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quản lý của
những người tạo ra nó.
+Doanh nghiệp ra đời và tồn tại luôn luôn gắn liền với một vị trí của một địa
phương nhất định, sự phát triển cũng như suy giảm của nó ảnh hưởng đến địa
phương đó.
- Quản trị là quá trình tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản trị lên
đối tượng quản trị nhằm sử dụng hiểu quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức
để đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Quản trị doanh nghiệp là một khái niệm được sử dụng ở tất cả các nước
trên thế giới, và mỗi nước có một chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tuy nhiên
quản trị được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển từ chế độ chiếm hữu
nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và tiếp tục phát triển như ngày
nay. Quản trị doanh nghiệp: là tổng hợp những hoạt động được thực hiện nhằm
đạt được những mục tiêu xác định thông qua sự lỗ lực (sự thực hiện) của những
người khác trong doanh nghiệp.Quản trị doanh nghiệp là một khoa học, đồng thời
5
cũng là một nghệ thuật liên quan đến việc phân bố và sử dụng các nguồn nhân lực
( nhân lực, tài lực, vật lực) theo các chương trình kinh doanh trong những điều
kiện môi trường xác định nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
1.2. Nguyên tắc quản trị doanh nghiệp.
1.2.1. Các khái niệm:

- Nguyên tắc là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn đòi hỏi chủ thể và chủ thể
phải tuân thủ và làm theo.
- Các nguyên tắc quản trị là các quy luật chỉ đạo, là tiêu chuẩn hành vi mà các nhà
qurn lý, người chủ doanh nghiệp phải tuân thủ trong quá trình hoạt động kinh
doanh.
- Yêu cầu của nguyên tắc quản trị:
• Phù hợp với mục tiêu quản trị.
• Phản ánh đúng tính chất về quan hệ quản trị.
• Đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải đảm bảo bằng tính kỷ luật của tổ
chức.
1.2.2. Các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp
a) Tuân thủ luật pháp và thông lệ kinh doanh
Luật pháp là những ràng buộc của Nhà nước, và các cơ quan quản lý vĩ mô
đối với mọi người theo định hướng của sự phát triển xã hội. Nếu chủ doanh nghiệp
vi phạm sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính và kinh tế mà bất kỳ người chủ
doanh nghiệp nào cũng phải né tránh để không bị xử lý. Đây còn là các thông lệ
kinh doanh của xã hội mang tính bắt buộc mà các chủ thể kinh doanh phải biết và
chấp hành. Ngoài việc tuân thủ những quy định của pháp luật về hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp còn phải kinh doanh cho phù hợp với thông lệ của xã hội.
b) Phải xuất phát từ khách hàng
Kết quả cuối cùng của kinh doanh theo cơ chế thị trường, tuỳ thuộc gần như
quyết định vào người mua; mọi chủ doanh nghiệp phải tạo cho mình một khối
lượng khách hàng cần có để tồn tại và phát triển. Chính nó là căn cứ để hình thành
chiến lược marketing của mỗi doanh nghiệp (bao gồm cả 5 nội dung: sản phẩm
(Product), giá cả (Price), phân bố (Place), chiêu thị (Promotion) và nguồn vốn
(Purse) và các nội dung quản lý của doanh nghiệp (vốn, lao động, công nghệ, thị
trường, phương văn hoá doanh nghiệp v.v ).
c) Hiệu quả và hiện thực
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tính toán và hoạt động của doanh nghiệp phải
đạt được các mục tiêu đề ra một cách thiết thực và an toàn, thể hiện ở các chỉ tiêu

hiệu quả kinh tế cao.
Trong công thức: E= Max
E=
Ghi chú
e: Hiệu quả so sánh (tương đối)
6
E: Hiệu quả tuyệt đối (chung)
K: Là kết quả lợi nhuận bình quân thu được mỗi năm.
C: Là chi phí bỏ ra ban đầu cho xây dựng doanh nghiệp.
Ci: Là chi phí bổ sung năm i
Ki: Là lợi nhuận thu được năm i.
n: Là số năm khai thác, sử dụng doanh nghiệp (trong một chu kỳ tồn tại và
hoạt động).
Các đơn vị tiền tệ được tính quy đổi cùng một đơn vị (thứ nguyên) theo kỹ
thuật "hiện tại hoá vốn". Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải hạn
chế được tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp.
Kinh doanh là mạo hiểm. Có rất nhiều rủi ro ở phía trước. Đôi khi có những
thiệt hại có thể dẫn đến phá sản một doanh nghiệp.
Vì vậy thông thường, để an toàn trong công việc kinh doanh của mình, các
chủ doanh nghiệp đều nhờ đến các công ty bảo hiểm thông qua những hợp đồng
bảo hiểm sẽ bồi thường thiệt hại, tuỳ theo loại hợp đồng bảo hiểm mà doanh
nghiệp đã đăng ký với họ.
Trong lĩnh vực bảo hiểm kinh doanh có nhiều thủ tục khá phức tạp và
chuyên môn hoá - đó là một ngành mới, đặc biệt là chuyên sâu, cần được nghiên
cứu tỉ mỉ. Thông qua các hợp đồng bảo hiểm - đó là một sự thoả thuận giữa người
bảo hiểm với người được bảo hiểm thông qua một văn bản hợp đồng hoặc một
giấy bảo hiểm, mà chủ doanh nghiệp có độ an toàn chống lại rủi ro trong quá trình
kinh doanh.
d) Chuyên môn hoá
Là nguyên tắc đòi hỏi việc quản lý các doanh nghiệp phải sử dụng những

người có chuyên môn, được đào tạo, có kinh nghiệm và tay nghề theo đúng vị trí
trong guồng máy sản xuất và quản lý của doanh nghiệp thực hiện. Đây là cơ sở
của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Một mặt những người
hoạt động trong guồng máy doanh nghiệp phải nắm vững chuyên môn nghề
nghiệp ở vị trí công tác của mình, mặt khác họ phải ý thức được mối quan hệ của
họ với những người khác và bộ phận khác thuộc guồng máy chung của doanh
nghiệp.
e) Kết hợp hài hoà các loại lợi ích
Đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải xử lý thoả đáng mối quan hệ biện chứng hữu
cơ giữa các lợi ích có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, bao
gồm:
- Lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp, phải bảo đảm đủ động lực
cho họ sống và làm việc; nhờ đó gắn bó họ một cách văn minh và chặt chẽ trong
doanh nghiệp.
7
- Lợi ích của khách hàng, đó là những người mua sản phẩm của doanh
nghiệp cùng với các yêu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp và cách phục vụ của
doanh nghiệp.
- Lợi ích của nhà nước và xã hội, đó là nghĩa vụ về thuế và các ràng buộc
pháp luật khác mà doanh nghiệp phải thực hiện là các thông lệ xã hội (môi sinh,
môi trường, nghĩa vụ cộng đồng v.v ) mà doanh nghiệp phải tuân thủ.
- Lợi ích của các bạn hàng, đó là những cá nhân và đơn vị tham gia cung ứng
một phần hoặc toàn bộ các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Họ phải được giải
quyết thoả đáng các lợi ích của mình khi thực hiện mối quan hệ làm ăn với doanh
nghiệp, nếu không họ sẽ cắt quan hệ với doanh nghiệp để quan hệ với các doanh
nghiệp khác.
f) Luôn luôn bị giám sát, biết dấu ý đồ
Đó là nguyên tắc đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn biến dấu kín ý đồ và
tiềm năng kinh doanh của mình. Một mặt do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp phải phòng ngừa đối thủ, mọi sự phô trương hãnh tiến,

mọi ý đồ quá ngạo mạn đều là những cái đích để các đối thủ phòng ngừa đối phó.
Mặt khác do bệnh nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm
soát của nhà nước trước mọi sự thành đạt đột biến của các doanh nghiệp, họ
thường tìm tới để xác minh và xử lý nếu có các vi phạm về luật pháp. Quá trình
kinh doanh là quá trình phát triển và tiến tới chiếm lĩnh thị trường, điều này đòi
hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp sáng tạo độc đáo nhất cho sự thành
đạt của mình, đó cũng là quá trình bị các đối thủ cạnh tranh và các cơ quan luật
pháp giám sát, và vì thế các doanh nghiệp phải biết che giấu ý đồ cũng như tiềm
năng của mình một cách có lợi nhất.
g) Biết tận dụng thời cơ và môi trường kinh doanh
Mọi doanh nghiệp dù có quy mô và tiềm năng lớn tới đâu đều có những mặt
hạn chế và có các điểm yếu nhất định; để khắc phục các tồn tại này, đòi hỏi các
chủ doanh nghiệp phải nắm vững nguyên tắc biết tận dụng thời cơ và môi trường
kinh doanh để giành lấy các thành quả to lớn và đột biến. Phải biết khai thác thông
tin có lợi từ mọi nguồn, đặc biệt là thông tin về công nghệ mới, sự biến động trong
chính sách quản lý mà doanh nghiệp phải gánh chịu do các nhà chức trách dự định
đưa ra để kịp thời xử lý thoả đáng. Đây là mối quan hệ giữa thế và lực của doanh
nghiệp. Lực là tiềm năng của doanh nghiệp còn thế là mối quan hệ của doanh
nghiệp trong môi trường kinh doanh thông qua các con người nằm ngoài doanh
nghiệp mà doanh nghiệp có quan hệ tốt để sử dụng và khai thác.
1.3.
1.4. Đặc điểm của nguyên tắc quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
8
- Các nguyên tắc này không mang tính bắt buộc, nó chỉ mang tính tham khảo, giúp
các doanh nghiệp xác định được mục tiêu để đạt được chúng.
- Khó có thể dung hòa lợi ích các bên. Quan hệ của người lao động và người quản
lý , người sử dụng lao động là quan hệ bình đẳng, đôi bên cùng có lợi và được
điều chỉnh theo pháp luật hiện hành. Nguyên tắc quản trị đã chỉ ra điều này: “ Phải
hài hòa mọi lợi ích”. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi quyền lợi của mỗi bên bị ảnh

hưởng. Để có thể làm hài hòa mối quan hệ này chỉ có cách các bên cùng nhau đối
thoại để tháo gỡ vướng mắc.
- Các doanh nghiệp thường không thực hiện được nguyên tắc “ Tuân thủ pháp luật
và thong lệ kinh doanh” bởi vì luật pháp có hai điểm yếu kém:
+ Nó không thể hoàn thiện và không có tính cập nhật.
+ Đội ngũ các nhà hành pháp thường có không ít người xấu họ sẵn sàng vi
phạm luật pháp để kiếm lời ích kỷ; mà chủ doanh nghiệp với động cơ trục lợi có
thể cấu kết với họ để làm giàu bất chính cho mình.
- Nguyên tắc “ Phải xuất phát từ khách hàng” cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm
vững vòng đời của mỗi sản phẩm để luôn luôn đổi mới chiến lược sản phẩm thích
nghi được với thị trường luôn biến động.
1.5. Cơ chế kinh tế thị trường có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực gì đối với
các nguyên tắc này
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên th ị tr ường) thì n
ền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền
kinh tế - xã hội, trong đó các quan h ệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp
đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư
xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của
chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. - Kinh tế thị trường là kinh tế
hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình
tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài
nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các
sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối t ượng mua - bán và hàng hoá
a) Ảnh hưởng tích cực
- Cơ chế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, nâng cao tổng công lợi xã
hội, tạo điều kiện cho sự phát triển con người về mọi mặt.
- Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn
đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức

quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã h ội, tạo ra sự dư thừa
hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
9
- Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách
để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất
bại để không ngừng phát triển. Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các
nhà quản lý kém hiệu quả. Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do,
dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
b) Ảnh hưởng tiêu cực
- Kinh doanh theo cơ chế thị trường ngày nay, kết quả cuối cùng tùy thuộc
gần như quyết định vào người mua, mọi chủ doanh nghiệp phải tạo cho mình một
khối lượng khách hàng cần có để tồn tại và phát triển. Tức là phải phụ thuộc vào
khách hàng.
- Đòi hỏi điều kiện phải nắm vững vòng đời của mỗi sản phẩm để luôn luôn
đổi mới chiến lược sản phẩm, thích nghi được với thị trường luôn biến động.
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán,
không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không
có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng”
(đường xá, các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít,
nghèo nhiều, bất công xã hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể
mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã
hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm
bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu
quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc
phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan
trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm
chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuât thông

qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.
1.5. Các nhân tố tác động tới quá trình hình thành nguyên tắc quản trị doanh
nghiệp
1.5.1. Các yếu tố tác động
• Môi trường vĩ mô
- Môi trường nhân khẩu
- Môi trường kinh tế
- Môi trường tự nhiên
- Môi trường khoa học - kĩ thuật
- Môi trường chính trị - pháp luật
- Môi trường văn hóa
• Môi trường vi mô
- Môi trường nội tại của doanh nghiệp
10
- Khách hàng
- Nhà cung ứng
- Công chúng trực tiếp
- Đối thủ cạnh tranh
1.5.2. Phân tích sự tác động của các nhân tố tới nguyên tắc
• Môi trường vĩ mô
- Môi trường nhân khẩu:là bao gồm các yếu tố như quy mô dân số, mật độ dân số,
tuổi tác, giới tính, chủng tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp,…Vì đây là nhân tố
tác động trực tiếp đến con người và con người cũng là tác nhân tạo ra thị trường.
- Môi trường kinh tế: là những yếu tố tác động đến khả năng chi tiêu của khách
hàng, sử dụng những mặt hàng khác biệt.Môi trường kinh tế đống vai trò quan
trọng trong sự vận động và phát triển thị trường. Tốc độ tang trưởng kinh tế , tỷ lệ
lạm phát, lái suất ngân hàng, thu nhapk bình quân đầu người…ảnh hưởng đến sức
mua, cơ cấu tiêu dung từ đó điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên bao gồm khí hậu, vị trí địa lý, cảnh

quan thiên nhiên, đất đai, song biển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên , là những
nhân tố đầu vào cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp, những biến đổi trong
môi trường đều có ảnh hưởng đến hàng hóa mà công ty sản xuất và đưa ra thị
trương. Đây là yếu tố vừa tạo nên những điều kiện thuận lợi vừa đưa lại những
khó khan đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Trong rất nhiều trường
hợp, điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố rất quan trọng để hình thành lợi thé
cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ.
- Môi trường khoa học – kĩ thuật: Khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng là một
lực lượng mang đầy kịch tính và quyết định số phận con người. Việc áp dụng khoa
học công nghệ mới giúp cho các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới nhanh chóng,
làm tang sức cạnh tranh trên thị trường.Là yếu tố năng động, chứa nhiều cơ hội và
đe dọa đối với doanh nghiệp, là động lực chính trong toàn cầu hóa. Các doanh
nghiệp cần phải cảnh giác đối với các loại công nghệ mới vì nó có thể làm cho sản
phẩm mới hơn, rẻ hơn. Công nghệ mang lại cho doanh nghiệp cách giao tiếp với
người tiêu dùng.
- Môi trường pháp luật: Bao gồm hệ thống các đường lối, quan điểm chính sách của
chính phủ, và những diễn biến chính trong nước, trong khu vực và trên toàn thế
giới. Doanh nghiệp thường bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố pháp luật nhằm hạn
chế tự do hành động trong khuôn khổ pháp luật.Luật pháp đưa ra những quy định
cho phép hoặc những rang buộc đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ. Doanh nghiệp
cần hiểu rõ và chấp hành luật pháp. Chính phủ là cơ quan giám sát , duy trì, thực
hiện pháp luật và bảo vệ lợi ích quốc gia. Chính phủ có vai trò to lớn trong điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, tài chính, tiền tệ và các chương trình chi tiêu của mình.
11
Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp, chính phủ vừa đóng vai trò là người
kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, quy định, ngăn cấm , hạn chế, vừa đóng vai trò là
khách hàng quan trọng đối với doanh nghiệp, là nhà cung cấp các dịch vụ cho các
doanh nghiệp.
- Môi trường văn hóa- xã hội: Con người lớn lên trong một xã hội cụ thể và chính
xã hội đã trau dồi những quan điểm cơ bản nhằm tạo nên những giá trị và chuẩn

mực đạo đức. kinh tế càng phát triển, đời sống và thu nhập càng cao thì con người
càng chú trọng đến sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Thêm vào đó, xu hướng và thị
hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng cũng có sự biến đổi liên tục. Bao gồm những
chuẩn mực và giá trị mà những chuẩn mựcgiá trị này được chấp nhận và tôn trọng
bởi xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Sự tác động của các yếu tố văn hóa xã hội
thường có tính dài hạn và tính tế hơn so với các yếu tố khác, thậm chí nhiều lúc
khó mà nhận biết. Phạm vi tác động của các yếu tố văn hóa thường rất rộng, như
vậy những hiểu biết về văn hóa – xã hội sẽ là những cơ hội cho các nhà quản trị
trong quá trình quản trị chiến lược trong tổ chức.
• Môi trường vi mô
- Môi trường nội tại của doanh nghiệp: Môi trường văn hoá công sở được các nhà
khoa học môi trường cũng như các nhà văn hóa rất quan tâm. Đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay và nhiều năm về sau, khi mà trào lưu văn hóa ngoại nhập ào ạt tấn
công vào đất nước ta. Trong thời kỳ mở cửa, cùng với hội nhập và phát triển kinh
tế, các luồng văn hoá nước ngoài cũng theo đó mà vào. Có nhiều luồng gió mát
nhưng cũng không ít luồng gió độc. Làm sao điều chỉnh những hành vi ứng xử để
bảo tồn văn hóa mà vẫn du nhập được văn minh, tiến bộ nhân loại? Điều này hết
sức khó. Nó đòi hỏi mọi thành viên trong xã hội phải biết tự mình điều chỉnh quan
điểm hành vi ứng xử sao cho phù hợp.Trước hết, phải xây dựng, tôn tạo môi
trường văn hoá và văn hoá môi trường lành mạnh, hài hòa và tiên tiến. Văn hóa
doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Cấp dễ thấy nhất thể hiện
ngay trong công việc hàng ngày nhưng cách báo cáo công việc, giữ gìn tài sản
chung, ngôn ngữ khi giao tiếp với đồng nghiệp, đối tác, khách hàng, các thủ tục
hành chính… Cấp thứ hai là các giá trị tinh thần xác định việc phải làm, hành
động của mình đúng hay sai, có mang lại lợi ích hay thiệt hại chung hay không.
Đây là điều Lãnh đạo doanh nghiệp mong muốn nhận được ở nhân viên và phải
xây dựng dần từng bước. Cấp thứ ba là nền tảng cho các hành động chính là niềm
tin, nhận thức, suy nghĩ và xúc cảm được coi là đương nhiên ăn sâu trong tiềm
thức mỗi cá nhân trong doanh nghiệp. Các ngầm định nền tảng này là nền tảng cho
các giá trị và hành động của mỗi thành viên. Văn hóa kinh doanh trong một tổ

chức đã tiến đến mức độ cao nhất, trở thành một thứ Đạo, mà từ thế hệ này tới thế
hệ khác tôn sùng và làm theo. Văn hóa doanh nghiệp quyết định sự trường tồn của
12
doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp trường tồn vượt xa cuộc đời của những
người sáng lập. Nhiều người cho rằng văn hóa doanh nghiệp là một tài sản của
doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp giúp nhân viên thấy rõ mục tiêu, định hướng
và bản chất công việc mình làm. Văn hóa doanh nghiệp còn tạo ra các mối quan hệ
tốt đẹp giữa các nhân viên và một môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh, tao
động lực làm việc cho nhân viên. Tổng hợp các yếu tố gắn kết, điều phối, kiểm
soát, tạo động lực làm tăng hiệu quả hoạt động và tạo sự khác biệt trên thị
trường. Hiệu quả và sự khác biệt sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh tốt trên thị
trường.
- Khách hàng: khách hàng là đối tác phục vụ của công ty và là nhân tố tạo nên thị
trường. Doanh nghiệp cần tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, đây có thể xem
là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Muốn vậy, phải xem “khách hàng là thượng
đế”, phải thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng hơn các đối thủ cạnh tranh.
Muốn đạt được điều này doanh nghiệp phải xác định rõ các vấn đề sau:
+ Xác định rõ khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
+ Xác định nhu cầu và hành vi mua hàng của khách hàng bằng cách phân
tích các đặc tính của khách hàng thông qua các yếu tố như : yếu tố mang tính điạ
lý (vùng, miền…), yếu tố mang tính xã hội, dân số (lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ,
thu nhập, tín ngưỡng….); Hoặc phân tích thái độ của khách hàng qua các yếu tố
như : yếu tố thuộc về tâm lý (động cơ, thói quen, sở thích, phong cách, cá tính, văn
hoá…), yếu tố mang tính hành vi tiêu dùng (tìm kiếm lợi ích, mức độ sử dụng, tính
trung thành trong tiêu thụ…).
- Nhà cung ứng: Các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị …) của một
doanh nghiệp được quyết định bởi các nhà cung cấp. Những người cung ứng là
những công ty kinh doanh và những người cá thể cung cấp cho công ty và các đối
thủ cạnh tranh và các nguồn vật tư cần thiết để sản xuất ra những mặt hàng cụ thể
hay dịch vụ nhất định. Yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến các quyết định của doanh

nghiệp, trong kế hoạch ngắn hạn sẽ bỏ lỡ những khả năng tiêu thụ và trong kế
hoạch dài hạn sẽ làm mất đi thiện cảm của khách hàng đối với công ty. Để cho quá
trình hoạt động của một doanh nghiệp diễn ra một cách thuận lợi, thì các yếu tố
đầu vào phải được cung cấp ổn định với một giá cả hợp lý, muốn vậy doanh
nghiệp cần phải tạo ra mối quan hệ gắn bó với các nhà cung ứng hoặc tìm nhiều
nhà cung ứng khác nhau cho cùng một loại nguồn lực.
- Công chúng trực tiếp: Công chúng trực tiếp là một nhóm bất kỳ tỏ ra quan tâm
thực sự hay có thể sẽ quan tâm đến những tổ chức có ảnh hưởng đến khả năng đạt
tới những mục tiêu đề ra của nó.Công chúng trực tiếp có thể hoặc là hỗ trợ hoặc là
chống lại nỗ lực của công ty nhằm phục vụ thị trường. Công chúng tích cực là
nhóm quan tâm đến công ty với thái độ thiện chí (ví dụ những nhà hảo tâm). Công
13
chúng tìm kiếm là nhóm mà công ty đang tìm kiếm sự quan tâm của họ, nhưng
không phải bao giờ cũng tìm được (ví dụ các phương tiện thông tin đại chúng).
Công chúng không mong muốn là nhóm mà công ty cố gắng thu hút sự chú ý của
họ, nhưng buộc phải để ý đến họ nếu họ xuất hiện (Ví dụ nhóm người tiêu dùng
tẩy chay).Công ty có thể xây dựng kế hoạch chiến lược cho tất cả các công chúng
trực tiếp, cơ bản của mình, cũng cho tất cả thị trường khách hàng. Giả sử rằng
công ty muốn giành được từ một nhóm công chúng trực tiếp cụ thể nào đó thái độ
phản ứng thiện cảm, những lời khen ngợi hay sự đóng góp thời gian tiền bạc. Để
làm được việc đó công ty cần phải thiết kế hàng hoá hấp dẫn đối với chính nhóm
công chúng này.
Các loại công chúng trực tiếp của công ty thường là:
+ Giới tài chính. Có ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo nguồn vốn của công
ty. Công chúng trực tiếp cơ bản trong giới tài chính là ngân hàng, các công ty đầu
tư, các công ty môi giới của Sở giao dịch chứng khoán, các cổ đông.
+ Công chúng trực tiếp thuộc các phương tiện thông tin. Công chúng thuộc
các phương tiện thông tin là những tổ chức phổ biến tin tức, những bài báo và bài
xã luận. Trước hết đó là báo chí, đài phát thanh và đài truyền hình.
+ Công chúng trực tiếp thuộc các cơ quan Nhà nước. Ban lãnh đạo phải nhất

thiết chú ý đến tất cả những gì xảy ra trong lĩnh vực Nhà nước.
+ Các nhóm công dân hành động. Những quyết định marketing được các
công ty thông qua có thể gây nên những điều nghi vấn từ phía các tổ chức người
tiêu dùng, các nhóm bảo vệ môi trường, đại diện của các dân tộc ít người…
+ Công chúng trực tiếp địa phương. Mọi công ty đều có quan hệ với công
chúng trực tiếp địa phương như những người dân sống ở vùng xung quanh và các
tổ chức địa phương. Để làm việc với nhân viên địa phương các công ty lớn thường
cử một người chuyên trách về việc quan hệ với địa phương, tham dự các cuộc họp
của hội đồng địa phương, trả lời những câu hỏi, đóng góp vào việc giải quyết
những vấn đề cấp thiết.
+ Quần chúng đông đảo. Công ty cần phải theo dõi chặt chẽ thái độ của quần
chúng đông đảo đối với hàng hóa và hoạt động của mình. Và tuy rằng quần chúng
đông đảo không phải là một lực lượng có tổ chức đối với công ty, những hình ảnh
của công ty dưới con mắt của quần chúng có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại
của nó
+ Công chúng trực tiếp nội bộ. Công chúng trực tiếp nội bộ của công ty bao
gồm công nhân viên chức, những người tình nguyện giúp đỡ, các nhà quản trị, các
ủy viên Hội đồng giám đốc của công ty. Với mục đích thông tin và cổ vũ công
chúng trực tiếp nội bộ các công ty lớn phát hành các tờ tin tức và sử dụng những
14
hình thức thông tin khác. Khi công nhân viên chức có thái độ tốt đối với công ty
thì thái độ tốt đó của họ sẽ truyền lan ra các nhóm công chúng trực tiếp khác.
- Đối thủ cạnh tranh:
+ Đối thủ cạnh tranh hiện tại:Tìm hiểu và phân tích về các đối thủ cạnh
tranh hiện tại có một ý nghia quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì sự hoạt
động của các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả
của doanh nghiệp. Thường phân tích đối thủ qua các nội dung sau: Mục tiêu của
đối thủ? Nhận định của đối thủ về doanh nghiệp chúng ta? Chiến lược của đối thủ
đang thực hiện? Những tiềm năng của đối thủ? Các biện pháp phản ứng của đối
thủ? … Ngoài ra cần xác định số lượng đối thủ tham gia cạnh tranh là bao nhiêu?

Đặc biệt cần xác định rõ các đối thủ lớn là ai và tỷ suất lợi nhuận của ngành là bao
nhiêu?
+ Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn bao gồm các đối thủ tiềm ẩn (sẽ xuất hiện
trong tương lai) và các đối thủ mới tham gia thị trường, đây cũng là những đối thủ
gây nguy cơ đối với doanh nghiệp. Để đối phó với những đối thủ này, doanh
nghiệp cần nâng cao vị thế cạnh tranh của mình, đồng thời sử dụng những hàng
rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngòai như : duy trì lợi thế do sản xuất
trên quy mô lớn, đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra nguồn tài chính lớn, khả năng
chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế trong việc xâm nhập các kênh tiêu thụ,
ưu thế về giá thành mà đối thủ không tạo ra được và sự chống trả mạnh mẽ của
các đối thủ đã đứng vững.
15
Kết luận chương 1
Quản trị là môn khoa học và cũng là nghệ thuật. Để quản trị tốt doanh
nghiệp các nhà quản trị cần nẵm vững các nguyên tắc quản trị và vận dụng vào
tình hình thực tiễn của công ty mình một các phù hợp. Để từ đó có định huwogs và
nâng cao năng lực quản lý cho doanh nghiệp giúp hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp đạt kết quả cao hơn.
Do đó việc nghiên cứu và nhận thức các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp
là hết sức quan trọng. Tuy nhiên việc vận dụng các nguyên tắc đòi hỏi các nhà
quản trị cần hết sức sáng tạo và linh hoạt.
16
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU BỘ NGUYÊN TẮC QUẢN TRỊ
DOANH NGHIỆP CỦA OECD.
2.1. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD).
OECD là tên viết tắt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development), thành lập năm 1961.
Tiền thân của OECD là Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OEEC) của 16 nước
châu Âu nhằm khôi phục kinh tế và giám sát phân bổ viện trợ.
- Năm 1950, Mỹ và Canada tham gia OEEC với tư cách quan sát viên.

- Năm 1961, OEEC được chuyển thành OECD. 16 nước châu Âu trong OEEC cùng
với Mỹ và Canada trở thành những thành viên sáng lập của OECD (tổng cộng 20
thành viên).
- Trong những năm tiếp theo, OECD tiếp tục kết nạp một số quốc gia, bắt đầu từ
Nhật Bản năm 1964, Phần Lan 1969, Úc 1971, New Zealand 1973, Mexico 1994,
Cộng hòa Séc 1995, Hungary, Ba Lan và Hàn Quốc 1996, Slovakia năm 2000, và
mới nhất là Chile, Slovenia, Israel, và Estonia năm 2010.
a) Cơ cấu tổ chức:
OECD có 03 cơ quan chính là Hội đồng OECD, Ban Thư ký và các Ủy ban
Chuyên môn.
1) Hội đồng OECD: là cơ quan có quyền ra quyết định theo nguyên tắc đồng thuận
bao gồm một đại diện của mỗi nước thành viên và một đại diện của Ủy ban Châu
Âu. Hội đồng OECD họp cấp Bộ trưởng mỗi năm một lần để thảo luận những vấn
đề quan trọng và quyết định hoạt động ưu tiên của OECD.
2) Ban Thư ký OECD: là cơ quan phối hợp các hoạt động của OECD và hỗ trợ cho
hoạt động của các Ủy ban, gồm có Tổng Thư ký và 4 Phó Tổng thư ký. Hiện nay,
Tổng Thư ký là ông Donald J. Johnston (quốc tịch Canada).
3) Ủy ban Chuyên môn: OECD có 12 ủy ban chuyên môn về các lĩnh vực: kinh tế,
thống kê, môi trường, hợp tác phát triển, quản lý công và phát triển lãnh thổ,
thương mại, tài chính và doanh nghiệp, chính sách thuế, khoa học công nghệ và
công nghiệp, việc làm - lao động và xã hội, giáo dục, lương thực - nông nghiệp và
ngư nghiệp.
Ngoài ra OECD còn có 6 cơ quan tương đối độc lập gồm:
- Cơ quan Năng lượng quốc tế.
- Cơ quan Năng lượng nguyên tử.
- Hội nghị Bộ trưởng Giao thông các nước Châu Âu.
- Trung tâm Phát triển.
- Trung tâm Nghiên cứu và Đổi mới Giáo dục.
- Câu lạc bộ vùng Sahel và Tây Phi.
17

OECD hiện đang có 34 thành viên.
- Châu Âu (25 thành viên) : Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đan Mạch,
Đức, Estonia, Hà Lan, Hungary, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Pháp,
Phần Lan, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy
Điển, Thụy Sĩ, Na Uy, Ý
- Châu Mỹ (4 thành viên, 3 thành viên từ Bắc Mỹ và một từ Nam Mỹ):
Canada, Hoa Kỳ, Chile, Mexico
- Châu Á (3 thành viên) : Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản
- Châu Đại Dương (2 thành viên) : New Zealand, Úc
b) Chức năng nhiệm vụ của tổ chức
Chức năng:
 Là diễn đàn đối thoại giữa các nước thành viên, các tổ chức quốc tế và giới nghiên
cứu về các vấn đề kinh tế- xã hội
 Tiến hành nghiên cứu, dự báo, đưa ra khuyến nghị và tư vấn các nước thành viên
trong hoạch định, phối hợp chính sách phát triển kinh tế- xã hội.
Nhiệm vụ:
 Tăng cường quan hệ đối thoại giữa giới nghiên cứu và quan chức lãnh đạo của các
nước về những vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển;
 Nghiên cứu, phân tích, tổ chức đối thoại để dự báo, cảnh báo các nguy cơ đối với
phát triển;
 Xây dựng và tăng cường quan hệ đối tác giữa OECD với các nước đang phát triển;
 Tư vấn cho OECD trong việc hoạch định chính sách
Mục tiêu:
 Mục tiêu ban đầu của OECD là xây dựng các nền kinh tế mạnh ở các nước thành
viên, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế thị trường, mở rộng thương mại tự do
và góp phần phát triển kinh tế ở các nước công nghiệp. Những năm gần đây,
OECD đã mở rộng phạm vi hoạt động, chia sẻ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm
phát triển cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi sang
kinh tế thị trường
 Tăng cường hợp tác kinh tế, phối hợp chính sách giữa các nước thành viên về các

vấn đề kinh tế thế giới và phát triển.
 Nhằm hỗ trợ và đáp ứng các yêu cầu của các nước thành viên trong hoạch định
chính sách phát triển.
c) Thành tựu
OECD có nhiều ảnh hưởng đến các nước phát triển trong việc xây dựng
chính sách hợp tác và phát triển kinh tế. OECD hiện là một trong những tổ chức
18
quốc tế có uy tín trong nghiên cứu; xây dựng và lưu giữ cơ sở dữ liệu thông tin rất
lớn trên hầu hết các lĩnh vực chính sách trừ quốc phòng như kinh tế, văn hóa, giáo
dục… Các dữ liệu, thông tin, báo cáo của OECD có giá trị và độ tin cậy cao.
Trước sự phát triển năng động của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương,
OECD hiện đang chuyển trọng tâm hợp tác từ Châu Âu sang khu vực Đông Nam
Á. Tháng 5/2007, OECD đã thông qua Nghị quyết đẩy mạnh quan hệ với khu vực
Đông Nam Á, coi khu vực này là ưu tiên chiến lược.
- Việc trao đổi đoàn cấp cao giữa OECD và các nước thành viên diễn ra
thường xuyên, đạt kết quả tốt đẹp và hiệu quả tích cực trong đẩy mạnh hợp tác
giữa hai bên, đưa quan hệ hợp tác các nước thành viên – OECD đi vào thực chất.
- Hỗ trợ các nước thành viên OECD hoạch định chiến lược phát triển của
mỗi quốc gia và chiến lược hợp tác quốc tế, thông qua việc thu thập ý tưởng, đánh
giá chính sách và thu thập dữ liệu (generate ideas, evaluate policies and generate
data). OECD đề xuất 4 nội dung chính (4 key themes), bao gồm:
+ Những nguồn lực sáng tạo và bền vững của phát triển
+ Huy động các nguồn lực để phát triển
+ Quản trị cho phát triển
+ Đo lường tiến trình phát triển
Việt Nam là 1 thành viên trong tổ chức OECD và thực hiện được các yêu cầu
của OECD và thành công
2.2. Bộ nguyên tắc quản trị doanh nghiệp do OECD hướng dẫn trong các tập
đoàn kinh tế nhà nước.
2.2.1. Đảm bảo một khuôn khổ pháp lí và quản lí hiểu quả cho Doanh nghiệp Nhà

nước.
Khuôn khổ pháp lý và quản lý cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động thường
phức tạp. Nếu khuôn khổ này không nhất quán và rõ ràng thì có thể dễ dàng gây
nên các biến dạng thị trường và làm giảm trách nhiệm của cả ban Giám đốc lẫn
nhà nước với tư cách chủ sở hữu. Việc phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ
quan chức năng, hợp lý hóa các quy định pháp lý và xây dựng một khuôn khổ
quản lý rõ ràng và nhất quán sẽ tạo điều kiện cải thiện thực tiễn quản trị công ty ở
doanh nghiệp nhà nước. Trong đó gồm các tiểu quy tắc làm rõ hơn về từng nội
dung cụ thể của nguyên tắc như:
19
2.2.1.1. Nguyên tắc về “Khuôn khổ chung về QTDN”
Nguyên tắc trên tập trung chính vào khuôn khổ quản trị công ty nhằm mục
đích thúc đẩy tính minh bạch của thị trường, khuyến khích các bên tham gia thị
trường nâng cao trách nhiệm.
Khuôn khổ quản trị công ty được phát triển cần dựa trên quan điểm về tác
động của nó đối với hiệu quả kinh tế nói chung, tính toàn vẹn của thị trường và
các cơ chế khuyến khích mà khuôn khổ này tạo ra.
Trong đó:
- Môi trường quản lý và pháp lý áp dụng cho các hoạt động của các công ty
có ý nghĩa lớn tới hiệu quả kinh tế nói chung.
- Cơ quan hoạch định chính sách có trách nhiệm xây dựng một khuôn khổ đủ
linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của các công ty hoạt động ở những điều kiện khác
nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty phát triển và sử dụng nguồn lực một cách
hiệu quả nhất.
- Cơ quan hoạch định chính sách cần tập trung vào hiệu quả kinh tế cuối
cùng và phải phân tích tác động của những chính sách này đối với những yếu tố
chính ảnh hưởng tới hoạt động của thị trường như các cơ chế ưu đãi, hiệu quả của
các hệ thống tự điều tiết, và giải quyết các xung đột lợi ích hệ thống.
2.1.1.2. Nguyên tắc về “Khuôn khổ pháp lý đối với cưỡng chế thực thi minh
bạch”

Các quy định pháp lý và quản lý tác động tới thông lệ quản trị công ty cần
phù hợp với quy định của pháp luật, minh bạch và có khả năng cưỡng chế thực thi.
Nguyên tắc này yêu cầu nếu cần thiết phải có luật và quy định mới, chẳng
hạn để giải quyết các trường hợp không hoàn hảo của thị trường, thì các luật và
quy định đó cần phải được xây dựng theo một cách nào đó để có thể ban hành và
cưỡng chế thực thi một cách hiệu quả và công bằng đối với tất cả các bên.
Việc chính phủ và cơ quan quản lý tham vấn rộng rãi các công ty, tổ chức,
hiệp hội doanh nghiệp và các bên có liên quan khác là một cách hiệu quả để thực
hiện mục tiêu trên. Các thể chế để các bên bảo vệ quyền của họ cũng cần được
thiết lập. Để tránh các vấn đề như quản lý quá mức, luật lệ không thể cưỡng chế
thực thi, hay các hệ quả không mong muốn có thể cản trở hoặc bóp méo động lực
kinh doanh, khi xây dựng các biện pháp chính sách cần phải tính đến những cái
20
được và mất chung. Các đánh giá như vậy phải quan tâm tới nhu cầu cưỡng chế
thực thi hiệu quả, bao gồm khả năng các cơ quan ngăn chặn hành vi thiếu trung
thực và thực thi các biện pháp trừng phạt vi phạm một cách hiệu quả.
Các mục tiêu quản trị công ty cũng được xây dựng trong các quy chế và tiêu
chuẩn tự nguyện không có tính luật định. Mặc dù các quy chế như vậy đóng vai
trò quan trọng trong việc cải tiến thực tiễn quản trị công ty, các quy chế này có thể
khiến cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan cảm thấy không chắc chắn về vai
trò cũng như tính thực thi của các quy chế đó.
Khi các quy chế và nguyên tắc được sử dụng như một tiêu chuẩn quốc gia
hoặc như một sự thay thế rõ ràng cho các điều khoản pháp lý và quản lý thì để có
được lòng tin của thị trường cần phải xác định rõ vai trò của các quy chế và
nguyên tắc đó về phạm vi ảnh hưởng, thực hiện, tuân thủ và các biện pháp trừng
phạt.
2.1.1.3. Nguyên tắc về “Phân chia trách nhiệm quản lý rõ ràng “
Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý khác nhau phải được
quy định rõ ràng và đảm bảo phục vụ lợi ích của công chúng. Trong đó yêu cầu:
- Thực tế, các yêu cầu và thực tiễn quản trị công ty thường bị chi phối bởi

một loạt các văn bản pháp lý như luật công ty, luật chứng khoán, tiêu chuẩn kế
toán và kiểm toán, luật phá sản, luật hợp đồng, luật lao động và luật thuế. Do vậy
sẽ nảy sinh nguy cơ quy định của các luật này chồng chéo và thậm chí mâu thuẫn
nhau.
- Ngoài ra, cưỡng chế thực thi hiệu quả cũng đòi hỏi phải phân định trách
nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan quản lý khác nhau để các cơ quan này có thể hoạt
động và hỗ trợ nhau hiệu quả nhất để tránh tình trạng có vấn đề xảy ra mà không
một cơ quan chức năng nào chịu trách nhiệm rõ ràng và để giảm thiểu chi phí tuân
thủ của công ty.
=> Do đó, các nhà hoạch định chính sách nhận biết và tiến hành các biện
pháp để hạn chế nguy cơ này là rất quan trọng.
2.1.1.4. Về “Quyền quản lý, tính minh bạch, nguồn lực”
-Về quản lý: các cơ quan giám sát, quản lý và cưỡng chế thực thi phải liêm
chính, có đủ thẩm quyền, và nguồn lực để hoàn thành chức năng của mình một
cách chuyên nghiệp và khách quan.
21
-Về tính minh bạch: các quyết định của những cơ quan này phải kịp thời,
minh bạch và được giải thích đầy đủ không có sự xung đột về lợi ích và được giám
sát bởi pháp luật.
-Về nguồn lực: Khi số lượng các công ty đại chúng, các sự kiện công ty và
mức độ công bố thông tin tăng lên thì các cơ quan giám sát, quản lý và cưỡng chế
thực thi có thể phải chịu nhiều áp lực về nguồn lực. Để theo kịp sự phát triển của
thị trường, các cơ quan này sẽ có nhu cầu lớn về nhân lực có trình độ để có thể
thực hiện hiệu quả công tác điều tra và giám sát. Do đó họ cần được cấp kinh phí
đầy đủ. Khả năng thu hút nhân lực trên cơ sở cạnh tranh sẽ tăng cường chất lượng
và sự độc lập giữa giám sát và cưỡng chế thực thi.
2.2.2. Nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu
Nhà nước cần đóng vai trò chủ sở hữu có hiểu biết, tích cực, và xây dựng
chính sách sở hữu rõ ràng và nhất quán, đảm bảo việc quản trị doanh nghiệp nhà
nước được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm với mức độ chuyên

nghiệp và hiệu quả cần thiết.
Để thực hiện chức năng sở hữu của mình, Chính phủ cần tham khảo các
chuẩn mực quản trị của khối tư nhân và nhà nước, đặc biệt là bộ Nguyên tắc Quản
trị Công ty của OECD. Ngoài ra, một số khía cạnh cụ thể của quản trị doanh
nghiệp nhà nước cần được quan tâm đặc biệt hoặc cần được hướng dẫn bằng tài
liệu chi tiết hơn để định hướng cho Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc và cơ quan
nhà nước có trách nhiệm thực thi quyền sở hữu nhà nước, giúp họ thực hiện hiệu
quả hơn vai trò của mình.
2.2.2.1. Chính sách của nhà nước trong việc thực thi chính sách chủ sở hữu của mình
Chính phủ phải xây dựng và ban hành chính sách sở hữu xác định rõ mục
tiêu chung của sở hữu nhà nước, vai trò của nhà nước trong quản trị doanh nghiệp
nhà nước và cách thức nhà nước sẽ thực thi chính sách sở hữu của mình.
Để có thể xác định rõ vị trí của mình với tư cách chủ sở hữu, nhà nước phải
làm rõ và xác định thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu của mình. Các mục tiêu đó có
thể bao gồm việc tránh làm biến dạng thị trường và theo đuổi lợi nhuận, được thể
hiện dưới dưới dạng chỉ tiêu cụ thể như chính sách tỷ suất lợi nhuận và cổ tức.
Việc xác định mục tiêu có thể phải bao gồm cả sự đánh đổi, ví dụ như giữa giá trị
của cổ đông và cung cấp dịch vụ công cộng hay bảo đảm việc làm. Vì vậy ngoài
việc xác định các mục tiêu chính của mình với tư cách chủ sở hữu, nhà nước cũng
cần nhận biết các ưu tiên của mình và xác định rõ sự đánh đổi gắn liền với các ưu
22
tiên đó sẽ được giải quyết như thế nào. Để làm được điều này, nhà nước phải tránh
can thiệp sâu vào các vấn đề điều hành, và tôn trọng sự độc lập của Hội đồng
Quản trị. Chính sách sở hữu rõ ràng sẽ giúp tránh được tình trạng doanh nghiệp
nhà nước được trao quá nhiều quyền tự chủ trong việc xác định mục tiêu của
mình, hoặc trong việc xác định bản chất và phạm vi các nghĩa vụ phục vụ xã hội.
Khi phát triển và cập nhật chính sách sở hữu nhà nước, chính phủ phải tổ
chức tham vấn rộng rãi. Chính sách sở hữu và các mục tiêu công ty đi kèm phải là
tài liệu chung mà công chúng có thể tiếp cận được và được lưu hành rộng rãi trong
các bộ, ngành liên quan và cơ quan lập pháp, cũng như Hội đồng Quản trị và Ban

Lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước.
Việc các công chức liên quan tán thành chính sách sở hữu, và Đại hội đồng
cổ đông, Hội đồng Quản trị và lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp nhà nước tán
thành các tuyên bố về mục tiêu của doanh nghiệp cũng rất quan trọng.
2.2.2.2. Quyền tự chủ hoạt động hoàn toàn của doanh nghiệp
Chính phủ không cần tham gia vào công việc quản lý hàng ngày của doanh
nghiệp nhà nước và phải cho phép các doanh nghiệp quyền tự chủ hoạt động hoàn
toàn để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Phương tiện căn bản để thực hiện chức năng sở hữu nhà nước tích cự và có
hiểu biết là chiến lược sở hữu rõ ràng và nhất quán, quy trình đề cử Hội đồng
Quản trị chặt chẽ và có tổ chức, và thực hiện hiệu quả các quyền sở hữu đã được
xác lập. Cần tránh tham gia vào công việc quản lý hàng ngày của doanh nghiệp
nhà nước.
Khả năng cơ quan chủ quản hay chính phủ dùng quyền sở hữu để chỉ đạo
doanh nghiệp hoặc Hội đồng Quản trị của doanh nghiệp nhà nước cần phải hạn
chế trong khuôn khổ các vấn đề có tính chính sách và chiến lược. Cần công bố
công khai và xác định rõ những lĩnh vực nào và với loại quyết định gì thì chính
phủ hay cơ quan điều phối có thẩm quyền chỉ đạo doanh nghiệp nhà nước.
Tương tự như vậy, cũng cần hạn chế nghiêm ngặt bất cứ cơ quan chính phủ
nào khác can thiệp vào công việc quản lý hàng ngày của doanh nghiệp nhà nước.
2.2.2.3. Trách nhiệm của nhà nước và sự tôn trọng quyền tự chủ đối với các doanh
nghiệp
Nhà nước cần cho phép Hội đồng Quản trị của doanh nghiệp nhà nước thực
hiện trách nhiệm của mình và tôn trọng quyền tự chủ của họ.
23
Khi đề cử và bầu chọn thành viên Hội đồng Quản trị, cơ quan sở hữu phải
đảm bảo để Hội đồng Quản trị của doanh nghiệp nhà nước thực hiện trách nhiệm
của mình một cách chuyên nghiệp và độc lập.
Tính độc lập đòi hỏi tất cả thành viên Hội đồng Quản trị thực hiện nhiệm vụ
của mình một cách vô tư, tôn trọng lợi ích của tất cả mọi cổ đông. Điều này có

nghĩa là thành viên Hội đồng Quản trị không phải chịu sự chỉ đạo của bất kỳ
quyền lực chính trị nào khi thực hiện nhiệm vụ của mình, trừ khi việc này phù hợp
với điều lệ hoặc các mục tiêu đặc biệt của doanh nghiệp.
Khi nhà nước giữ cổ phần kiểm soát, nhà nước có một vị thế rất đặc biệt có
thể đề cử và bầu chọn Hội đồng Quản trị mà không cần sự đồng thuận của các cổ
đông khác. Quyền lực này đi đôi với mức độ trách nhiệm cao trong việc xác định,
đề cử và bầu chọn thành viên Hội đồng Quản trị.
Hội đồng Quản trị doanh nghiệp nhà nước không được có xung đột lợi ích cố
hữu hay tiềm ẩn. Điều này có nghĩa là họ không được tham gia vào các quyết định
quản lý nhà nước có liên quan tới doanh nghiệp mà họ là thành viên Hội đồng
Quản trị, cũng như không có bất kỳ một nghĩa vụ hay hạn chế nào có thể ngăn họ
hoạt động vì lợi ích doanh nghiệp.
Đặc biệt là cần phải làm rõ nghĩa vụ pháp lý của cá nhân và nhà nướckhi các
quan chức nhà nước tham gia Hội đồng Quản trị của doanh nghiệp nhà nước.
Quan chức nhà nước cần công bố bất kỳ khoản sở hữu cá nhân nào mà họ có trong
doanh nghiệp nhà nước và tuân thủ các nguyên tắc về giao dịch nội gián. Hướng
dẫn hoặc quy tắc đạo đức đối với cán bộ của cơ quan sở hữu và các quan chức nhà
nước khác tham gia Hội đồng Quản trị doanh nghiệp nhà nước có thể do cơ quan
điều phối hoặc cơ quan sở hữu xây dựng.
2.2.2.4. Chức năng sở hữu trong quản trị doanh nghiệp nhà nước
Việc thực thi các quyền sở hữu cần được xác định rõ ràng trong quản trị
doanh nghiệp nhà nước. Để xác định được rõ ràng chức năng sở hữu, chức năng
này có thể được tập trung vào một cơ quan duy nhất, độc lập hoặc đặt dưới quyền
của một bộ. Cách này sẽ giúp làm rõ chính sách sở hữu và định hướng của nó,
đồng thời đảm bảo cho chính sách được thực hiện nhất quán hơn. Tập trung hóa
chức năng sở hữu có thể góp phần tăng cường và phối hợp các kỹ năng chuyên
môn cần thiết bằng cách tổ chức “các nhóm” chuyên gia về các vấn đề chủ chốt
như báo cáo tài chính hay đề cử Hội đồng Quản trị. Tập trung hóa cũng là công cụ
chính trong việc phát triển hệ thống báo cáo tổng hợp về sở hữu nhà nước. Cuối
cùng, tập trung hóa là một cách hiệu quả để phân chia rõ ràng giữa việc thực hiện

24
các chức năng sở hữu và các hoạt động khác của nhà nước, đặc biệt là điều tiết thị
trường và chính sách phát triển ngành.
Nếu chức năng sở hữu không được tập trung hóa thì yêu cầu tối thiểu là
thành lập một cơ quan điều phối vững mạnh trong số các cơ quan hành chính có
liên quan. Việc này giúp đảm bảo mỗi doanh nghiệp nhà nước có một nhiệm vụ rõ
ràng và được hướng dẫn cụ thể, nhất quán về mặt chỉ đạo chiến lược hay yêu cầu
báo cáo.
 Tập trung hóa chức năng sở hữu vào một cơ quan duy nhất là phù hợp nhất đối với
các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các ngành nghề tự do cạnh tranh.
2.2.2.5. Xác định mối quan hệ giữa cơ quan điều phối và các cơ quan chính phủ
Cơ quan điều phối hoặc sở hữu phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan dân
cử như Quốc hội và phải xác định rõ ràng mối quan hệ với các cơ quan nhà nước
liên quan, kể cả cơ quan kiểm toán tối cao của nhà nước. Một số cơ quan chính
phủ, Bộ hoặc cơ quan hành chính có vai trò khác nhau đối với cùng một doanh
nghiệp nhà nước. Để tăng cường lòng tin của công chúng vào cách thức nhà nước
quản lý quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước thì việc làm rõ và giải thích các vai
trò khác nhau này cho công chúng là rất quan trọng.
Đặc biệt, cơ quan sở hữu phải duy trì hợp tác và đối thoại thường xuyên với
tổ chức kiểm toán tối cao của nhà nước chịu trách nhiệm kiểm toán doanh nghiệp
nhà nước. Cơ quan này phải ủng hộ công việc của tổ chức kiểm toán của nhà nước
và tiến hành các biện pháp phản hồi thích hợp với các kết quả kiểm toán, tuân theo
Tuyên bố Lima về các Hướng dẫn Quy tắc Kiểm toán của INTOSAI.
Cơ quan điều phối hoặc sở hữu doanh nghiệp nhà nước phải chịu trách
nhiệm về phương thức thực hiện chức năng sở hữu nhà nước của mình. Cơ quan
này có trách nhiệm giải trình, trực tiếp hoặc gián tiếp, đối với các cơ quan đại diện
cho lợi ích của dân chúng như Quốc hội. Trách nhiệm giải trình của cơ quan này
đối với cơ quan lập pháp cũng như trách nhiệm của bản thân doanh nghiệp nhà
nước cần được định rõ, và trách nhiệm này không được giảm bớt do mối quan hệ
báo cáo trung gian.

Trách nhiệm giải trình phải đảm bảo việc thực hiện quyền sở hữu không làm
ảnh hưởng đến quyền của cơ quan lập pháp liên quan đến chính sách ngân sách.
Cơ quan sở hữu phải báo cáo kết quả thực hiện quyền sở hữu nhà nước và mức độ
đạt được các mục tiêu của nhà nước về mặt này. Cơ quan sở hữu phải cung cấp
thông tin định lượng và tin cậy về cách thức quản lý doanh nghiệp nhà nước theo
lợi ích của chủ sở hữu cho công chúng và tổ chức đại diện của họ. Các cơ chế cụ
25

×