Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bình luận quy định về thỏa thuận trọng tài trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.53 KB, 16 trang )

TM2.HK – 16. Bình luận quy định về thỏa thuận trọng tài trong Pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003.
Lời mở đầu
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và
nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo cơ chế thị trường, các
tranh chấp kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì
doanh nghiệp cần tìm đến tổ chức nào để giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh
gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp? Một giải pháp ưu việt đó
chính là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Đây là một tổ chức phi
chính phủ, chỉ nhận giải quyết tranh chấp khi các bên có thỏa thuận về việc chọn
trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp. Pháp luật đã quy định
chi tiết về vấn đề này trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, tuy nhiên thực
tiễn 7 năm thi hành Pháp lệnh đặt ra nhiều vấn đề cần bàn luận đặc biệt là quy định
về “thỏa thuận trọng tài”. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu này sẽ làm rõ một số vấn
đề về những quy định về thỏa thuận trọng tài trong Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003, những hạn chế và hướng khắc phục.
Nội dung
I. Khái niệm trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ
tục tố tụng do Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định.
“Hoạt động thương mại” được hiểu là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua;
1
xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li – xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm
dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường
biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp
luật.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng
trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động


thương mại.
Có hai loại trọng tài là trọng tài vụ việc (ad – hoc) và trọng tài thường trực.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai mô hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ được
thành lập khi phát sinh tranh chấp và sẽ tự giải thể khi tranh chấp được giải quyết
xong. Trong khi đó, trọng tài thường trực – như chính tên gọi của nó – tồn tại có
tính chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Trọng
tài thường trực là một thực thể pháp lý độc lập với đầy đủ các dấu hiệu của một
pháp nhân, trong đó dấu hiệu quan trọng nhất là có tài sản riêng và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình. Việc lựa chọn hình thức trọng tài nào để giải quyết
tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Tuy nhiên, dù là trọng tài
thường trực hay trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước, do vậy trong hoạt động xét xử, trọng tài không được sử dụng quyền lực công
như tòa án. Chính vì hoạt động xét xử của trọng tài không gắn với quyền lực công
nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán tư.
II. Bản chất của trọng tài thương mại và nguyên tắc thỏa thuận trọng tài.
Với tư cách là cơ quan tài phán tư thì điều quan trọng cần xem xét là trọng
tài có hoạt động vì mục đích lợi nhuận hay không. Trả lời câu hỏi này cần quay trở
lại với bản chất của trọng tài. Trọng tài được lập ra nhằm mục đích giải quyết tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại và có thể giải quyết cả các tranh chấp
2
dân sự khác. Tổ chức trọng tài hoạt động xét xử mang tính chất chuyên nghiệp nên
sự tồn tại của nó hoàn toàn phụ thuộc vào doanh thu từ hoạt động xét xử (phí trọng
tài). Nói cách khác, trọng tài là một tổ chức kinh tế được lập ra để kinh doanh dịch
vụ xét xử. Với quan điểm này thì rõ ràng trọng tài hoạt động vì mục đích lợi nhuận,
tức là đổi lại việc thu phí từ khách hàng – là các bên tranh chấp, trọng tài cung cấp
dịch vụ xét xử và bảo đảm cho chất lượng của dịch vụ ấy tốt nhất thông qua việc
bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư với chi phí thấp, thủ tục đơn giản và độ
bảo mật cao khi tiến hành xét xử. Vì vậy, có thể coi tổ chức trọng tài chính là một
chủ thể kinh doanh tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ xét xử. Nhận
diện đúng yếu tố này sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước đối với trọng tài trở nên

phù hợp và hiệu quả hơn.
Hơn nữa, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dựa
trên sự thống nhất thỏa thuận của các bên nên cơ chế giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp.
Nguyên tắc này làm phát sinh hai yêu cầu: thứ nhất, ở chừng mực mà các thỏa
thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Nhà nước phải thừa nhận những
thỏa thuận đó. Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm đến mức tối đa cơ hội cho các bên
thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp. Bảo đảm hai yêu cầu này chính là
sử dụng phương pháp điều chỉnh bình đẳng, thỏa thuận của ngành luật dân sự và
luật kinh tế – một tiêu chí đã và đang được sử dụng để xác định ngành luật theo lý
thuyết về phân định ngành luật ở Việt Nam hiện nay.
III. Những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc
giải quyết tranh chấp
3
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm
nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có
giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 – 3
lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn
khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện
kiểm sát…). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh
động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối
với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo.
Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban
Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của
mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương
mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết
định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước
ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.

Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết
pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in
camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh
chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ
thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh.
Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong
vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc công
chúng) – điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh
của mình.
4
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng,
linh hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về
thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi
đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa
điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng,
hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể
làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn
phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án
cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng,
còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí
lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác

kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những
bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ
nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác,
5
quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng
tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn
trong tương lai.
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương
sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết
vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành
có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ
chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các
mặt sau: xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng
tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị
xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ
bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa
việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng
của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài
khoản tại ngân hàng.
6

×