Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Điều tra tình hình cảm nhiễm bệnh cầu trùng và bệnh hô hấp mãn tính (CRD) trên gà thịt nuôi trong nông hộ thuộc xã sơn cẩm, huyện phú lương, tỉnh thái nguyên và xác định hiệu lực điều trị bệnh CRD của hai loại thuốc tylosin và enrofloxacin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 58 trang )

Lời cảm ơn

Sau hơn 4 năm học tập, rèn luyện tại trường và thực tập tốt nghiệp tại
cơ sở, nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sự kính trọng sâu sắc tới:
Ban chủ nhiệm Khoa Chăn Nuôi Thú y trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
Ban lãnh đạo, Cán bộ xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương.
Cùng tập thể các thầy cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
đã tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành bản khóa luận này.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn
tận tình của thầy giáo hướng dẫn:
Ts Nguyễn Đức Hùng trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành
bản khóa luận tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 03 năm 2011

Sinh viên
Trương Thị Ngọc Mai
Lời nói đầu
Thực tập tốt nghiệp là một khâu quan trọng và không thể thiếu được
trong chương trình đào tạo của các trường đại học nói chung và trường đại
học Nông Lâm nói riêng. Đây là thời gian cần thiết để sinh viên củng cố, áp
dụng những kiến thức đã học vào thực tế, rèn luyện tay nghề, nâng cao kiến
thức chuyên môn, học tập phương pháp nghiên cứu khoa học, đồng thời đây
là thời gian để sinh viên tự hoàn thiện mình, trang bị cho bản thân những
kiến thức về phương pháp quản lý, những hiểu biết xã hội để khi ra trường
trở thành một cán bộ khoa học kỹ thuật có kiến thức chuyên môn vững vàng
và có năng lực trong công tác.
Được sự nhất trí của nhà trường và ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi -
Thú y trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự phân công của thầy
giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của cơ sở tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:


“ Điều tra tình hình cảm nhiễm bệnh cầu trùng và bệnh hô hấp mãn
tính (CRD) trên gà thịt nuôi trong nông hộ thuộc xã Sơn Cẩm, huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên và Xác định hiệu lực điều trị bệnh CRD
của hai loại thuốc Tylosin và Enrofloxacin.”
Được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn và sự nỗ lực của
bản thân tôi đã hoàn thành bản khóa luận này. Do bước đầu làm quen với
công tác nghiên cứu nên bản khóa luận này không tránh khỏi những hạn chế,
kể cả phương pháp và kết quả nghiên cứu. Vì vậy tôi mong nhận được sự
đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp để bản
khóa luận hoàn chỉnh hơn.
2
2
Phần 1
CÔNG TÁC PHỤC VỤ SẢN XUẤT
1.1 Điều tra cơ bản.
1.1.1 Điều kiên tự nhiên
*Vị trí địa lý:
Sơn Cẩm là xã phía nam của Huyện Phú Lương cách thành phố Thái
Nguyên 7 Km, cách trung tâm Huyện 15 Km, ranh giới của xã được xác định
như sau:
Phía Bắc giáp với xã Cổ Lũng
Phía Nam giáp với thành phố Thái Nguyên
Phía Đông giáp với Huyện Đồng Hỷ
Phía Tây giáp với Huyện Đại Từ
*Điều kiện khí hậu thủy văn.
Xã Sơn Cẩm cách thành phố Thái Nguyên 7 km, tỉnh Thái Nguyên nằm
trong vùng khí hậu chung của miền núi phía Bắc Việt Nam, nên khu vực
chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông, khí hậu lạnh, khô
hanh, độ ẩm thấp. Mùa hè khí hậu nóng ẩm mưa nhiều. Dao động nhiệt độ và
độ ẩm trong năm tương đối cao, thể hiện rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.

+ Mùa mưa: Kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ dao động từ 21 -
36
0
C, độ ẩm từ 80 -86%, lượng mưa trung bình 150mm/ tháng và tập trung
nhiều vào tháng 6, 7, 8. Nhìn chung khí hậu vào mùa mưa thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong chăn nuôi những tháng này cần phải chú
ý đến công tác tiêm phòng đề phòng dịch bệnh xảy ra trên đàn gia súc, gia
cầm, gây thiệt hại cho sản xuất.
+ Mùa khô: Kéo dài từ tháng 11 dến tháng 4 năm sau, thời gian này khí
hậu thường lạnh, khô hanh sự dao động nhiệt độ trong ngày lớn ( từ 13,7
0
C –
24
0
C), có ngày giảm xuống còn 8 – 10
0
, độ ẩm trung bình 76 – 78%. Ngoài
ra trong mùa đông còn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, giá rét và
sương muối kéo dài từ 6 – 10 ngày gây ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng,
phát triển và sức chống đỡ bệnh của cây trồng, vật nuôi.
* Địa hình đất đai
3
3
Xã Sơn Cẩm có diện tích tương đối lớn, toàn xã có diện tích 17 Km
2
( 1.682 ha). Trong đó:
- Diện tích đất nông nghiệp là 597 ha
- Diện tích đất ở 295 ha
- Diện tích đất lâm nghiệp 387 ha
- Ngoài ra trong xã còn có nhiều khu tiểu thủ công nghiệp. Còn lại là

diện tích đất chưa sử dụng.
1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
* Tình hình xã hội
- Về dân cư
Theo số liệu của ủy ban nhân dân xã thì dân số của xã trong năm 2008
là 13.207, với 3259 hộ được chia làm 19 xóm, gồm 8 dân tộc anh em sinh
sống là: Kinh, Sán Dìu, Hoa, tày, Sán Chí…Trong đó dân tộc thiểu số chiếm
40% dân số toàn xã.
Đời sống văn hóa tinh thần của người dân những năm gần đây được
nâng cao rõ rệt, hầu hết các hộ gia đình đều có phương tiện nghe nhìn như:
đài, tivi, sách báo. Đây là điều kiện để nhân dân trong xã nắm bắt kịp thời
được các chủ trương của Đảng và Nhà Nước, các thong tin khoa học kỹ thuật
để phục vụ đời sống hàng ngày.
- Về y tế
Trong xã có trạm y tế xã luôn làm tốt các công tác dự phòng, các
trương trình y tế Quốc Gia. Duy trì và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
các dịch bệnh có nguy cơ xảy ra trên địa bàn. Năm 2008 tổng số khám và
điều trị cho nhân dân được 11.000/7.000 lượt người, duy trì công tác tiêm
chủng và cho trẻ em uống Vitamin đạt 100%. Tỷ lệ người sử dụng nước sạch
bằng 73%. Tổ chức khám sức khỏe cho các đối tương chính sách, tổ chức
tập huấn VSATTP và khám định kỳ cho các đối tượng kinh doanh.
- Về giáo dục
Có nhiều cơ quan trường học đóng trên địa bàn xã như: trường Mầm
Non Khánh Hòa, trường tiểu học Sơn Cẩm I, trường tiểu học Sơn Cẩm II,
4
4
trường trung học cơ sở Sơn Cẩm I, trường trung học cơ sở Sơn Cẩm II,
trường phổ thông trung học Khánh Hòa. Các trường luôn thực hiện nghiêm
túc quy định của nghành giáo dục, góp phần xây dựng nền giáo dục lành

mạnh, điều kiện học sinh học tập ngày càng tốt hơn. Làm tốt công tác
khuyến học khuyến tài.
- Về an ninh chính trị
Xã có đội ngũ dân quân, an ninh từng bước nâng cao về chất lượng.
Đẩy mạnh công tác phối hợp giữa hai lực lượng trong việc tuần tra canh gác,
đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, duy trì chế độ trực ban. Lập và làm kế
hoach hoạt động ký kết giữa hai lực lượng về đảm bảo an ninh trật tự giữa
Công an và Quận sự. Năm 2008 tổ chức tập huấn dân quân cho 121 đồng
chí, tổ chức diễn tập TA/08 đạt kết quả. Phối hợp với các đoàn thể ban
Phòng chống tội phạm – Tệ nạn xã hội tổ chức 03 buổi tuyên truyền tại xóm
Hiệp Lực, Cao Sơn 3 và Cao Sơn 2. Nói chung tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản ổn định.
*Tình hình kinh tế
Xã Sơn Cẩm có cơ cấu kinh tế đa dạng, nhiều thành phần kinh tế cùng
hoạt động: nông – Công nghiệp, Lâm nghiệp và dịch vụ, tạo mối quan hệ
hữu cơ hỗ trợ thúc đẩy nhau. Tuy vậy sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm hơn
50% bao gồm cả nghành trồng trọt và chăn nuôi. Đối với sán xuất nông
nghiệp năm 2008 năng suất bình quân đạt 51,7 tạ/ha, tổng sản phẩm lương
thực có hạt đạt; 2652,6 tấn. Chăn nuôi với quy mô nhỏ mang tinh chất tận
dụng là chủ yếu.
Trong những năm gần đây, cơ sơ hạ tầng của xã được chú ý đầu tư phát
triển, đặc biệt là hệ thống giao thông thủy lợi tạo điều kiện nhân dân đi lại,
làm ăn… thúc đẩy kinh tế của xã phát triển.
1.1.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp
* Ngành trồng trọt
Ngành trồng trọt đóng vai trò quan trọng là nguồn thu chủ yếu của
nhân dân. Do vậy sản phẩm của ngành trồng trọt được người dân quan tâm
và phát triển. Cây nông nghiệp chủ yếu và là cây trồng mũi nhọn trên địa bàn
của xã là cây lúa với diện tích trồng khá lớn (280 ha). Để nâng cao hiệu quả
5

5
sản xuất, xã đã thực hiện thâm canh tăng vụ ( 2vụ/năm) đưa các giống lúa
mới có năng suất cao vào sản xuất. Ngoài ra còn có một số cây khác được
trồng khá nhiều như: khoai lang, lạc, ngô, đậu tương… và một số rau màu
khác được trồng xen giữa các vụ lúa nhưng chủ yếu là trồng vào mùa đông.
Để nâng cao năng xuất cây trồng xã không ngừng đầu tư cải thiện hệ
thống thủy lợi, năm 2008 tu sửa tuyến mương của 2 HTX và các trạm bơm,
hồ đập chứa nước phục vụ sản xuất Người dân đã biết áp dụng các biện
pháp kỹ thuật mới vào sản xuất, mạnh dạn đưa các giống mới vào sản xuất.
- Cây ăn quả: Diện tích trồng cây ăn quả khá lớn, song diện tích vườn
tạp là chủ yếu, cây trồng thiếu tập trung lại chưa thâm canh, nên năng suất
thấp,sản phẩm chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, chưa mang tính hàng hóa.
Cây ăn quả chủ yếu là: na, nhãn, vải…
- Cây lâm nghiệp: Với đặc điểm của vùng trung du miền núi, do đó
diện tích đất đồi núi khá cao. Xã đã có chính sách giao đất, giao rừng cho các
hộ nông dân nên diện tích đất lâm nghiệp đã được nâng cao ( năm 2008 đã
trồng mới và trồng lại được 43,5 ha rừng). Xã đã hướng dẫn hoạt động và
khai thác gỗ trên địa bàn theo quy định. Trong năm 2008 giảm hiện tượng
chặt phá trái phép, làm tốt công tác phòng cháy chữa cháy, trong năm không
xảy ra cháy rừng.
* Ngành chăn nuôi
Ngành chăn nuôi của xã chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình, tận dụng các
phụ phẩm của ngành trồng trọt là chủ yếu. Tuy nhiên trong những năm gần
đây nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư vốn, kỹ thuật, con giống mới có
năng suất cao, trang thiết bị hiện đại vào chăn nuôi nên sản phẩm của ngành
chăn nuôi từng bước được nâng cao và đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của thị
trường cụ thể như sau:
- Chăn nuôi trâu bò
Tổng đàn trâu bò của xã năm 2008 khoảng 245 con, trong đó chủ yếu
là trâu. Hình thức chăn nuôi trâu bò chủ yếu là tận dụng bãi thả tự nhiên và

sản phẩm phụ của ngành trồng trọt, nên thức ăn cung cấp cho trâu bò chưa
thật đầy đủ cả về số lượng và chất lượng. Việc dự trữ thức ăn cho trâu bò vào
vụ đông chưa được quan tâm đầy đủ, vì vậy về mùa đông trâu bò thường có
sức khỏe kém nên hay mắc bệnh. Chuồng trại và công tác vệ sinh chưa được
chú trọng, từ đó trâu bò thường xuyen bị mắc các bệnh ký sinh trùng và một
số bệnh khác.
6
6
- Chăn nuôi lợn
Việc chăn nuôi lợn chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình với số lượng ít.
Thức ăn sử dụng cho chăn nuôi lợn chủ yếu là tận dụng phế phụ phẩm của
ngành trồng trọt như: ngô, khoai, sắn… vì vậy năng suất chăn nuôi lợn chưa
cao. Tuy nhiên có một số hộ gia đình mạnh dạn đầu tư vốn cho chăn nuôi,
biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như công tác thú y vào chăn
nuôi như: sử dụng các loại thức ăn hỗn hợp ngoài thị trường để rút ngắn thời
gian chăn nuôi cũng như tăng năng suất, chú trọng hơn vào công tác vệ sinh,
chọn giống cũng như phòng bệnh cho vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao
cho người chăn nuôi. Tổng sản lượng thịt hơi các loại năm 2008 là 880 tấn.
- Chăn nuôi gia cầm
Nhìn chung chăn nuôi gia cầm ở xã Sơn Cẩm khá phát triển, chủ yếu là
chăn nuôi gà theo hình thức chăn thả tự nhiên. Bên cạnh đó có một số hộ gia
đình đã đầu tư vốn xây dựng trang trại quy mô từ 3.000 – 8.000 gà thịt/ lứa,
sử dụng thức ăn hỗn hợp của một số công ty như: C.P, DaBaCo… áp dụng
lịch tiêm phòng vaccine phòng bệnh nghiêm ngặt, ngoài ra còn áp dụng các
biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên đã đưa năng suất lên cao.
Trong năm 2008 Xã đã thực hiện tiêm phòng cúm cho đàn gia cầm tổng 3
lần tiêm được 64.239 lượt con. Tổ chức phun thuốc khử trùng tiêu độc trên
địa bàn toàn xã, khống chế các loại dịch bệnh, không để xảy ra dịch bệnh
trên địa bàn.
* Công tác thú y

Công tác thú y có vai trò quan trọng đến việc chăn nuôi, nó quyết định
đến thành công hay thất bại của người chăn nuôi, đặc biệt trong điều kiện
nuôi quảng canh. Ngoài ra nó con ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Vì
vậy công tác thú y luôn được ban lãnh đạo xã quan tâm, chú trọng. Năm
2008 xã đã thực hiện tiêm phòng cho vật nuôi và đạt được một số kết quả
sau:
- Tổ chức tiêm phòng dại cho đàn chó 2 đợt được 3199con/2974 con
( trong đó bổ sung lần 2 được 225 con).
- Tiêm phòng cúm cho gia cầm tổng 3 đợt được 64.239 lượt con.
- Tổ chức tiêm phòng cho đàn trâu bò tổng 2 đợt tiêm là 453 con.
- Tổ chức tập huấn về kỹ thuật trồng lúa cao sản và cây chè được 15
lớp ở xóm, tập huấn kỹ thuật trồng trọt phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng với
7
7
500 lượt người tham gia. Tiếp tục thực hiện các ô mẫu mới về trồng trọt và
chăn nuôi.
Chính vì vậy, trong nhiều năm gần đây ngành chăn nuôi của xã phát
triển mạnh, đảm bảo an toàn.
* Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Tập trung chủ yếu các ngành sản xuất gạch đỏ, duy trì hiệu quả phát
triển tốt. năm 2008 ước tính đạt 12 triệu viên.
Cơ khí - dịch vụ duy trì và hoạt động chủ yếu là các cơ sở xóm dọc trục
đường quốc lộ và trục đường mỏ Khánh Hòa tăng thu nhập cho nhân dân.
Các doanh nghiệp trong xã tích cực đầu tư xây dựng cơ bản phát triển
sản xuất.
1.1.4. Nhận xét chung
1.1.4.1. Thuận lợi
Xã Sơn Cẩm là xã phía Nam của huyện Phú Lương có đường quốc lộ 3
chạy qua, giữa một bên là các tỉnh có trình độ phát triển tương đối thấp thuộc
vùng biên giới phía Bắc, với một bên là thành phố Thái Nguyên là vùng kinh

tế trọng điểm có trình độ phát triển tương đối cao.
Xã rất nhiều tài nguyên thiên nhiên gồm các loại nguyên liệu nông lâm
sản, quặng, than…
Xã tiếp giáp với một vùng trung tâm đào tạo và khoa học lớn của vùng
núi đó là thành phố Thái Nguyên và các trung tâm công nghiệp Sông Công
cách thành phố khoảng 30km về phía Hà Nội.
Với những điều kiện này, xã có thể gửi cán bộ kỹ thuật đi đào tạo tại
các trường trung tâm dạy nghề để về phục vụ cho xã. Ngoài ra với kết cấu hạ
tầng ngày càng hoàn thiện, gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía bắc với các
tỉnh vùng núi phía Bắc nên thu hút rất nhiều dự án đầu tư trong và ngoài
nước tạo điều kiện cho nền kinh tế của xã phát triển, cũng như việc tiếp cận
khoa học kỹ thuật của xã thuận lợi hơn.
1.1.4.2. Khó khăn
- Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chưa đồng bộ, nhiều nơi còn ở
tình trạng yếu kém, hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào địa bàn hoặc không
khuyến khích đầu tư trong dân.
8
8
Sản xuất nông nghiệp trong xã vẫn là chủ yếu, năng suất lao động xã
hội thấp, khả năng tích lũy không đáng kể.
- Không có khu vực vành đai, vùng đệm, nên công tác phòng bệnh còn
gặp nhiều khố khăn.
- Đất đai bạc màu, nghèo chất dinh dưỡng và khí hậu của một số tháng
trong năm không thuận lợi nên việc sản xuất còn gặp nhiều khó khăn.
- Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được hình thành từ lâu nên thiết bị
công nghệ quá cũ và lạc hậu, sản phẩm còn hạn chế. Các mỏ than khai thác
từ lâu, hầu như đã cạn kiệt, khó khai thác.
- Xã thiếu nhiều lao động có tay nghề cao, các nhà quản lý kinh doanh
có chuyên môn giỏi, có trình độ đáp ứng những thách thức gay gắt của nền
kinh tế thị trường.

1.2. Nội dung, phương pháp và kết quả công tác phục vụ sản xuất.
1.2.1. Nội dung phục vụ sản xuất
* Công tác ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về chăn nuôi
- Công tác giống
- Công tác thức ăn
- Công tác chăm sóc nuôi dưỡng
* Công tác thú y
Công tác thú y tại cơ sở trong thời gian thực tập chúng tôi đề ra công
việc phải thực hiện như sau:
- Ra vào trại đúng nội quy.
- Làm tốt công tác vệ sinh môi trường và xung quanh chuồng trại.
- Thực hiện nghiêm túc quy trình tiêm phòng vaccine.
- Phát hiện và điều trị bệnh kịp thời cho vật nuôi.
- Tích cực tham gia các phòng trào hoạt động chung.
1.2.2. Phương pháp tiến hành.
Trong thời gian thực tập tại cơ sơ theo yêu cầu của nội dung thực tập
tốt ngiệp tôi đề ra một số biện pháp thực tập như sau:
- Tìm hiểu kỹ tình hình chăn nuôi ở cơ sơ thực tập.
- Có kế hoạch làm việc hợp lý.
9
9
- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp qua các việc chăm sóc nuôi dưỡng,
tiêm phòng và vệ sinh thú y để nâng cao tay nghề và áp dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn.
- Luôn chấp hành tham gia các hoạt động của cơ sở, tiếp thu ý kiến của
kỹ thuật viên, của thầy giáo hướng dẫn.
- Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới mà bản thân tôi đã được
học và tìm hiểu vào thực tiễn sản xuất.
- Tích cực bám sát cơ sở để nắm bắt phát hiện những nơi có dịch bệnh
xảy ra, để có biện pháp can thiệp kịp thời.

1.2.3. Kết quả công tác phục vụ sản xuất
Trong quá trình thực tập tại xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương, được sự
giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và cán bộ xã cũng như công nhân
viên của trại, cùng với sự nỗ lực của bản thân. Tôi đã có được những kinh
nghiệm quý báu và đạt được một số kết quả như sau:
* Công tác chăn nuôi
- Công tác chuẩn bị chuồng trại nuôi gà.
Trước khi nhận gà vào nuôi, chuồng đã được để trống từ 12 – 15 ngày,
chuồng được quét dọn sạch sẽ bên trong và bên ngoài, hệ thống cống rãnh
thoát nước, nền chuồng, vách ngăn được quét vôi. Sau đó được tiến hành
phun thuốc sát trùng bằng dung dịch Farmsafe với nồng độ 1:200.
Tất cả các dụng cụ chăn nuôi như: khay ăn, máng ăn, máng uống… đều
được cọ rửa sạch sẽ, ngâm thuốc sát trùng Farmsafe trong vòng 20 phút với
tỷ lệ 1:200 và phơi nắng trước khi vào chuồng nuôi.
- Công tác chọn giống
Do cơ sở là nông hộ nuôi gia công già cho công ty Dabaco, nên công
tác chọn giống chủ yếu do cán bộ kỹ thuật đảm nhiệm. Con giống phải khỏe
mạnh, nhanh nhẹn, mắt sáng, lông mượt, chân bóng, không hở rốn, khoèo
chân, vẹo mỏ, đảm bảo trọng lượng trung bình lúc mới nhập chuồng là 40
-45 gam.
- Công tác chăm sóc nuôi dưỡng
Tùy theo từng giai đoạn phát triển của gà mà ta áp dụng quy trình nuôi
dưỡng cho phù hợp.
10
10
+ Giai đoạn úm gà con: Trước khi nhập gà ta phải pha nước uống cho
gà. Nước uống phải sạch và pha đường Glucozo 5%, nhóm bếp than và bật
đèn Gas cho nhiệt độ trong chuồng ấm trước khi gà về 1 tiếng để đảm bảo
nhiệt độ cho gà. Khi nhập gà chúng tôi tiến hành cho gà con vào quây và thả
gà vào các khay đã đổ nước trước để gà tập uống nước. Cho gà uống hết lượt

sau 2 – 3 giờ thì bỏ toàn bộ khay ra rửa sạch, lau khô để bắt đầu cho gà ăn.
Giai đoạn này yếu tố nhiệt độ rất quan trọng, trong quây là 33
0
C, sau
một tuần tuổi thì nhiệt độ giảm dần theo ngày tuổi và khi gà lớn nhiệt độ tiêu
chuẩn cho gà phát triển tốt nhất là 22
0
C.
Thường xuyên theo dõi đàn gà để điều chỉnh nhiệt độ phù hợp cho sự
phát triển của gà. Quây gà, máng ăn, máng uống rèm che đều được điều
chỉnh phù hợp theo tuổi gà ( độ lớn của gà ) ánh sáng được đảm bảo cho gà
hoạt động bình thường.
+ Giai đoạn nuôi thịt: Ở giai đoạn này thì ta thay dần máng ăn gai bằng
máng ăn dành cho gà lớn, thay mang uống nhỏ bằng máng uống tự động.
Những dụng cụ được thay thế và những dụng cụ thay thế phải được cọ rửa,
sát trùng và phơi nắng trước khi sử dụng. Hàng ngày vào các buổi sáng sớm
và đầu giờ chiều chúng tôi tiến hành cọ rửa máng uống, thu dọn máng ăn
đảm bảo máng ăn, máng uống luôn sạch sẽ. Qua quá trình chăm sóc, nuôi
dưỡng và theo dõi chúng tôi thấy rằng nhu cầu nước uống, thức ăn của gà
tăng dần theo lứa tuổi. Lượng thức ăn còn thay đổi theo thời tiết. Sau khi cho
gà uống nước khoảng 15 phút, chúng tôi tiến hành cho gà ăn, ở giai đoạn này
chúng tôi cho gà ăn tự do đến khi xuất bán.
- Chế độ chiếu sáng
Ta phải điều chỉnh chế độ chiếu sáng thích hợp để thúc đẩy cho gà ăn
nhiều hơn. Ở giai đoạn úm gà, gà cần nhiều ánh sáng để phát triển do đó chế
độ chiếu sáng ở giai đoạn này thường lớn. Tuy nhiên khi gà lớn thì chế độ
chiếu sang cần ít đi. Vì khi này ánh sáng kích thích gà vận động làm giảm
khả năng tích lũy của gà, do đó phải giảm ánh sáng để gà tăng trưởng nhanh
hơn, và tránh hiện tượng gà mổ nhau.
* Công tác thú y

- Công tác phòng bệnh cho đàn gà
Trong chăn nuôi công tác phòng dịch bệnh rất quan trọng, nó là yếu tố
quyết định đến hiệu quả chăn nuôi. Do vậy, trong quá trình chăn nuôi, chúng
tôi cùng với cán bộ kỹ thuật công nhân viên của trại thường xuyên quét dọn
11
11
chuồng trại, khai thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, phun thuốc sát trùng,
tẩy uế máng ăn, máng uống, cũng như phải sát trùng giầy dép trước khi vào
chuồng gà. Trước khi vào chuồng cho gà ăn, uống phải thay bằng quần áo
lao động được giặt sạch. Gà nuôi ở trại được sử dụng thuốc phòng bệnh theo
lịch trình sau.
- Phòng bệnh bằng vaccine
Phòng vaccine cho đàn gia cầm để có miễn dịch chủ động đảm bảo an
toàn trước dịch bệnh. Trước và sau khi sử dụng vaccine 1 ngày không được
dùng nước có pha thuốc khử nước để tránh làm ảnh hưởng đến chất lượng
của vaccine mà cho gà uống nước đường Glucoza và vitamine để tăng cường
sức đề kháng cho gà. Vaccine được pha để nhỏ mắt,mũi hay uống tùy thuộc
vào phương pháp sử dụng do nhà sản xuất vaccine khuyến cáo.
Chúng tôi sử dụng vaccine phòng bệnh cho đàn gà theo lịch phòng
bệnh như sau:
Ngày
tuổi
Loại vaccine Phương pháp dùng
7 Ma5+clone30 (ND+IB) Nhỏ 1 giọt vào mắt
14 CevacIBDL(Gumboro lần1) Nhỏ 1 giọt vào mồm
18 Gumboro D78 (lần 2) Pha vào nước cho uống
21 ND avinew+ IB H120 Pha vào nước cho uống
Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, chúng tôi luôn theo dõi tình hình
sức khỏe của đàn gà để chẩn đoán, phát hiện bệnh và có những hướng điều
trị kịp thời. Trong thời gian thực tập chúng tôi thường gặp một số bệnh như

sau:
* Bệnh nấm đường tiêu hóa
- Nguyên nhân:
+ Bệnh nấm đường tiêu hóa ở gà do một loại nấm tên là Candida
albicans gây ra.
12
12
+ Candida albicans là loại nấm men đơn bào có đường kính 2-4μ, sinh
sản thành chuỗi và sinh nội độc tố. Nhiệt độ thích hợp 20-37
o
C. Candida
albicans có sức đề kháng yếu: trong mủ, nước tiểu, nấm tồn tại trong vòng 1
tháng; ánh nắng, nước sôi diệt nhanh; ở nhiệt độ 70
o
C nấm mất hoạt lực sau
10-15 phút, nhưng sức đề kháng sẽ tăng lên trong điều kiện khô và lạnh. Các
chất hóa học như iod, formol 2%, chloramin, thuốc tím đều có tác dụng diệt
nấm tốt.
- Triệu chứng thường gặp ở 2 thể:
+ Thể cấp tính: Thể này thời gian nung bệnh trong vòng 3 ngày, chỉ
xuất hiện ở loại gia cầm con từ 5-10 ngày tuổi. Đầu tiên chỉ vài con sau lan
ra cả đàn. Gà ủ rũ, biếng ăn, tiêu chảy. Giai đoạn cuối con bệnh có thể bị liệt
chân, sau đó chết.
+ Thể á cấp tính: Thể này kéo dài trong vòng 3-15 ngày, chủ yếu ở loại
gà 10-45 ngày tuổi. Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện những đốm trắng trên niêm
mạc miệng, hầu, họng, dần dần phát triển thành màng giả lan khắp niêm
mạc. Niêm mạc bong ra để lộ những vết loét màu đỏ, sau chuyển sang màu
vàng. Giai đoạn này con vật ủ rũ, kém ăn, sau vài ngày tiêu chảy, liệt cánh,
mồm há, dần dần con vật kiệt sức chết. Bệnh ở gà 1-3 tháng tuổi ít chết và
thường chuyển sang thể mãn tính. Thông thường chỉ thấy con vật chậm lớn,

nhẹ cân; chúng trở thành nguồn truyền nhiễm.
- Bệnh tích: Bệnh tích điển hình tập trung ở niêm mạc đường tiêu hóa.
Bệnh tích ở diều rất điển hình: niêm mạc diều phủ nhiều niêm dịch màu
trắng sữa, dưới lớp dịch nhờn là những điểm trắng rải rác khắp xen kẽ với
những điểm xuất huyết. Bệnh có thể lan đến túi hơi làm vỡ túi hơi. Bệnh lan
đến dạ dày và ruột làm cho dạ dày, ruột chứa nhiều dịch nhờn màu trắng, đôi
chỗ có tụ máu xuất huyết.
- Điều trị: dùng dung dịch sulfat đồng 1gam/2lít, hoặc cho uống
Gentaviolet liều dung là 80ml+100lít nước cho uống 2 tiếng rồi đổ bỏ.
* Bệnh cầu trùng
- Nguyên nhân:
+ Là bệnh do ký sinh trùng Eimeria gây ra. Gây bệnh ở gà có 9 loại cầu
trùng khác nhau. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất ở giai đoạn từ 15 – 45 ngày tuổi.
+ Bệnh xảy ra quanh năm nhưng nặng nhất là vào vụ xuân hè khi thời
tiết nóng ẩm.
13
13
- Triệu chứng thường gặp ở 2 thể:
+ Cầu trùng manh tràng: Gà bệnh ủ rũ, bỏ ăn, uống nhiều nước, phân
lỏng lẫn máu tươi hoặc có màu sôcôla; mào, chân nhợt nhạt ( do thiếu máu );
có thể chết hàng loạt nếu không điều trị kịp thời.
+ Cầu trùng ruột non: Gà ủ rũ xù lông, cánh sã, chậm chạp ỉa chảy,
phân màu đen như bùn, đôi khi có lẫn máu, gà gầy chậm lớn, chết rải rác có
màu.
- Bệnh tích: Ruột non sưng phồng, bên trong có nhiều dịch nhầy lẫn
máu và fibrin, bề mặt niêm mạc có những đốm trắng xám.
- Điều trị: Avicoc 1gam/lít nước, cho uống 3 – 5 ngày, và để chống
chảy máu có thể kết hợp cho uống thêm Vitamin K, hoặc cho uống Coxiclin;
thành phần chính là Toltrazuril 2,5%, liều điều trị 1ml/1 lít nước.
* Bệnh CRD

- Nguyên nhân: Do Mycoplasma gallisepticum gây ra.
Gà 2 – 12 tuần tuổi và gà sắp đẻ dễ bị nhiễm hơn các lứa tuổi khác,
thường hay phát bệnh vào vụ đông xuân khi trời có mưa phùn, gió mùa, độ
ẩm không khí cao.
- Triệu chứng:
+ Thời gian ủ bệnh từ 6-21 ngày.
+ Gà trưởng thành và gà đẻ: Tăng trọng chậm, thở khò khè, chảy nước
mũi, , ăn ít, gà trở nên gầy ốm, gà đẻ giảm sản lượng trứng nhưng vẫn duy trì
ở mức độ thấp.
+ Gà thịt: Xảy ra giữa 4-8 tuần tuổi với triệu chứng nặng hơn so với
các loại gà khác do kết hợp với các mầm bệnh khác (thường với E.Coli) vì
vậy trên gà thịt còn gọi là thể kết hợp E.coli-CRD (C-CRD) với các triệu
chứng: âm rale khí quản, chảy nước mũi, ho, sưng mặt, sưng mí mắt, viêm
kết mạc.
- Phòng bệnh: Thực hiện tốt quy trình vệ sinh thú y, chuồng thông
thoáng, mật độ hợp lý, chăm sóc và nuôi dưỡng tốt, cho uống thuốc để phòng
bệnh.
- Điều trị:
+ Tyloguard 100% dạng bột, liều 110 mg/ Kg P, pha 1g + 1 lít nước
cho uống 3 – 5 ngày.
14
14
+ Enrofloxacin: liều 20mg/ Kg P, pha 1g/1 lít nước cho uống.
* Tham gia các hoạt động khác
Trong quá trình thực tập ngoài việc chăm sóc và nuôi dưỡng đàn gà thí
nghiệm bản thân tôi còn tham gia một số công việc như sau:
- Tiêu độc, khử trùng dụng cụ chăn nuôi, chuồng trại và khu vực xung
quanh.
- Chăm sóc những con gà khác không thuộc đàn gà thí nghiệm.
- Quét dọn kho để trấu và cám, đi đóng trấu.

- Thịt những con gà không đủ trọng lượng quy định của công ty để bán.
- Đóng phân gà vào bao ( khi gà đã xuất chuồng ).
- Nhổ cỏ khu vưc xung quanh chuồng trại.
- Phụ giúp gia đình chẻ mai, tre để chuẩn bị xây thêm trại mới.
* Kết quả công tác phục vụ sản xuất
Sau 5 tháng thực tập tại nông hộ thuộc xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương,
tôi đã tham gia và hoàn thành được một số công tác phục vụ sản xuất đã đề
ra. Kết quả của công tác này được thể hiện tổng quát qua bảng dưới đây:
Bảng 1.1: Kết quả công tác phục vụ sản xuất
Nội dung công việc Số lượng
(con)
Kết quả
An
toàn/khỏi
( con )
Tỷ lệ (%)
1. Nuôi dưỡng chăm sóc
- Đàn gà thịt Ross 308 6 .000 5.784 96,4
2. Phòng bệnh
- Nhỏ vaccine Newcastle 6.000 6.000 100
- Nhỏ vaccine Gumboro 5.976 5.976 100
-Cho uống vaccine Gumboro 5.864 5.864 100
15
15
- Cho uống vaccine ND-IB 5.845 5.845 100
- Cho uống thuốc tím 5.812 5.812 100
3. Điều trị bệnh
- Bệnh cầu trùng 362 349 96,40
- Bệnh CRD 5.879 5.731 97,48
4. Công tác khác

- Úm gà con 6.000 5.921 98.68
- Sát trùng chuồng trại 760m
2
760m
2
100
1.3. Kết luận
1.3.1. Bài học kinh nghiệm
Qua thời gian thực tập ở nông hộ thuộc xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương
được sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo xã, của cán bộ kỹ thuật trại, cũng như
của chủ trại, đặc biệt là sự quan tâm hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng
dẫn TS Nguyễn Đức Hùng đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi bước đầu tiếp
xúc với thực tế sản xuất. Qua đợt thực tập này tôi thấy mình đã trưởng thành
hơn rất nhiều. Điều quan trộng nhất là tôi đã rút ra được bài học kinh nghiêm
bổ ích về chuyên môn từ thực tiễn sản xuất như:
- Áp dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất.
- Nắm được quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng , quy trình phòng bệnh
cho đàn gà.
- Biết cách chuẩn đoán và biện pháp điều trị một số bệnh thông thường.
- Tay nghề thực tế được nâng cao rõ rệt.
Ngoài ra trong thời gian thực tập, do được tiếp xúc với thực tế sản xuất
đã giúp tôi có niềm tin vào bản thân, rèn luyện tác phong làm việc, trau dồi
cũng là một việc rất cần thiết đối với bản thân tôi cũng như tất cả các bạn
sinh viên trước khi tốt nghiệp ra trường.
16
16
1.3.2 Tồn tại
Trong thời gian thực tập với kết quả thu được tôi thấy mình còn những
tồn tại sau:
- Vì thời gian thực tập có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều cho

nên kết quả thu được chưa cao.
- Các kiến thức được học tập và rèn luyện ở nhà trường chưa thể vận
dụng hết vào thực tiễn sản xuất.
- Tay nghề chưa cao, đôi khi chưa mạnh dạn trong công việc.
- Qua thời gian thực tập tôi thấy từ kiến thức sách vở vận dụng vào
thực tế sản xuất là một quá trình dài, do vậy tôi nhận thấy mình cần phải học
hỏi nhiều hơn, cố gắng rèn luyện để vươn lên, khắc phục những khó khăn và
sai sót của bản thân.
17
17
Phần 2
CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tên đề tài: “Điều tra tình hình cảm nhiễm bệnh cầu trùng và bệnh
hô hấp mãn tính (CRD) trên gà thịt Ross - 308 nuôi trong nông hộ thuộc
xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên và xác định hiệu lực
điều trị bệnh CRD của hai lọai thuốc Tyloguard và Enrofloxacin. ”
2.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước đang phát triển, có trên 79% dân số sống bằng sản
xuất nông nghiệp, trong đó chăn nuôi chiếm một vị trí hết sức quan trọng.
Những năm gần đây ngành chăn nuôi nước ta nói chung và nghành chăn nuôi
gia cầm nói riêng đã và đang có xu hướng phát triển rõ rệt cả về số lượng và
chất lượng, mang lại nguồn thực phẩm cho con người. Ở nước ta hiện nay
việc chăn thả gia cầm tự nhiên (nuôi quảng canh) đang có xu hướng thu hẹp.
Nhiều nơi, nhiều hộ gia đình đã chuyển sang hướng nuôi công nghiệp (tập
trung, thâm canh).
Đứng thứ hai về cung cấp lượng thực phẩm sau thịt lợn, thời gian quay
vòng vốn nhanh, lại tận dụng sản phẩm từ ngành trồng trọt, nên ngành chăn
nuôi gia cầm ngày càng trở thành mũi nhọn phát triển nông nghiệp ở nước ta.
Theo số liệu thống kê năm 2007, tổng số đàn gia cầm ở nước ta đạt 226 triệu
con, trong đó gà đạt 157,96 triệu con. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong

ngành chăn nuôi gà, ngoài những yếu tố như: giống tốt, thức ăn, chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng… thì vấn đề phòng trị bệnh cho gà có ý nghĩa rất lớn.
Trong những năm gần đây, dịch bệnh ở đàn gia cầm nước ta có nhiều
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến số lượng và
chất lượng đàn gà. Thực tế chăn nuôi cho thấy, gà là một vật nuôi rất mẫn
cảm với bệnh truyền nhiễm như: H5N1, Newcastle, CRD… Bên cạnh những
bệnh truyền nhiễm các bệnh do ký sinh trùng gây ra cũng ảnh hưởng rất lớn
đến sự sinh trưởng , pháp triển cũng như sức sống của đàn gà như: bệnh cầu
trùng…Từ đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến kinh tế và phát triển chăn nuôi
gà.
18
18
Bệnh cầu trùng và bệnh hô hấp mãn tính (CRD – Chronic Respiratory
Diasease) là hai bệnh mắc phổ biến và gây thiệt hại kinh tế lớn nhất trong
chăn nuôi gà, đặc biệt là chăn nuôi gà công nghiệp.
Bệnh cầu trùng do một số loài cầu trùng Eimeria gây ra (chủ yếu là
Eimeria tenella và Eimeria maxima). Bệnh cầu trùng chủ yếu gây cho gà từ
15 – 45 ngày tuổi. Gà mắc bệnh cầu trùng thường chết sau 3 – 5 ngày với tỷ
lệ chết cao (40 – 60%) nếu không được điều trị kịp thời.
Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính (CRD) do vi khuẩn Gram âm là
Mycoplasma gallimarum gây ra. Tỷ lệ gà chết do CRD thường từ 15 – 20%,
nhưng điều quan trọng là gà bị viêm đường hô hấp kéo dài, làm cho gà gầy
yếu, giảm tỷ lệ tăng trọng, giảm tỷ lệ đẻ trứng, gây thiệt hại lớn về kinh tế.
Trong môi trường chăn nuôi công nghiệp, bệnh cầu trùng và bệnh CRD
là hai bệnh rất phổ biến và dễ phát sinh thành dịch. Xuất phát từ thực tế trên
chúng tôi tiến nghiên cứu đề tài: “Điều tra tình hình cảm nhiễm bệnh cầu
trùng và bệnh hô hấp mãn tính (CRD) trên gà thịt Ross - 308 nuôi trong
nông hộ thuộc xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên và xác
định hiệu lực điều trị bệnh CRD của hai lọa thuốc Tyloguard và
Enrofloxacin.”

* Mục đích của đề tài.
- Xác định tỷ lệ nhiễm bệnh cầu trùng và bệnh hô hấp mãn tính (CRD)
ở đàn gà thịt Ross 308 nuôi tại nông hộ thuộc xã Sơn Cẩm.
- Xác định hiệu lực của tyloguard và Enrofloxacin trong việc phòng và
trị bệnh CRD.
- Khuyến cáo với người chăn nuôi về tình hình cảm nhiễm và hiệu lực
điều trị bệnh CRD của hai loại thuốc Tyloguard và Enrofloxacin trên đàn gà
thịt Ross 308
* Mục tiêu của đề tài.
Thông qua việc xác định tỷ lệ nhiễm CRD và hiệu lực điều trị của hai
loại thuốc Tyloguard và Enrofloxacin, để tìm ra những biện pháp phòng và
trị bệnh CRD có hiệu quả.
19
19
2.2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.
2.2.1. Cơ sở khoa học của đề tài.
2.2.1.1. Bệnh hô hấp mãn tính ở gà (CRD)
2.2.1.1.1. Đặc điểm bệnh hô hấp mãn tính ở gà (CRD).
* Đặc điểm chung:
Bệnh hô hấp mãn tính ở gà là một bệnh truyền nhiễm của nhiều loại gia
cầm, do nhiều loài Mycoplasma gây ra. Trong đó quan trọng nhất là
Mycoplasma Gallisepticum (MG) và Mycoplasma synoviae (MS) gây ra.
Mầm bệnh MG là nguyên nhân chính gây bệnh viêm đường hô hấp mãn tính
ở gà. Bệnh này chủ yếu làm cho gà chậm lớn, tiêu tốn thức ăn cao, thuốc
điều trị tốn kém (Đào Thị Hảo, 2007 [4] ).
Bệnh CRD còn gọi là bệnh “hen gà” chúng lây lan nhanh qua đường hô
hấp, khi không khí, bụi bẩn nhiễm vi khuẩn này. Bệnh truyền dọc từ đời mẹ
sang con qua trứng, lây qua tiếp xúc trực tiếp gà bệnh, qua thức ăn…
(GS.TSKH. Lê Hồng Mận [9] ).
CRD có thể xếp theo 3 dạng sau:

+ Bệnh đường hô hấp mãn tính chính: nguyên nhân bị bệnh là do căng
thẳng (Stress) lượng vi khuẩn MG tăng làm phát bệnh, thường có kiêm
nhiễm một số vi khuẩn thứ cấp như: E.coli, Streptococcus…
+ Bệnh viêm đường hô haapsmanx tính thứ cấp: xuất phát từ gà đã bị
bệnh khác như cầu trùng, viêm phế quản truyền nhiễm… làm cơ thể yếu đi,
có dịp cho vi khuẩn MG bùng lên sinh bệnh.
+ Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính giả: thể hiện triệu chứng, bệnh
tích ở túi khí của một số bệnh khác như bệnh Mycoplasmosis ( Nguyễn
Thanh Sơn và cộng sự, 2004 [12]).
* Mầm bệnh:
Trần Thị Hồng Hạnh và cộng sự (2004) [3] đã nhận định là hầu hết các
loại gia cầm đều mẫn cảm với bệnh này. Đặc biệt ở gà nuôi theo hướng công
nghiệp thì tỷ lệ nhiễm bệnh càng cao. Bệnh này xuất hiện ở hầu hết các nước
trên thế giới. Trong những năm gần đây người ta sử dụng một số kháng sinh
như Tiamulin, Tylosin, Enrofloxacin… để điều trị nên đã khống chế được
bệnh này.
20
20
Hoàng Huy Liệu (2002) [23] cho biết CRD do 3 loài Mycoplasma gây
ra: M.gallisepticum, M.synoviae, M.meleagridis. Nhưng chủ yếu là loài
M.gallisepticum. Mycoplasma có nghĩa là “dạng nấm”, nhìn dưới kính hiển
vi thì giống như tế bào động vật nhỏ, không nhân, gallisepticum có nghĩa là
“gây độc cho gà mái”. Điều này được thấy rõ tỷ lệ nhiễm bệnh ở gà đẻ trứng
rất cao và sản lượng trứng được giảm đáng kể.
Theo Nguyễn Lân Dũng và cộng sự (2007) [2] nghiên cứu và kết luận:
Mycoplasma có kích thước ngang khoảng 150-300nm thường là 250nm khó
thấy dưới kính hiển vi quang học bình thường. Mycoplasma không có thành
tế bào, bắt màu Gram âm, có tính đa hình thái, có dạng nhỏ đến mức lọt qua
nến lọc vi khuẩn, dễ mẫn cảm với áp suất thẩm thấu, mẫn cảm với cồn, với
các chất hoạt động bề mặt (xà phòng, bột giặt…) không mẫn cảm với

Penicillin, Xicloserin, Xephalosporin, Baxitraxin và các kháng sinh khác ức
chế quá trình tổng hợp thành tế bào.
Mycoplasma là những sinh vật nguyên thủy chưa có vách tế bào, cho
nên chúng dễ bị biến đổi hình dạng, là loài vi sinh vật nhỏ nhất trong sinh
giới có đời sống dinh dưỡng độc lập. Vi khuẩn có hình dạng nhỏ riêng lẻ hay
tập chung từng đôi, từng chuỗi ngắn, hình vòng nhẫn, vòng khuyên là loại
Gram âm khó bắt màu thuốc nhuộm thông thường, phải dùng phương pháp
nhuộm Giemsa mới quan sát được. Màng của Mycoplasma chỉ là lớp màng
nguyên sinh chất dày từ 70 - 100A
0
. Trong tế bào Mycoplasma có thể thấy
các hạt riboxom và thể nhân.
Mycoplasma thuộc loại hiếu khí và hiếu khí không bắt buộc, nhiệt độ
tốt nhất là 37
0
C, pH: 7,0 – 8,0. Nó có thể phát triển tốt trên phôi gà và trên
một số môi trường nhân tạo như môi trường huyết thanh, môi trường có chứa
Hemoglubin, Xistein. Trên môi trường thạch chúng có thể tạo nên những
khuẩn lạc nhỏ bé. Khuẩn lạc có cấu tạo hạt, ở giữa có màu vàng nâu, xung
quanh trong ( trứng ốp nếp). Khi phát triển trên môi trường dịch thể,
Mycoplasma làm vẩn đục môi trường và tạo thành những kết tủa. Trong môi
trường thạch máu, Mycoplasma làm dung huyết ( Nguyễn Xuân Thành và
cộng sự, 2007) [13].
Mycoplasma bị diệt ở nhiệt độ 45-55
0
C trong vòng 15 phút. Chúng rất
mẫn cẩm với sự khô cạn, tia tử ngoại, chất sát trùng và bị ức chế bởi các chất
kháng sinh, nó ngăn cản quá trình tổng hợp protein của Mycoplasma như;
Tetracyclin, Erythomycin…
21

21
* Đặc điểm dịch tễ
MG chủ yếu gây bệnh ở gà và gà tây, tuy nhiên người ta cũng phân lập
được mầm bệnh này ở gà lôi, gà gô.công… Ở gà 2-12 tuần tuổi và gà sắp đẻ
dễ nhiễm bệnh này hơn các lứa tuổi khác, thường hay phát bệnh vào vụ đông
khi có mưa phùn, gió mùa, độ ẩm không khí cao.
Sự nhiễm bệnh MG rất dễ dàng từ con này sang con khác thông qua
tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gián tiếp. Khi MG cư trú ở đường hô hấp
trên, một lượng lớn mần bệnh được giải phóng ra môi trường xung quanh
bằng sự xuất tiết của dịch rỉ mũi, qua hô hấp và ho. Sự truyền lây phụ thuộc
vào kích thước của vùng khu trú mần bệnh, số lượng cá thể mẫn cảm và
khoảng cách giữa chúng. Những đàn gà bị nhiễm bệnh mà phải đối đầu với
các tác động bất lợi khác nữa như nồng độ amoniac ở môi trường cao, thời
tiết thay đổi đột ngột, các mầm bệnh như virus Newcastle, Gumboro, cúm…
thì có thể làm tăng bài tiết mầm bệnh MG. ( Hội bác sỹ thú y, 2008) [21]
Theo Trần Thị Hạnh và công sự (2004) [3] cho biết CRD nếu chỉ có
một mình loại Mycoplasma gây bệnh thì nhẹ nhưng nếu kế phát thì nặng hơn
hoặc bệnh phát ra trong điều kiện mới tiêm phòng các bệnh khác hay môi
trường ẩm thấp, dơ bẩn thì bệnh sẽ nặng hơn. Đặc biệt nếu ghép 3 bệnh viêm
thanh khí quản truyền nhiễm, viêm phế quản truyền nhiễm và bệnh cúm thì
bệnh càng kéo dài trầm trọng và không chữa được.
Thời gian tồn tại của MG ở ngoài cỏ thể vật chủ ( phân, lông…) thì
khác nhau từ 1 – 14 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ của vật mà nó bám. Vì vậy
việc vệ sinh quần áo, đồ dùng, dụng cụ chăn nuôi mà kém thì đó cũng là một
con đường truyền lây của bệnh. Thời gian tồn tại của bệnh được quan sát ở
lòng trắng trứng là 3 tuần ở 5
0
C, 4 ngày ở tủ ấp, 6 ngày ở nhiệt độ phòng; ở
lòng đỏ, mầm bệnh tồn tại 18 tuần ở 37
0

C, 6 tuần ở 20
0
C. Như vậy những
quả trứng giập, vỡ trong máy ấp có thể là nguồn lây lan bệnh. Điều đáng thú
vị là mầm bệnh có thể tồn tại ở trong tóc, da của người từ 1 – 2 ngày, vì vậy
người làm việc trong đàn gà bệnh có thể là yếu tố trung gian truyền bệnh.
Một con đường truyền lây bệnh khác là sự truyền lây qua trứng. Ở giai
đoạn cấp tính, MG dễ dàng tiến đến buồng trứng, tử cung và định cư ở đó,
những con gà mái này sẽ đẻ ra trứng nhiễm bệnh.MG không những được
phân lập từ phôi mà còn được phân lập từ màng lòng đỏ trứng tươi. Trong
một số trường hợp cụ thể sự lây nhiễm có thể thực hiện thông qua việc sử
dụng vaccine virus mà không được làm từ trứng sạch bệnh. MG còn được
22
22
tìm thấy ở trong tinh dịch của gà trống bị bệnh vì vậy sự truyền lây có thể
thực hiện qua con đường thụ tinh nhân tạo và từ gà trống truyền cho gà mái.
* Cơ chế sinh bệnh:
Theo Hội bác sỹ thú y (2008) [21] cho biết mầm bệnh mycoplasma
không có thành tế bào nên hình dạng của nó không cố định. Nó có thể là hình
cầu, hình sợi mảnh, có cơ quan bám dính ở một đầu, cơ quan này có hình
bán cầu, nhô ra và được gọi là “blebs”. Khi mầm bệnh xâm nhập vào vật
chủ, nó chui vào giữa các nhung mao niêm mạc đường hô hấp hoặc đường
sinh dục, phần “blebs” của vi khuẩn gắn vào phần đuôi sialic của thụ quan
sialoglycoprotein hoặc sialoglycolipit của tế bào vật chủ, sự bám dính này đủ
chắc để nó không bị đào thải ra ngoài bởi nhu động và quá trình phát triển
dịch của niêm mạc. Vì nó không có thành tế bào nên cũng có hiện tượng hòa
nhập màng tế bào vật chủ và màng nguyên sinh của vi khuẩn. Cacsenzyme
thủy phân, neuraminidase, peroxidase, heamolysin và các loại độc tố khác
được đưa vào tế bào vật chủ. Những độc tố đó có thể dẫn đến tế bào bị tổn
thương, thoái hóa và cơ thể có thể có những đáp ứng miễn dịch và sốt. Hơn

nữa sự xâm nhập của tế bào đơn nhân tới phần mô của hạ niêm mạc, một số
lượng lớn tế bào lympho và đại thực bào dẫn tới sự dày lên của phần tổ chức
bị tấn công.
* Triệu chứng:
Gà thở khò khè do nhiều dịch động ở đường hô hấp trên. Gà khó thở,
há hốc mồm ra thở, vảy mỏ, chảy nước mắt, nước mũi. Bệnh tiến triển chậm,
lúc đàu nước mũi loãng, sau đặc dần và đọng lại ở xoang mặt làm cho mặt gà
sưng lên. Gà gầy nhanh rồi chết. Các xoang lúc đầu viêm chứa thanh dịch
loãng sau biến thành fibrin đặc.
Sau khi các xoang vùng đầu bị viêm thì các niêm mạc hầu, khí quản và
các túi hơi liên hệ với nó cũng bị viêm. Con vật ngày càng thở khó, mào yếm
tím bầm, kiệt sức dần rồi chết. Nhiều trường hợp gà bệnh chết rất sớm do
ngạt thở.
Ở đàn gà đẻ bệnh làm năng suất trứng giảm xuống. Trứng ấp số lượng
bào thai chết ở ngày thứ 10 – 12 và trước khi nở tăng lên. Số còn lại nở ra
thành những gà ốm yếu.
Ngoài ra ở gà bệnh, thường là gà tây còn có hiện tượng viêm khớp,
viêm bao hoạt dịch. Một số trường hợp gà bệnh có triệu chứng thần kinh.
23
23
Trong thiên nhiên bệnh thường tiến triển theo thể mãn tính, chủ yếu ở
gà lớn. Nếu gà con bị bệnh, tỷ lệ chết có thể 5 - 40%. Tổn thất kinh tế chủ
yếu của bệnh này là giảm trọng lượng của gà thịt và giảm sản lượng trứng
của gà đẻ.
Gà con và gà dò bị bệnh thường viêm kết mạc, chảy nước mắt, ít dịch
thanh mạc ở lỗ mũi và mí mắt. Nhiều con mí mắt sưng tấy và dính vào nhau.
Thở khò khè có tiếng ran khí quản dễ phát hiện vào buổi đêm yên tĩnh. Gà
xù lông, thở khó, bỏ ăn. Bệnh kéo dài làm gà gầy nhanh và chết (Nguyễn
Thanh Sơn và cộng sự,2004) [12].
Ngoài ra bệnh CRD thường ghép với một số bệnh, từ đó triệu chứng

cũng thể hiện rất phức tạp.
* Bệnh tích:
Xác chết gầy và nhợt nhạt do thiếu máu. Niêm mạc mũi và các xoang
cạnh mũi sưng phù chứa đày dịch nhớt màu vàng hoặc màu vàng xám. Niêm
mạc họng xung huyết, sưng, đôi chỗ bị xuất huyết phủ nhiều niêm dịch
trong. Phổi phù thũng, mặt phổi phủ fibrin, rải rác một số vùng bị viêm hoại
tử. Thành các túi hơi dày lên, thủy thũng. Xoang túi hơi chứa đầy chất dịch
màu sữa, nếu bệnh chuyển thành mãn tính thì chất chứa quánh lại, cuối cùng
thành một chất khô, bở, màu vàng. Bệnh biến này xảy ra ở cả túi hơi vùng
bụng và vùng ngực. Ngoài ra gà bệnh còn bị viêm ngoại tâm mạc, viêm
quanh gan và viêm phúc mạc. Lách có thể hơi sưng.
Trong những phôi gà bị chết do lấy trứng ấp từ những con gà giống bị
nhiễm CRD. Phôi thường chết trước khi nở ở túi khí của phôi có những chất
dịch nhầy như bã đậu màu trắng.
Phạm Sỹ Lăng và cộng sự (2002) [8] đã nghiên cứu và kết luận biến
đổi vi thể thường biểu hiện rõ nhất ở khí quản và phổi.
Khí quản: hiện tượng tăng sinh và tróc các tế bào biểu mô, sự dày lên
của các màng nhầy của cơ quan cảm nhiễm cùng với sự thâm nhiễm của các
tế bào đơn nhân và sự tăng các vùng tăng sinh tế bào lympho ở dưới các
màng nhầy niêm mạc. Ngoài ra còn thấy các ống tuyến dịch của biểu mô dài
ra rõ rệt, có ý nghĩa chuẩn đoán. Những biến đổi ấy không có trong các bệnh
khác.
Phổi: xuất hiện các vùng phổi viêm và các nang lympho cũng như các
tổn thương dạng hạt. Trong mô phổi có tăng sinh lympho dạng nang, đặc biệt
trong phế quản cấp 3, viêm phổi dạng dịch với các tế bào khổng lồ.
24
24
Cũng theo www.greengroup.com.vn [24] cho thấy: Các biến đổi đều
tập trung ở đường hô hấp.
- Niêm mạc vùng thanh khí quản phù nề kèm theo xuất huyết, bị phủ

một lớp dịch nhầy, đôi khi bịt kín cả phế quản.
-Túi khí viêm tích dịch (dày và đục). Bề mặt túi khí đôi khi bị phủ một
lớp màng, hay có các chất như bã đậu đóng thành cục. Nếu bệnh ghép với
E.coli sẽ thấy màng bao quanh tim và màng bụng viêm, sưng.
- Mắt gà sưng, có một số gà bị mù bởi tuyến lệ bị viêm, loét.
- Trong một vài trường hợp gà bị viêm khớp, mổ khớp gà ta thấy khớp
gà bị sưng chứa nhiều dịch vàng loãng.
* Phương pháp chẩn đoán.
- Dựa vào đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sang và bệnh tích như
trên.
- Phân lập vi khuẩn qua bệnh phẩm, mổ khám hoặc qua các túi khí ở
phôi chết.
- Chẩn đoán bằng phương pháp kiểm tra huyết thanh: phản ứng ngưng
kết trên phiến kính, phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu, phản ứng
ELISA, Blocking ELISA, phương pháp miễm dịch đánh dấu.
- Phân biệt với các bệnh có triệu chứng đường hô hấp giống với CRD
như: bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm, bệnh cúm.
Theo Hoàng Huy Liệu (2002) [23] đã đánh giá, nên phân biệt CRD với
các bệnh dưới đây:
Bệnh Newcastle: bệnh Newcastle lây lan nhanh hơn CRD, thường biểu
hiện triệu chứng thần kinh, xác định bằng phản ứng HI.
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm: lây nhanh hơn bệnh CRD, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến phẩm chất trứng. Dùng phản ứng HI hoặc ELISA
để chẩn đoán bệnh này.
Bệnh sổ mũi truyền nhiễm: Biểu hiện viêm xoang, dung dịch xuất tiết
trong xoang phân lập được Hemophilus para gallinarum.
Bệnh tụ huyết trùng mãn tính ở gà: Gây những ổ viêm dạng bã đậu hóa
và viêm xoang. Bệnh phân lập được Pasteurella multocida.
* Phòng bệnh
25

25

×