TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHƯƠNG V
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Long Xuyên, T 04/2010
1. Về các khái niệm thị trường, kinh tế thị trường, cơ chế
thị trường:
Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hóa, đồng thời là một trong
những hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất
hàng hóa, nên thị trường hồn tồn có thể mang bản chất xã hội - kinh tế
khác nhau, phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản xuất, trước hết vào
chế độ sở hữu thống trị trong từng chế độ xã hội cụ thể.
Kinh tế thị trường hay kinh tế tiền tệ là phương thức kinh tế đối
lập với kinh tế tự nhiên, trong đó các sản phẩm xã hội được trao đổi
thơng qua vật trung gian là tiền tệ. Nó là một hệ thống kinh tế tồn tại
khách quan trên một trình độ phát triển tương ứng của lực lượng sản xuất
và trở thành một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất tương ứng. Nó
khơng phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo ra bằng ý chí
chủ quan của mình, mà hình thành một cách khách quan.
Cơ chế thị trường, hay cơ chế kinh tế thị trường không đồng nhất
với kinh tế thị trường. Cơ chế kinh tế thị trường hay cơ chế thị trường là
guồng máy vận hành của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường tùy
phụ thuộc vào tính chất và yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường,
song nó bị chi phối bởi yếu tố chủ quan, do con người thiết lập nên trên
cơ sở nắm bắt các quy luật phát triển khách quan. Nó phản ánh sự vận
dụng của con người bằng việc tổ chức ra guồng máy kinh tế “tự do” hay
có điều tiết của nhà nước theo yêu cầu vận động khách quan của nền
kinh tế thị trường trong các giai đoạn phát triển khác nhau.
Cơ chế thị trường vận động có sự tham gia của nhiều yếu tố,
trong đó nổi bật nhất là quan hệ thị trường cung - cầu và giá cả. Bản chất
sâu xa của cơ chế thị trường là cơ chế vận hành theo sự chi phối của quy
luật giá trị. Tuy vậy, trong một nền kinh tế hàng hóa cụ thể, sự vận động
chung còn tùy thuộc vào chế độ sở hữu thống trị, chịu sự tác động qua lại
với các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo, hơn
nữa còn chịu sự chi phối của quy luật kinh tế chủ đạo trong phương thức
sản xuất đó.
2. Cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam thời kì trước đổi mới:
a. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp:
Ở Việt Nam, cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã tồn tại
tương đối dài, từ khi hịa bình lập lại ở miền Bắc (1954) cho đến cuối
những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Tình trạng đó do 3
ngun nhân chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, do theo nhận thức lý luận cũ;
- Thứ hai, do ảnh hưởng của mô hình cũ về chủ nghĩa xã hội ở các nước
xã hội chủ nghĩa;
- Thứ ba, do yêu cầu của thực tiễn kháng chiến chống ngoại xâm.
Phải nhấn mạnh là, cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp ở Việt
Nam đã phát huy tác dụng tích cực trong việc huy động sức người, sức
của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất (1975), sự
tiếp tục tồn tại quá mức của cơ chế tập trung bao cấp đã trở thành cơ chế
kìm hãm, cản trở sự phát triển của sản xuất, đời sống, đưa đất nước rơi
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau đó.
Trước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế
hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất: Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh
hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống
dưới.
Thứ hai: Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.
Thứ ba: Quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan
hệ hiện vật là chủ yếu.
Thứ tư: Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém
năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa
quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao
động.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình
thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối
và vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua
hình thức tem phiếu.
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị vật tư,
hàng hóa thấp hơn giá trị thực nhiều lần so với giá thị trường. Do đó
hoạch tốn kinh tế chỉ là hình thức.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách: nhưng khơng có
chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho sử dụng
vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin-cho”.
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì
cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn
lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ
thể, đặc biệt trong quá trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát
triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kiềm hãm tiến
bộ khoa học- công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao
động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất
kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát
triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này
càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước
XHCN trước đây, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng
Theo cơ chế kế hoạch hố tập trung thì mọi hoạt động của cơ sở
đều phải đặt trong một kế hoạch chung của ngành, của địa phương, mọi
hoạt động của các ngành, các địa phương phải đặt trong một kế hoạch
chung của cả nước, gọi là Kế hoạch Nhà nước. Kế hoạch này, do Uỷ ban
Kế hoạch Nhà nước tổng hợp, cắt xén cho cân đối, rồi trình Quốc hội phê
duyệt Thủ tướng Chính phủ ký lệnh ban hành. Kế hoạch Nhà nước gồm
hàng triệu chỉ tiêu pháp lệnh giao cho từng ngành, từng địa phương, từng
cơ sở sản xuất lớn. Tính chất quan liêu của cơ chế này đã hạn chế và làm
triệt tiêu sáng kiến và tính năng động của cơ sở, gây bức xúc cho hàng
triệu người lao động ở cơ sở và cả những nhà quản lý các cấp dẫn đến
những vụ “vượt rào”, “xé rào”.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế
thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của
kinh tế XHCN, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị
trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa
nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì
quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng
xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép
kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng.
b. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng
hoảng kinh tế- xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế
theo hướng thị trường, tuy nhiên cịn chưa tồn diện, triệt để. Đó là
khốn sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí
thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết TW8
khóa V ( 1985) về giá – lương - tiền; thực hiện Nghị định 25 và Nghị
định 26-CP của Chính phủ… Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để
Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI
khẳng định: “ Việc bố trí lại cơ cấu
kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản
lý tập trung quan liêu, bao cấp từ
nhiều năm nay không tạo được
động lực phát triển, làm suy yếu
kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế
việc sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế khác, kìm hãm sản
xuất, làm giảm năng xuất, chất
lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong
phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.
Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trở thành nhu cầu
cần thiết và cấp bách.
Phát động
Đổi mới
3. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường thời kỳ đổi mới:
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của Đảng
cũng được đổi mới qua 4 bước như sau:
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế
của ta là kinh tế thị trường.
Bước II: Coi kinh tế thị trường khơng phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ
hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị
trường tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy
đủ hơn
a. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội
VI đến Đại hội VIII
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh
tế thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị
trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc:
Một là, kinh tế thị trường khơng phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội VII của Đảng (6/1991) xác định cơ chế
vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ
khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình
đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh
tự nguyện, thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn
các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả,
Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn
dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ
chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong
hoạt động kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển
kinh tế với phát triển xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện và
đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và c ần
thi ết sử d ụng kinh tế thị
tr tế thị trường không đối
chủ
Kinh ường để xâylập d ựng nghĩa xã hội, nó
với chủ
ngh ĩa xã trong thời kì n ướ lên ta
cịn tồn tại khách quan h ội ở quá độc chủ nghĩa xã
hội.
Là thành tựu văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị trường
khơng có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể
được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau.
Ở bất kì xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương
tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế
b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ
Đại hội IX đến Đại hội X:
Đại hội IX (tháng 4-2001) nói về nền kinh tế thị trường:
Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “...thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở
nước ta là tại Đại hội IX của Đảng lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta
đang thực hiện đó là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Khái niệm đó về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng ta nêu
lên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Hai khái niệm “kinh tế thị trường” và “kinh tế hàng hóa” có
cùng bản chất nhưng cấp độ khác nhau. Trong những năm đầu, khi
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường,
nhận thức lý luận và thực tiễn của chúng ta về nền kinh tế mới còn nhiều
khoảng trống. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bước đầu đi vào quỹ đạo của
kinh tế thị trường, trên nhiều mặt cái cũ và cái mới còn đan xen nhau.
Trong những năm đầu sau đổi mới, ngay trong giới lý luận nước ta còn
tranh luận gay gắt về những vấn đề của kinh tế thị trường. Có thể nói,
chúng ta đã đặt chân vào nền kinh tế thị trường, nhưng hiểu biết về nó và
hành động theo nó cịn rất sơ khai, nhận thức cịn chưa thống nhất. Chỉ
sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của chúng ta về nền
kinh tế thị trường mới rõ dần. Không thể bằng học tập qua sách vở hoặc
thông qua khảo sát kinh nghiệm của nước ngồi có thể đưa lại cho chúng
ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc về kinh tế thị trường chừng nào chúng ta
cịn chưa bắt tay tổ chức cơng tác thực tiễn về nó.
Kinh tế tự nhiênà có gì dùng nấsăn bắt
hái lượm.
Kinh tế tự cấp tự túcàngười làm hưởng
trước à trồng trọt chăn ni.
Kinh tế hàng hóầ cái gì tốt đem trao
đổiàtrao đổi sản phẩm.
Kinh tế thị trườngà bán ở đâu, chất lượng,
giá cả.