Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

thanh toán qua trung gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.65 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, mọi hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ và các hoạt động
khác trong nền kinh tế quốc dân cuối cùng đều được kết thúc bằng khâu thanh
toán. Các quan hệ thanh toán được thực hiện dưới hai hình thức là thanh toán trực
tiếp bằng tiền mặt và thanh toán qua các trung gian thanh toán. Thanh toán qua các
trung gian thanh toán là việc chi trả không tiến hành trực tiếp giữa người chi trả với
người thụ hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các tổ chức trung gian như Ngân
hàng, Kho bạc nhà nước… thực hiện. Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán qua
trung gian thanh toán chủ yếu là thanh toán không dùng tiền mặt nên có vai trò rất
lớn.
Việc nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ thanh toán qua trung gian tạo thành chế độ dịch vụ thanh toán qua trung gian
thanh toán. Chế độ dịch vụ thanh toán là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các trung gian thanh toán thực
hiện hoạt động dịch vụ thanh toán và các quy phạm pháp luật quy định hình thức,
phương thức thanh toán qua trung gian thanh toán, các quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ dịch vụ thanh toán. Các quy phạm pháp luật về phương tiện
thanh toán - bao gồm tiền mặt, séc, ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu hoặc
nhờ thu, thẻ ngân hàng, các phương tiện thanh toán khác - là một trong những bộ
phận cấu thành chế độ dịch vụ thanh toán.
1
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thanh toán qua trung gian
1. Khái quát chung
Thanh toán qua trung gian thanh toán là việc chi trả không tiến hành trực
tiếp giữa người chi trả với người thụ hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các tổ
chức trung gian thực hiện (ngân hàng, kho bạc nhà nước,…).
Trong việc thanh toán qua trung gian thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán theo yêu cầu của người chi trả thực hiện việc chi trả hộ hoặc theo yêu
cầu của người thụ hưởng thu hộ số tiền mà người thụ hưởng được hưởng, việc chi
trả hộ hoặc thu hộ tiền như vậy mang tính chất là một dịch vụ. Hoạt động dịch vụ


thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung gian thanh toán phân biệt với các
hoạt động ủy thác thanh toán khác bằng các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, hoạt động dịch vụ thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung
gian thanh toán gắn với chức năng hoạt động được quy định trong giấy phép thành
lập và giấy phép hoạt động. Các trung gian thanh toán là chủ thể tham gia thường
xuyên trong quan hệ thanh toán qua trung gian thanh toán.
2
Thứ hai, các hình thức thực hiện dịch vụ thanh toán được pháp luật quy định
cụ thẻ. Ví dụ: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,…
Thứ ba, hoạt động dịch vụ thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung gian
thanh toán chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng và quản lý nhà nước của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
2. Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người,
tuy nhiên nó chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày
nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế –
tài chính đối nội và đối ngoại.
Sự phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt trong thời đại hiện nay là
do yêu cầu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hóa. Khi nền kinh tế
hàng hóa phát triển ngày càng cao, khối lượng trao đổi hàng hóa trong nước cũng
như ngoài nước càng tăng lên thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an
toàn và tiết kiệm. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn gắn liền với sự
phát triển của hệ thống tài chính tín dụng, nhất là sự phát triển của hệ thống ngân
hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này đã tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, các cơ quan, các tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi và áp
dụng cách trả tiền hàng hóa, dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ
thống ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động của tiền tệ, tiền
ở đây vừa là công cụ kế toán vừa là công cụ để chuyển hóa hình thức giá trị của
hàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế hàng hóa, hình thức vận động này của tiền

tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong tổng chu chuyển tiền tệ bởi vì
hình thức vận động này của tiền tệ có những ưu điểm hơn hẳn so với vận động tiền
mặt:
Thứ nhất, thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng tốt hơn yêu cầu chuyển
hóa giá trị của hàng hóa dịch trong nền kinh tế quốc dân, nó giúp cho việc chi trả
3
tiền hàng trong nền kinh tế thuận tiện hơn vì việc chi trả có thể thực được ở bất kì
qui mô nào và ở bất kì cự li nào.
Thứ hai, thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho việc chi trả tiền hàng và
dịch vụ an toàn hơn vì nó được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của hệ thống
tín dụng dựa trên những cam kết giữa các bên tham gia thanh toán.
Thứ ba, thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động tiền tệ
tiết kiệm hơn vì chi phí tổ chức cho sự vận động này thấp hơn với vận động tiền
mặt.
Thứ tư, thanh toán không dùng tiền mặt còn có tác động tích cực đối với nền
kinh tế tài chính, nó tạo điều kiện để tập trung một nguồn vốn lớn của xã hội vào
hệ thống tín dụng để tái đầu tư vào nền kinh tế, đồng thời phát huy vai trò kiểm tra
của nhà nước vào hoạt động kinh tế tài chính.
II. So sánh các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán theo
quy định của pháp luật hiện hành
1. Cơ sở pháp lý
Theo Điều 12 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 về
hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì các phương
tiện thanh toán bao gồm: tiền mặt, séc, lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi; ủy nhiệm thu;
thẻ ngân hàng; các phương tiện thanh toán khác theo quy định của pháp luật. Theo
quy định của pháp luật hiện hành phương tiện thanh toán qua trung gian thanh toán
bao gồm:
- Séc: là một tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản, được lập trên mẫu do ngân
hàng nhà nước quy định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền nhất định từ
tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ

lệnh đó
4
- Ủy nhiệm chi là một tờ lệnh trả tiền do các đơn vị cá nhân hoặc có tài
khoản mở tại ngân hàng phát hành, yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định
từ tài khoản của mình để trả cho một người thụ hưởng nào đó.
- Ủy nhiệm thu: là một giấy ủy nhiệm do các đơn vị phát hành đề nghị ngân
hàng phục vụ mình thu hộ một số tiền nhất định từ một khách hàng nào đó.
- Thư tín dụng: là hình thức ủy nhiệm thanh toán qua ngân hàng theo đó việc
thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu kí trước ở ngân
hàng phục vụ mình để trả tiền cho bên bán theo các chứng từ của bên bán về số
lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng và theo những điều kiện sử dụng thư
tín dụng.
- Thẻ ngân hàng: là phương tiện thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán phát hành và cấp cho người sử dụng dịch vụ thanh toán để sử dụng theo
hợp đồng ký kết giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch
vụ thanh toán
2. So sánh các phương tiện thanh toán qua trung gian thanh toán
a) Chủ thể tham gia quan hệ:
• Séc: Tham gia quan hệ thanh toán bằng séc có thể là các chủ thể sau:
- Người kí phát là người lập và kí phát hành séc
- Người bị kí phát là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên
séc theo lệnh của người kí phát.
- Người thụ hưởng là người sở hữu séc với tư cách của một tron
những người sau đây: người được nhận thanh toán số tiền ghi trên séc theo chỉ định
của người kí phát, hoặc người nhận chuyển nhượng séc theo các hình thức chuyển
nhượng theo quy đinh của Luật công cụ chuyển nhượng, hoặc là người cầm giữ séc
mà tờ séc có ghi trả cho người cầm giữ.
- Người có liên quan là người tham gia vào quan hệ thanh toán bằng
séc bằng cách kí tên trên séc với tư cách là người kí phát, người chuyển nhượng,
người bảo chi hoặc người bảo lãnh…

5
- Người thu hộ là ngân hàng hay tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
khác được phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam làm dịch vụ thu hộ séc.
- Trung tâm thanh toán bù trừ séc là Ngân hàng nhà nước Việt Nam
hoặc tổ chức khác được Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp phép để tổ chức, chủ
trì việc trao đổi, thanh toán, bù trừ séc, quyết toán các nghĩa vụ tài chính phát sinh
từ việc thanh toán bù trừ séc cho các thành viên là ngân hàng, tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Các chủ thể tham gia vào quan hệ thanh toán séc trên đây có thể chia
thành hai nhóm chính sau:
- Nhóm chủ thể thực hiện dịch vụ thanh toán là các tổ chức cung ứng
séc và tham gia vào quá trình thanh toán, thu hộ séc, với tư cách là người bị kí
phát, người thu hộ, người có liên quan;
- Các tổ chức, cá nhân sử dụng séc và liên quan đến việc sử dụng séc.
• Thanh toán bằng ủy nhiệm chi:
Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng ủy nhiệm chi bao gồm:
- Bên trả tiền: (người mua hàng hóa, dịch vụ; người chuyển tiền) có
nghĩa vụ lập giấy ủy nhiệm chi theo quy định của Ngân hàng, nộp vào ngân hàng,
kho bạc nhà nước phục vụ mình (nơi mở tài khoản) để trích tài khoản của mình trả
cho bên thụ hưởng. Khi lập giấy ủy nhiệm chi phải ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác
các yếu tố khớp đúng với nội dung giữa các liên ủy nhiệm chi và kí tên đóng dấu
lên tất cả các liên ủy nhiệm chi.
- Ngân hàng và kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền có trách nhiệm
kiểm tra tính hợp lệ; hợp pháp của giấy ủy nhiệm chi, số dư tài khoản tiền gửi của
khách hàng không đủ tiền thanh toán. Phải có trách nhiệm thanh toán ngay đối với
giấy ủy nhiệm chi hợp lệ. Nếu do thiếu sót chủ quan của mình gây thiệt hại cho
khách hàng thì ngân hàng, kho bạc nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên thụ hưởng khi nhận được
chứng từ thanh toán cho ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền chuyển
đến, sau khi kiểm tra chứng từ nếu có đủ điều kiện thanh toán phải tiến hành ghi

nhận số tiền ghi trong chứng từ thanh toán vào tài khoản bên thụ hưởng.
• Thanh toán bằng ủy nhiệm thu:
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×