Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Một số vấn đề lý luận về loại trừ trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.9 KB, 16 trang )

Mục lục
Mở đầu…………………………………………………………….Trang 2
Nội dung………………………………………………………… Trang 3
1, Khái niệm loại trừ trách nhiệm dân sự………………………… Trang 3
2, Các trường hợp hợp loại trừ trách nhiệm dân sự………… Trang 4
3, Vụ án về loại trừ trách nhiệm dân sự……………………… Trang 11
4, Định hướng hoàn thiện quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm dân
sự…………………………………………………………… Trang 12
Kết luận…………………………………………………………….Trang 13
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………… Trang 14
1
Mở đầu
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nền kinh tế thị
trường nước ta cũng có những chuyển biến rõ rệt, hoạt động thương mại
ngày càng phát triển, số lượng giao dịch thông qua hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại ngày càng phổ biến. Những sự cố nằm ngoài khả năng dự đoán
có thể xảy ra khiến cho một hoặc cả hai bên không thể thực hiện được nghĩa
vụ của mình dẫn đến vi phạm hợp đồng. Trong một số điều kiện nhất định,
bên có hành vi vi phạm được miễn trách nhiệm, không phải chịu các chế tài
do hành vi vi phạm gây ra. Các trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng được
quy định rõ qua các điều 302, 40, bộ luật dân sự 2005 và được cụ thể hóa trong
2
khoản 1, điều 294 bộ luật thương mại năm 2005. Vì vậy khi chọn đề tài này tôi sẽ
phân tích rõ các trường hợp cả ở luật dân sự 2005 và luật thương mại để có cái nhìn
cụ thể và khái quát nhất. Tuy nhiên Về căn cứ miễn trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng cũng tồn tại một vài điểm chưa thống nhất. Nếu bộ luật dân sự chỉ đặt ra
hai căn cứ miễn trách nhiệm là sự kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi
phạm (còn lại là trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng) thì Luật Thương mại 2005 lại quy định bốn trường hợp là căn cứ miễn trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm tại Điều 294 bao gồm: các trường hợp miễn trách
nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên


hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết
định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được
vào thời điểm giao kết hợp đồng. Tiểu luận được làm trong thời gian ngắn nên
không thể thiếu xót mong các thầy cố giáo bộ môn chiểu cố và chỉ bảo để bài của
tôi được hoàn thiện hơn.
Nội dung
1, Khái niệm loại trừ trách nhiệm dân sự ( miễn trách nhiệm dân sự)
• Khái niệm: Loại trừ trách nhiệm dân sự có nghĩa là loại trừ những hậu
quả pháp lý mà bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng phải gánh chịu
trước bên có quyền khi có những điều kiện theo quy định của pháp
luật. Loại trừ trách nhiệm dân sự là việc vừa đảm bảo quyền lợi của
các bên trong giao kết hợp đồng, vừa đảm bảo sự tự nguyện thỏa thuận
của các bên vừa hạn chế việc một bên lợi dụng căn cứ này để trốn
tránh trách nhiệm.
Có thể hiểu loại trừ trách nhiệm dân sự hay miễn trách nhiệm dân sự là việc
người có quyền trong hợp đồng dân sự cho phép bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ gây
thiệt hại không bị áp dụng một phần hoặc toàn bộ các chế tài nhằm khôi phục tình
3
trạng ban đầu về tài sản và nhân thân cho bên chủ thể bị vi phạm. Bản chất của
miễn trừ trách nhiệm dân sự là việc bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng lẽ phải gánh
chịu toàn bộ và đầy đủ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, tuy
nhiên, vì thiệt hại xảy ra trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà bên vi
phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm bồi thường thiệt
hại đó. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự,
không chỉ bảo đảm quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, bảo đảm sự tự nguyện
thỏa thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi dụng quy định về
miễn trừ trách nhiệm để trốn tránh trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, vấn đề này chưa
được pháp luật dân sự quy định cụ thể và toàn diện dẫn tới việc áp dụng trong thực
tế còn gặp nhiều khó khăn và thiếu thống nhất.
2, Các trường hợp hợp loại trừ trách nhiệm dân sự

Thứ nhất, theo các quy định tại khoản 2, 3 Điều 302, khoản 6 Điều 402 Bộ
luật dân sự 2005 thì có 03 trường hợp được miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng bao gồm: “Sự kiện bất khả kháng, thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của bên
bị vi phạm vàthỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng”. Trong khi đó, khoản
1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 lại quy định 04 căn cứ miễn trừ trách nhiệm dân
sự trong hợp đồng, bao gồm: Thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng, sự kiện
bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành
vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Như
vậy, giữa quy định của Bộ luật dân sự – bộ luật gốc, với quy định của Luật Thương
mại liên quan tới vấn đề miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng có sự không
thống nhất với nhau.

Thứ hai, Bộ luật dân sự 2005 chỉ quy định 03 căn cứ miễn trừ trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng đã nêu ở trên là chỉ mới quy định về các trường hợp miễn
trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng mà chưa có các quy định về các
trường hợp miễn trừ một phần trách nhiệm dân sự trong hợp đồng. Đó là các trường
hợp: bên vi phạm và bên bị vi phạm đều có lỗi gây thiệt hại; hai bên chủ thể trong
hợp đồng có thỏa thuận về việc miễn trừ một phần trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, tại khoản 3 Điều 302 Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định một trường
hợp được miễn trừ trách nhiệm dân sự là “bên có nghĩa vụ chứng minh được nghĩa
4
vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”. Việc lỗi hoàn toàn
do bên có quyền cũng đồng nghĩa với bên có nghĩa vụ không có lỗi. Do đó, việc
bên có nghĩa vụ chứng minh lỗi hoàn toàn thuộc về bên có quyền suy cho cùng chỉ
là một biện pháp nhằm chứng minh bên có nghĩa vụ không có lỗi. Vì vậy, bất kể lỗi
hoàn toàn do bên có quyền hay do người thứ ba hoặc không bên nào có lỗi thì bên
có nghĩa vụ cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự. Pháp luật dân sự quy định
như vậy là chưa bao quát được hết các trường hợp miễn trừ trách nhiệm dân sự khi
bên có nghĩa vụ không có lỗi. Chúng tôi cho rằng nên sửa đổi căn cứ “bên có nghĩa

vụ chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có
quyền” theo hướng “bên có nghĩa vụ chứng minh được mình không có lỗi trong
việc nghĩa vụ không thực hiện được”.
2.1, Thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng
Pháp luật dân sự quy định thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cũng là căn
cứ để miễn trách nhiệm dân sự của bên vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo
sự tôn trọng của các bên trong hợp đồng, vừa hạn chế được việc bên có lợi thế hơn
trong giao kết hợp đồng lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm dân sựthì
cần phải đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận đó. Do đó, một thỏa thuận về căn cứ
miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu như hành vi
vi phạm hợp đồng không phải do lỗi cố ý.Bởi, nếu hành vi vi phạm là do lỗi cố ý
thì sự vi phạm đó được coi là một vi phạm nặng và điều khoản về miễn trừ trách
nhiệm theo thỏa thuận trong hợp đồng sẽ bị vô hiệu.Điều này cũng phù hợp với
pháp luật một số nước trên thế giới, ví dụ như: án lệ Pháp cho phép các bên trong
quan hệ dân sự có những thỏa thuận về miễn trừ trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
bên giao kết phạm lỗi cố ý hoặc vô ý nghiêm trọng thì thỏa thuận đó không có giá
trị pháp lý. Tại khoản 4, Điều 401 Bộ luật dân sự Cộng hòa liên bang Nga cũng quy
định về việc thỏa thuận trước về hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm dân sự, và trong
trường hợp bên vi phạm có lỗi cố ý thì thỏa thuận đó không có giá trị pháp lý,…
Pháp luật thương mại đã giành quyền chủ động rất cao cho các bên tham gia
hợp đồng trong hoạt động thương mại cũng như hết sức coi trọng nguyên tắc tự do
5
thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng. Theo nguyên tắc chung, các điều
khoản của hợp đồng do các bên tự do thỏa thuận, nếu không trái với pháp luật thì
đều có giá trị pháp lý. Do vậy, các bên được quyền tự thỏa thuận các trường hợp
miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương mại. Xuất phát từ đó, luật thương
mại năm 2005 đã quy định “các bên sẽ không phải chịu trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng thương mại nếu có sự thỏa thuận của các bên về trường hợp đó được
miễn trách nhiệm” tại điểm a khoản 1 điều 294.
Về vấn đề này, pháp luật nhiều nước cũng có những quy định. Pháp luật Anh

coi thỏa thuận của các bên về trường hợp miễn trách nhiệm có hiệu lực pháp lý, tuy
nhiên, những thỏa thuận miễn trách nhiệm do vi phạm những điều kiện cơ bản của
hợp đồng thì được coi là không có hiệu lực pháp lý. Pháp luật dân sự Đức quy định,
bên vi phạm không thể được miễn trừ trách nhiệm trong tương lai do cố ý vi phạm
hợp đồng.
Chỉ mới tạm dừng ở việc so sánh qua những quy định trên đây của pháp luật
các nước với quy định của pháp luật nước ta đã thấy sự khác biệt tương đối lớn. Có
thể thấy rằng quy định của pháp luật nước ta mới chỉ dừng lại ở mức độ chung
chung, không đưa ra điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp
đồng giữa các bên. Thêm nữa, nếu so sánh với quy định trong điều 276 của Bộ luật
dân sự Đức về việc bên vi phạm không thể được miễn trừ trách nhiệm trong tương
lai do cố ý vi phạm hợp đồng. Ta có thể thấy quy định này của pháp luật Đức nhằm
hướng tới mục đích đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ hợp đồng,
nhất là hướng tới mục đích bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.Vậy còn pháp luật
nước ta thì sao? Rõ ràng đã có sự thiếu xót ở đây bởi quy định này của nước ta mới
chỉ đơn giản là công nhận trường hợp miễn trừ trách nhiệm hợp đồng đã được các
bên thỏa thuận trước mà không lưu ý tới trường hợp một trong các bên lợi dụng sự
tồn tại của điều khoản miễn trừ trách nhiệm để vi phạm hợp đồng, để họ không
6
phải chịu biện pháp chế tài nào, hậu quả là sự bất bình đẳng giữa các bên trong hợp
đồng thương mại không thể tránh khỏi.
2.2, Miễn trừ trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng
Theo quy định của điểm b khoản 1 điều 294 Luật thương mại năm 2005, bên
vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả
kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự
kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn
trách nhiệm.
Tuy nhiên, quy định trên lại chỉ ghi nhận sự kiện bất khả kháng là căn cứ
miễn trách nhiệm mà không quy định cụ thể thế nào là sự kiện bất khả kháng và
điều kiện áp dụng. Định nghĩa sự kiện bất khả kháng chỉ được quy định chung

trong Bộ luật dân sự năm 2005. Theo khoản 1 điều 161 Bộ luật dân sự, sự kiện bất
khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và
không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép. Từ quy định này cho thấy, một sự kiện được coi là bất khả kháng với tính
chất là căn cứ miễn trách nhiệm hợp đồng cần phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: (i)
Xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp đồng; (ii) Có tính chất bất thường mà các
bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được;(iii) Là nguyên nhân
dẫn đến sự vi phạm hợp đồng. Với cách hiểu như vậy, các trường hợp bất khả
kháng có thể bao gồm: Thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, đình công, sự thay đổi
chính sách, pháp luật của Nhà nước…Tuy nhiên, để được áp dụng miễn trừ do sự
kiện bất khả kháng thì bên có hành vi vi phạm phải chứng minh được sự cố dẫn đến
vi phạm hợp đồng đã thỏa mãn cả 3 điều kiện trên.
Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa
thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian
7
bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc
phục hậu quả theo quy định tại điều 296 Luật thương mại năm 2005.
Ngoài ra, Luật thương mại chỉ quy định chung chung “trường hợp xảy ra sự
kiện bất khả kháng” là một căn cứ để miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm mà
không có quy định làm rõ sự kiện này sẽ được thừa nhận là căn cứ miễn trách
nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay đối với cả bên
thứ ba trong quan hệ hợp đồng như quy định tại điều 40 pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế. Trường hợp này được Công ước viên 1980 (CISG) quy định rất rõ, theo đó,
khoản 2 điều 79 quy định bên không thực hiện hay thực hiện không đúng sẽ không
phải chịu trách nhiệm mà việc không thực hiện hay thực hiện nghĩa vụ không đúng
do trường hợp bất khả kháng. Quy định này của CISG là hoàn toàn hợp lý bởi thực
tế trong hoạt động thương mại, rất nhiều hợp đồng được kí kết giữa các bên nhằm
mua đi bán lại để kiếm lợi nhuận từ chênh lệch. Trong trường hợp này, việc thực
hiện mỗi một hợp đồng riêng biệt liên quan mật thiết đến việc thực hiện các hợp

đồng khác. Ví dụ, người bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình cho
người mua theo hợp đồng mua bán hàng hóa do bên gia công không thực hiện
nghĩa vụ của mình đối với người bán theo hợp đồng gia công sản phẩm (đối tượng
của hợp đồng mua bán chỉ có thể là sản phẩm của bên gia công và không sản phẩm
nào thay thế được). Đối với trường hợp này, khoản 2 điều 79 Công ước viên 1980
đã quy định rõ, người bán không chịu trách nhiệm với người mua do không thực
hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ trong
trường hợp, nếu người gia công không thực hiện nghĩa vụ của mình với người bán
theo hợp đồng gia công sản phẩm là do trường hợp bất khả kháng.
Về vấn đề một bên vi phạm hợp đồng do lỗi của người thứ ba (người thứ ba
không thực hiện được nghĩa vụ của mình do gặp bất khả kháng) có được coi là căn
cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm không còn có quan điểm khác. Tác giả
Quachs Thúy Quỳnh trong luận văn thạc sĩ về vấn đề: “Pháp luật về bồi thường
8
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thực trạng và phương hướng
hoàn thiện” cho rằng: coi đây là căn cứ miễn trách nhiệm là chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế và thực tiễn doanh thương. Do xét về bản chất, căn cứ miễn trách
nhiệm này hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc chịu trách nhiệm tài sản trực
tiếp giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Các bên tham gia quan hệ phải tự mình
gánh chịu các nghĩa vụ cũng như lợi ích về mặt tài sản phát sinh từ quan hệ đó. Nếu
bên thứ ba được miễn trách nhiệm trước bên có hành vi vi phạm thì đó là vấn đề
nằm trong khuôn khổ hợp đồng của hai bên đó và họ phải tự giải quyết. Hợp đồng
đó được xác lập vì lợi ích của họ nên đương nhiên trách nhiệm cũng do họ ghánh
chịu, không thể yêu cầu bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu hoặc chia sẻ ghánh
nặng đó.
2.3, Miễn trách nhiệm dân sự do lỗi hoàn toàn của bên có quyền
Tại khoản 3, điều 302, bộ luật dân sự 2005 quy định: “ Bên có nghĩa vụ
không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực
hiện được hoàn toàn là do lỗi của bên có quyền”. Hay tại khoản 2, điều 448, bộ luật
dân sự 2005 quy định về bồi thườngt hiệt hại trong thời hạn bảo hành: “Bên bán

không phải bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra do lỗi của
bên mua”. Bên có nghĩa vụ ngoài việc phải chứng minh mình không có lỗi, vừa
phải chứng minh lỗi thuộc về bên có quyền thì lúc đó mới được loại trừ trách
nhiệm hình sự
Trường hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điểm c, khoản 1, điều
294 Luật thương mại năm 2005. Theo đó, nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng
việc vi phạm đó không phải do lỗi của bên vi phạm mà là do lỗi của bên bị vi phạm
thì bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy,
căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là phải do lỗi của bên bị vi phạm.
Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm.
9
Ví dụ: Công ty A kí kết với công ty B hợp đồng gia công 1000 đôi giày. Theo
đó, công ty A phải giao toàn bộ vật liệu gia công cho công ty B để công ty B tiến
hành sản xuất. Tuy nhiên, công ty A đã giao vật liệu chậm hơn 10 ngày so với thỏa
thuận dẫn đến việc đình trệ sản xuất khiến cho việc giao hàng của công ty B bị trậm
chễ. Trong trường hợp này, nếu như trong hợp đồng không có thỏa thuận khác về
việc chậm giao vật liệu và việc chậm giao vật liệu của công ty A không phải do bất
khả kháng hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì xem như công ty A đã
có lỗi khiến cho công ty B không thể thực hiện đúng hợp đồng nên công ty B được
miễn trách nhiệm.
Ngoài ra, điều 80 công ước viên 1980 cũng có quy định tương tự: “một bên
không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chừng
mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi hay sơ xuất của chính
họ”. Như vậy, có thể thấy Luật thương mại Việt Nam năm 2005 đã đảm bảo sự
tương thích với pháp luật thương mại quốc tế trong việc quy định về trường hợp
miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà việc vi phạm đó hoàn toàn do lỗi của
bên kia.
2.4, Trường hợp vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao
kết hợp đồng

Điểm d khoản 1 điều 294 Luật thương mại năm 2005 quy định: trường hợp
hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương
mại.
Ví dụ: Công ty A chuyên sản xuất và cung cấp trứng gà cho công ty B làm
nguyên liệu để sản xuất bánh ngọt. Tuy nhiên, cơ sở sản xuất của công ty A bị
tuyên bố thuộc vùng dịch bệnh. Theo quyết định của UBND cấp Tỉnh, công ty A
10
phải hủy toàn bộ cơ sở sản xuất để tránh lây lan dịch bệnh. Thực hiện quyết định
này khiến cho công ty A không thể cung cấp trứng gà cho công ty B theo hợp đồng
đã giao kết. Trong trường hợp này, công ty A được miễn trách nhiệm đối với hành
vi vi phạm hợp đồng của mình.
Từ quy định trên đây, có thể thấy việc miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi
hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như
các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì
không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, quy định này của luật thương mại còn chưa thực sự rõ ràng. Thể
hiện ở chỗ: Thứ nhất, không có quy định hướng dẫn cụ thể cơ quan quản lý nhà
nước trong trường hợp này ra quyết định nhằm mục đích gì, những điều kiện cụ thể
để một quyết định có thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp
đồng; Thứ hai, nếu xảy ra trường hợp việc thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên bị vi phạm
hợp đồng thì sao?. Đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào được ban hành
để hướng dẫn thi hành quy định này.
3, Vụ án về loại trừ trách nhiệm dân sự
Anh Nguyễn Văn Anh giao xe mô tô của mình cho chị Nguyễn Thị Kim
Phượng (có giấy phép lái xe) mượn. Chị Phượng đưa xe này cho chị Thu điều

khiển chở chị Phượng phía sau và gây tai nạn làm anh Điền bị thương 61 %. Tại
bản án hình sự sơ thẩm số 07/HSST của TAND huyện P.về phần dân sự đã buộc chị
Thu bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Điền.
Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 24/HSPT của TAND tỉnh Q. đã huỷ phần
dân sự của bản án số 07 nói trên. Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 06/HSST của
TAND huyện P. đã buộc chị Thu và anh Nguyễn Văn Anh liên đới bồi thường thiệt
hại cho anh Điền. Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 07/HSPT của TAND tỉnh Q. đã
xử huỷ bản án hinhg sự sơ thẩm số 06 nói trên, do sai sót về phần dân sự.
11
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 01/HSST của TAND huyện P đã xử buộc anh
Nguyễn Văn Anh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Điền. Bản án Hình sự phúc
thẩm số73/HSPT của TAND tỉnh Q. đã xử y án sơ thẩm.
Tại quyết định giám đốc thẩm số 17/HS-GĐT của Toà án nhân dân Tối cao
đã xử huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 73 và bản án hình sự sơ thẩm số 01 với lý
do: Anh Nguyễn Văn Anh giao xe cho chị Phượng trong điều kiện chị Phượng có
bằng lái xe là một giao dịch dân sự hợp pháp, có hiệu lực pháp luật, do vậy anh
Anh hoàn toàn không có nghĩa vụ bồi thường trong vụ án này. Chị Phượng là người
đang chiếm hữu, sử dụng chiếc xe đó, giao cho chị Thu khi chưa được anh Anh
đồng ý, hơn nữa, khi chị Thu điều khiển xe thì chị Phượng ngồi sau nên vẫn chiếm
hữu, sử dụng xe nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại là của chị Phượng. Tuy nhiên,
chị Thu là người có lỗi gây tai nạn nên cũng phải liên đới bồi thường thiệt hại cùng
chị Phượng.
4, Định hướng hoàn thiện quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm
dân sự
• Như đã trình bày ở phần một, các căn cứ miễn trừ trách nhiệm trong hợp
đồng được quy định ở bộ Luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 vẫn
có sự khác nhau. Như vậy, cần phải có sự thống nhất giữa các văn bản
pháp luật về các trường hợp được coi là căn cứ miễn trách nhiệm để hạn
chế sự mâu thuẫn này. Do các quy định của Luật Thương mại 2005 đã
đưa ra những căn cứ hợp lý và cụ thể, vì vậy, chúng tôi đề nghị nên xây

dựng quy định về căn cứ miễn trách nhiệm trong một văn bản hướng dẫn
của bộ Luật dân sự thống nhất với quy định của Luật Thương mại 2005.
• Cần phải bổ sung những điều kiện nhất định để đảm bảo sự tôn trọng của
các bên trong hợp đồng và hạn chế việc bên có lợi thế hơn trong giao kết
hợp đồng lợi dụng căn cứ miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng để đặt ra những trường hợp miễn trách nhiệm có lợi cho mình.
Vì vậy, muốn xem xét sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng có thể
trở thành một căn cứ để miễn trách nhiệm hay không sẽ phải đánh giá tính
hợp lý của thỏa thuận đó. Một thỏa thuận bất hợp lý, không thể hiện sự
công bằng giữa các bên chủ thể thì không có đủ điều kiện pháp lý để trở
thành căn cứ miễn trách nhiệm.
• Sự kiện bất khả kháng là một trong các căn cứ miễn TNDS thường hay
xảy ra trong thực tế. Những sự kiện sau (theo nguyên tắc pháp luật chung)
có thể được coi là sự kiện bất khả kháng: thiên tai (tác động của thiên
nhiên mà con người không thể kiểm soát), hành vi có tính mệnh lệnh
hành chính (sự can thiệp của quyền lực nhà nước), sự đình công và tình
trạng chiến tranh
4
. Tuy nhiên, có thể thấy những quy định về sự kiện bất
khả kháng của bọ Luật dân sự 2005 có phần chưa cụ thể, hoặc đã được
quy định nhưng lại bị phân tán ở các điều luật khác nhau, chưa tập trung
12
và không thống nhất. Vì vậy, để được miễn trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng với căn cứ là sự kiện bất khả kháng, chúng tôi kiến nghị cần phải có
các điều kiện cụ thể hơn, chặt chẽ hơn như sau: Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện khách quan, nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng và
không thể dự đoán trước bởi các bên; đây là sự kiện xảy ra sau khi các
bên đã giao kết hợp đồng; hành vi vi phạm phải là kết quả của sự kiện bất
khả kháng; bên vi phạm đã dùng hết năng lực của mình để khắc phục hậu
quả nhưng không thể khắc phục được. Bên cạnh đó, bộ Luật dân sự chưa

có quy định về nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm cho bên bị vi phạm
về sự kiện bất khả kháng. Trên thực tế, việc thông báo về sự kiện bất khả
kháng của bên vi phạm cho bên bị vi phạm sẽ làm giảm đáng kể hoặc
ngăn ngừa thiệt hại cho bên bị vi phạm do bên vi phạm không thực hiện
được nghĩa vụ trong hợp đồng và việc thông báo về sự kiện bất khả kháng
cũng có thể coi là một căn cứ để chứng minh bên vi phạm thực sự gặp
phải sự kiện bất khả kháng.
Kết luận
Bản chất của miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm là việc bên
chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng lẽ phải gánh chịu chế tài mà pháp luật quy định
phải áp dụng với hành vi vi phạm đó, tuy nhiên, vì thiệt hại xảy ra trong những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ
hoặc một phần trách nhiệm. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan
trọng, không chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, đảm bảo sự
tự nguyện thỏa thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi
dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm để trốn tránh trách nhiệm dân sự. Tuy
nhiên, vấn đề này chưa được pháp luật thương mại cũng như dân sự quy định cụ
thể và toàn diện dẫn tới việc áp dụng trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn và
không thống nhất. Hi vọng, trong khoảng thời gian không xa tới, các cơ quan
chức năng sẽ đưa ra những quy định bổ sung và văn bản hướng dẫn cụ thể hơn
để pháp luật thương mại nói chung, pháp luật quy định về vấn đề miễn trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại được hoàn chỉnh hơn. Bài
viết dựa trên cơ sở tài liệu tham khảo trong giáo trình, trong các bài luận văn
thạc sĩ của thầy Cô, các bài viết trên mạng, kèm thêm một số ý kiến quan điểm
cá nhân. Do kiến thức còn hạn chế nên chắc chắn bài làm còn nhiều thiếu xót.
13
Rất mong nhận được sự cảm thông và góp ý của thầy, cô. Tôi xin chân thành
cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại tập 2 – trường ĐH Luật Hà Nội, nxb

CAND, HN – 2012;
2. Luật thương mại năm 2005
3. Bộ luật dân sự năm 2005
4. Hoàng Thị Hà Phương, Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại –
những vấn đề lý luận và thực tiễn – luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội –
2012
5. Nguyễn Thị Thu Huyền, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thương mại, luận văn thạc sĩ luật học. HN –
2013
6. Bài viết: “miễn trách nhiệm trong vi phạm hợp đồng thương mại” trên
trang web />dong-thuong-mai
7. Bài viết “một vài suy nghĩ về định hướng sửa đổi luật thương
mại2005” trên trang web :
/>dinh-huong-sua-doi-luat-thuong-mai-2005-211.html
14
15
16

×