Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Pháp luật về nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.69 KB, 40 trang )

Pháp luật về nhượng quyền thương mại
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhượng quyền thương mại - Franchising - đã ra đời và phát triển trong hơn
sáu thập kỷ qua tại nhiều nước Âu - Mỹ. Còn tại Việt Nam, dù đã manh nha
hình thành cách đây gần chục năm, nhưng hiện nay nhượng quyền thương mại
vẫn là phương thức kinh doanh hoàn toàn khá mới mẻ. Với việc chúng ta gia
nhập tổ chức thương mại thế giới thì vấn đề này càng phải được quan tâm nhiều
hơn, nó đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan quản lý phải đưa ra được những quy
định, chính sách để cho loại hình này phát triển phù hợp với thông lệ của quốc
tế và phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi đó pháp luật Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề nhượng quyền
thương mại, qua bài niên luận này em xin đi sâu vào việc tìm hiểu những quy
định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nhượng quyền thương mại.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại ,
đồng thời nghiên cứu một số nét cơ bản về hệ thống pháp luật Việt Nam về
nhượng quyền thương mại, kết hợp với việc xem xét thực trạng hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở đó đưa ra
một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều
chỉnh nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Niên luận lấy phương pháp duy vật Mac- Lênin làm phương pháp chủ đạo
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Ngoài ra niên luận còn sử dụng một số
phương pháp khác không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học pháp lý như
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp
liệt kê…các phương pháp này được sử dụng đan xen lẫn nhau để có thể xem
xét một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A1
Pháp luật về nhượng quyền thương mại


4. Cơ cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
Chương 2: Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại và thực
tiễn áp dụng.
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A2
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
1.1. Một số khái niệm trên thế giới
Khái niệm nhượng quyền của Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế
(The International Franchise Association):
Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise
Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm
nhượng quyền thương mại như sau:
"Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao
và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm
liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh
doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu
hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc
kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh
nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC
(nay là liên minh Châu Âu EU):
EC Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở hữu công
nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển
hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc

sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người
sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển
nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm ở trên.
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Mêhicô:
Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A3
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
"Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng
một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ
kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp
dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt
động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner)
thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm,
hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó."
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga:
Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của "sự
nhượng quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải
cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay
không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên
sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền
đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các
quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng
hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.."
Tất cả các Khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên
quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy
rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc một Bên độc lập
(Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng
hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh
đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu; để được phép làm

việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn chế do Bên
giao quy định.
1.2. Theo pháp luật Việt Nam
Theo Điều 284 Luật Thương mại 2005
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A4
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
“ Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1.Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu
hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2.Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
2. Đặc điểm
Theo như định nghĩa ở trên thì nhượng quyền thương mại có những đặc
điểm sau:
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại do thương nhân
thực hiện, tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại gồm có bên
nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại. Hai bên này đều
phải là các thương nhân và có tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Sau
khi nhận quyền thương mại, bên nhận quyền thương mại được tự mình tiến
hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên cơ sở sự cho phép của bên
nhượng quyền thương mại để khai thác lợi ích cho chính mình.
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại có sự chuyển
giao “ quyền thương mại” gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ đó là “ cách thức tổ
chức kinh doanh… nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo” của bên nhượng
quyền cho bên nhận quyền.

- Bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại luôn tồn
tại “ quyền kiểm soát và trợ giúp” rất gắn bó và mật thiết. Đây được coi là một
đặc điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại so với các hoạt động thương
mại khác. Nhượng quyền thương mại thực chất là việc mở rộng mô hình kinh
doanh đã thành công trên thị trường bằng cách chia sẻ quyền kinh doanh
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A5
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
thương mại cho các thương nhân nhận quyền. Tuy nhiên việc mở rộng mô hình
kinh doanh, bên nhượng quyền thương mại luôn phải đối mặt với nguy cơ giảm
uy tín thương mại nếu bên nhận quyền không thực hiện đúng cam kết. Điều này
đòi hỏi bên nhượng quyền phải kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền,
khiến bên nhận quyền phải tuân thủ chặt chẽ mô hình kinh doanh của bên
nhượng quyền, qua đó bảo vệ được thương hiệu của mình.
- Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ nhượng quyền thương mại chính là
hợp đồng nhượng quyền thương mại, chính hợp đồng thương mại thể hiện việc
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoậc chấm dứt quyền và nghĩa
vụ trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Theo Điều 285 Luật Thương mại
2005 thì “ hợp đồng thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
Tuy theo tiêu chí xem xét, người ta có thể chia ra làm nhiều loại hợp
đồng nhượng quyền.
Căn cứ vào quy mô và tính phân quyền:
a) Hợp đồng nhượng quyền đơn lẻ (Single franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền cơ bản mà bên nhượng quyền ký với bên
nhượng quyền, theo đó, bên nhận quyền được thành lập một đơn vị kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền, và không được phép nhượng quyền
lại.
b) Hợp đồng tái nhượng quyền (master franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền mà bên nhận quyền được phép nhượng
quyền lại thêm lần nữa trong phạm vi cho phép của bên nhượng quyền về

số lần được tái nhượng quyền trong một khu vực, lãnh thổ nhất định. Theo
hợp đồng này, bên nhận quyền ban đầu sẽ trở thành bên nhượng quyền thứ
cấp, bên nhượng quyền ban đầu vẫn tiếp tục được hưởng lợi từ việc tái
nhượng quyền của bên nhượng quyền thứ cấp.
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A6
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
c) Hợp đồng nhượng quyền khu vực (area franchise contract):
Theo hợp đồng này, bên nhận quyền sẽ được thành lập một số đơn vị
kinh doanh trong một khu vực nhất định theo sự cho phép của bên nhượng
quyền. Bên nhận quyền không được phép tái nhượng quyền.
Căn cứ tính chất phân phối dịch vụ, hàng hóa:
a) Hợp đồng nhượng quyền kèm phân phối:
Theo đó, bên nhận quyền phải kinh doanh dịch vụ, hàng hóa do chính
bên nhượng quyền cung cấp.
b) Hợp đồng nhượng quyền không kèm phân phối:
Theo đó, bên nhận quyền tự tổ chức sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch
vụ theo bí quyết, công nghệ do bên nhượng quyền chuyển giao. Hoặc, bên
nhận quyền phải kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được cung cấp bởi bên thứ
ba do bên nhượng quyền chỉ định thông qua hợp đồng nhượng quyền.
3. Bản chất
Trong thời gian trước đây ở Việt Nam nhượng quyền thương mại được coi
như là một dạng hoạt động chuyển giao công nghệ và chịu sự điều chỉnh của
luật về chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên về bản chất nhượng quyền thương
mại và chuyển giao công nghệ là hai hoạt động khác biệt. Nhượng quyền
thương mại chính là việc nhượng quyền kinh doanh kèm theo đó là uy tín, nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh cũng như các
kiến thức, bí quyết kinh doanh dây truyền thiết bị công nghệ cho một thương
nhân. Trên cơ sở đó thương nhân nhận quyền thương mại phát triển một cơ sở
kinh doanh mới, một cơ sở có thể bán, sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa
nhất định hoặc cung cấp các dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, phương

thức phục vụ như thương nhân nhượng quyền và dưới thương hiệu của thương
nhân nhượng quyền. Hay nói cách khác “nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của bên nhượng quyền
thông qua việc chia sẻ quyền kinh doanh trên cùng một thương hiệu cho bên
nhận quyền”. Ngược lại chuyển giao công nghệ thực chất là việc chuyển giao
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A7
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
các kiến thức kỹ thuật từ người có kiến thức cho một người khác, trên cơ sở đó
người nhận kiến thức khai thác các giá trị của công nghệ sản xuất ra hàng hóa
sản phẩm theo ý kiến chủ quan của mình chứ không phải theo một khuôn mẫu,
quy định nào từ phía bên chuyển giao công nghệ. Xuất phát từ sự khác biệt về
bản chất đó, cho nên khi sử dụng các văn bản pháp luật về chuyển giao công
nghệ điều chỉnh việc nhượng quyền thương mại đã tạo ra một số vấn đề bất cập
trong thực tiễn, nhận thức được những vấn đề bất cập đó, đồng thời để đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và tiến trình hội nhập, Luật Thương mại
2005 đã chính thức bổ sung thêm một số hoạt động thương mại vào phạm vi
điều chỉnh đó là nhượng quyền thương mại. Đây là chế định góp phần hoàn
thiện pháp luật về thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại nói
riêng. Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập, có những
nét đặc thù so với chuyển giao công nghệ.
Dưới góc độ kinh doanh, nó là một hình thức tiếp thị và phân phối hàng
hóa, dịch vụ rất hiệu quả, theo đó, bên nhận quyền được cấp quyền kinh doanh
một loại sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với các tiêu chuẩn, hệ thống, phương
thức đã được bên nhượng quyền thiết lập với sự trợ giúp, huấn luyện và kiểm
soát của bêm nhượng quyền. Đổi lại, bên nhận quyền phải trả phí nhượng
quyền và phí bản quyền cho bên nhượng quyền.
4. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM)
Hoạt động NQTM ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới
là một thực tế cho thấy đó là mô hình kinh doanh rất thành công và được các
thương nhân lựa chọn. Đây là phương thức kinh doanh không chỉ mang lại lợi

ích cho các bên tham gia mà còn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc gia
cũng như thế giới.
4.1 Đối với bên nhượng quyền
Lợi ích đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh NQTM là
nhân rộng mô hình kinh doanh mà không cần bỏ ra nhiều chi phí. Đây là điều
mà bất kì thương nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ khi mô hình kinh doanh
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A8
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
được nhân rộng đồng nghĩa với thương hiệu của mình sẽ mạnh lên, có chỗ
đứng trên thị trường và tăng khả năng cạnh tranh với các thương hiệu khác. Đối
với một thương nhân không kinh doanh theo mô hình NQTM thì điều này rất
khó khăn bởi chủ thương hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản chi phí để xây dựng
hệ thống cửa hàng của mình, phải tìm hiểu phong tục tập quán địa phương nơi
mình định đặt cửa hàng để có hướng kinh doanh phù hợp, phải tổ chức quản lí
một cách đồng bộ hệ thống kinh doanh nhượng quyền. Tuy nhiên với những
thương nhân kinh doanh NQTM thì những vấn đề trên không còn là trở ngại,
đây chính là lợi ích lớn nhất mà nên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh
theo phương thức này.
Khi thực hiện NQTM bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ
bên nhận quyền, các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí
hàng tháng và các loại phí khác, đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên
nhượng quyền, thương hiệu càng mạnh thì các khoản phí này càng cao. Như
vậy, ngoài doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình bên nhượng quyền còn
được hưởng một khoản tiền lớn mà chỉ khi kinh doanh NQTM mới có, hay nói
cách khác kinh doanh NQTM giúp bên nhượng quyền tăng doanh thu của mình
một cách đáng kể.
Lợi ích tiếp theo mà bên nhượng quyền nhận được chính là việc tiết giảm
các chi phí như phí quảng cáo, tiếp thị, các khoản chi mua nguyên liệu đặc thù.
Đối với các nguyên liệu đặc thù bên nhận quyền phải mua với số lượng lớn để
phân phối cho cả hệ thống cửa hàng nhượng quyền của mình, với số lượng lớn

như vậy bên nhượng quyền sẽ mua được nguyên liệu với giá thấp hơn so với
giá thông thường của hàng hóa đó. Các chi phí về quảng cáo, tiếp thị cũng được
tiết giảm nhờ ưu thế chia nhỏ ra cho nhiều đơn vị cùng mang một nhãn hiệu
chia sẻ với nhau thông qua phí hàng tháng của bên nhận quyền.
4.2. Đối với bên nhận quyền
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A9
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
Theo con số thống kê ở Mỹ, trung bình chỉ có khoảng 23% doanh nghiệp
nhỏ kinh doanh độc lập có thể tồn tại sau 5 năm kinh doanh, trong khi đó con
số này là 92% đối với các danh nghiệp kinh doanh NQTM . Điều đó cho thấy
tỷ lệ thành công của mô hình kinh doanh này cao hơn nhiều so với các mô hình
khác. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi bên nhận quyền sản xuất, phân phối hàng
hoá và cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền –
thường là những thương hiệu lớn và có sức cạnh tranh trên thị trường. Bên
nhận quyền chỉ cần bỏ ra một khoản tiền và đáp ứng các điều kiện của bên
nhượng quyền là có thể kinh doanh mà không phải tự xây dựng và phát triển
thương hiệu. Đây có thể được coi là khoản đầu tư an toàn và khôn ngoan của
bên nhận quyền vì khi kinh doanh dưới thương hiệu mạnh thì vấn đề hồi vốn và
thu lợi nhuận chỉ trong thời gian ngắn. Một thí nghiệm nhỏ sau sẽ cho thấy sức
mạnh của thương hiệu trên thị trường lớn như thế nào: Người ta bỏ bơ, lạc dở
và rẻ tiền vào lọ của thương hiệu mạnh và bỏ bơ, lạc ngon, đắt tiền vào lọ chưa
có thương hiệu gì cho người tiêu dùng ăn thử, kết quả là đa số mọi người cho
rằng bơ lạc dở, rẻ tiền đựng trong lọ có thương hiệu nổi tiếng ngon hơn . Điều
này chứng minh sức mạnh của thương hiệu trong quyết định mua hàng của
khách hàng, hay nói cách khác, khi mua franchise của một sản phẩm đã có
thương hiệu thì khá an tâm vì coi như họ đã chắc chắn có một lượng khách
hàng nhất định.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro
trong kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng
quyền không chỉ trước trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai

trương về các vấn đề như quảng cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các
thương hiệu được chuyển nhượng thường đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên
nhận quyền không phải mất phí bảo hộ (một khoản phí không nhỏ) như các
thương nhân kinh doanh độc lập khác và cũng không lo bị khiếu kiện liên quan
đến vấn đề bảo hộ. Không chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hỏi kinh
nghiệm quản lý, được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A10
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
nhượng quyền. So với các thương nhân kinh doanh độc lập thì đây là những
nguồn lợi rất lớn của thương nhân kinh doanh NQTM.
5. Phân biệt nhượng quyền thương mại và các hình thức kinh doanh
khác
Luật Thương mại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 01/2006 đã giúp thiết lập
một khung pháp lý rõ ràng hơn cho việc quản lý các hoạt động nhượng quyền.
Sự phát triển nhanh chóng các công trình xây dựng phục vụ ngành bán lẻ tại
các thành phố lớn cùng với sự kiện ngành bán lẻ Việt Nam đang được thế giới
đánh giá cao về tính hấp dẫn và tiềm năng phát triển đứng hàng thứ 5 trên thế
giới. Việt Nam có đầy đủ những điều kiện cần thiết để thu hút phát triển mô
hình nhượng quyền thương mại (franchise): nền kinh tế phát triển cao và ổn
định hơn 7%/năm, nền chính trị ổn định, cung cấp thị trường tiêu thụ “trẻ” hơn
84 triệu dân với mức thu nhập bình quân đầu người đang gia tăng nhanh, xuất
hiện tầng lợp tiêu dùng trẻ có thu nhập khá-cao và cộng đồng người nước ngoài
đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
Trên thực tế, nhiều thương nhân khi muốn chọn lựa một mô hình kinh
doanh phù hợp, đã nhầm lẫn nhượng quyền thương mại với các hình thức kinh
doanh khác có một số đặc điểm tương đồng.Tuy nhiên nhượng quyền thương
mại vẫn có những nét khác biệt như sau :
5.1. NQTM và lisence đối tượng sở hữu trí tuệ (SHTT)
Lisence đối tượng sở hữu trí tuệ là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ
(hoặc người được chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ chuyển giao độc quyền

quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ ) chuyển giao một phần hoặc toàn bộ
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ của mình cho cá nhân, pháp nhân hoặc
chủ thể khác, qua đó bên chuyển giao lisence sở hữu trí tuệ thu được một khoản
tiền.
Có thể thấy NQTM và lisence giống nhau ở điểm cả hai đều có hoạt động
chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ, tuy nhiên đây là hai
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A11
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
hoạt động kinh doanh hoàn toàn khác nhau, mà dựa vào một số tiêu chí sau ta
có thể phân biệt chúng:
Thứ nhất, đối tượng hợp đồng NQTM rộng hơn so với hợp đồng lisence,
ngoài các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ nó còn gồm các đối tượng khác như
phương pháp kinh doanh, chỉ dẫn, quy tắc, tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ
thuật.
Thứ hai, bên nhận chuyển giao lisence ngoài việc sử dụng đối tượng SHTT
của bên chuyển giao thì không còn mối quan hệ nào với chủ thể giao lisence.
Ngược lại, trong hợp đồng NQTM mối quan hệ giữa các chủ thể rất chặt chẽ,
bên nhận quyền phải tuân theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật do bên
nhượng quyền đặt ra đồng thời phải chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền.
Đổi lại, bên nhượng quyền có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ cho bên nhận quyền
trong suốt thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
Thứ ba, về vấn đề phí: phí trong hợp đồng lisence là phí trả cho từng đối
tượng lisence cụ thể, còn phí trong hợp đồng NQTM chính là khoản tiền trả cho
việc sử dụng tổng hợp mọi quyền SHTT được giao bởi bên nhượng quyền.
Điểm khác biệt nữa là trong hợp đồng NQTM bên nhượng quyền cho phép
bên nhận quyền được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo những
cách thức của bên nhượng quyền để sản xuất, kinh doanh. Nhưng với hợp đồng
lisence bên nhận chuyển giao chỉ được quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí
tuệ để tiến hành kinh doanh và không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào từ bên
chuyển giao lisence sở hữu trí tuệ .

5.2. NQTM và chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng một phần hoặc toàn bộ công nghê từ bên có quyền chuyển giao công nghệ
sang bên nhận công nghệ. Như vậy giữa NQTM và chuyển giao công nghệ có
đặc điểm chung chính là ở nội dung chuyển giao quy trình kỹ thuật và bí quyết
kinh doanh, vì thế giữa hai phương thức này nhiều khi vẫn có sự nhầm lẫn, Tuy
nhiên đây là hai hình thức kinh doanh khác nhau về bản chất, trong chuyển giao
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A12
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
công nghệ, bên có quyển chuyển giao có thể chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng công nghệ, nhưng trong hợp đồng NQTM, đối tượng chuyển
giao chỉ có thể là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ. Mặt khác, khi
tham gia quan hệ chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao chỉ nhằm mục
đích ứng dụng nó vào quá trình sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và hạ giá
thành sản phẩm; còn mục đích tham gia quan hệ nhượng quyền của bên nhận
quyền là việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách khai thác giá trị thương hiệu đã
thành công của bên nhượng quyền.
Sau khi được chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có thể sử dụng
theo bất kỳ tên thương mại, kiểu dáng, thương hiệu nào mà họ muốn. Ngược
lại, bên nhận quyền chỉ được sử dụng công nghệ mà mình nhận được để sản
xuất hàng hoá và cung ứng các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, dưới
nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại của bên nhượng quyền.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hai hình thức kinh doanh này
cũng khác nhau. Nếu như trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, giữa các bên
không có quan hệ gì sau khi công nghệ được chuyển giao thì ngược lại, quan hệ
giữa các chủ thể trong hợp đồng NQTM rất chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau.
5.3. NQTM và dại lý thương mại
Đại lý thương mại là hoạt đông thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên
đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá,
hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý để hưởng thù lao.

Về hình thức, NQTM và đại lý thương mại đều là việc cùng phân phối hàng
hoá, dịch vụ trên thương hiệu doanh nghiệp khác, tuy nhiên về bản chất thì
NQTM và đại lý thương mại tương đối khác nhau:
Thứ nhất, bên nhận quyền trong quan hệ NQTM là một pháp nhân độc lập,
tiến hành phân phối hàng hoá, dịch vụ cho chính mìnhvà tự hạch toán tài chính
trong hoạt động kinh doanh của mình. Còn bên nhận đại lý trong đại lý thương
mại chỉ là đại diện của doanh nghiệp trong việc phân phối, cung ứng dịch vụ
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A13
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
theo mức giá quy định của doanh nghiệp đó, bên nhận đại lý sẽ nhận được
khoản hoa hồng từ phía doanh nghiệp tính trên doanh số bán được của đại lý đó
Thứ hai, trong quan hệ đại lý thương mại bên nhận đại lý không phải trả
khoản phí nào cho doanh nghiệp khi trở thành đại lý của doanh nghiệp, không
chỉ vậy, trong suốt quá trình kinh doanh, bên nhận đại lý còn được hưởng thù
lao do bên giao đại lý trả (gọi là hoa hồng) cho hoạt động kinh doanh của mình.
Ngược lại, bên nhận quyền trong NQTM muốn than gia vào mạng lưới nhượng
quyền phải trả cho bên nhượng quyền khoản phí ban đầu để mua "quyền
thương mại", đồng thời trong suốt qúa trình kinh doanh, bên nhận quyền còn
phải đóng các khoản phí hàng tháng để tiếp tục duy trì sử dụng các đối tượng .
Một điểm phân biệt khá quan trọng giữa NQTM và đại lý thương mại chính
là cách bài trí cửa hàng. Đối với các cửa hàng nhượng quyền bên nhận quyền
bắt buộc phải bố trí thiết kế cửa hàng theo đúng quy định của bên nhượng
quyền. Nhưng với các cửa hàng đại lý, bên nhận đại lý được toàn quyền quyết
định việc bài trí cửa hàng, không chịu bất kỳ sức ép nào từ bên giao đại lý.
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A14
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại, nhà nước ta

đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh quan hệ nhượng quyền thương mại.
Quan hệ nhượng quyền thương mại rất phức tạp, phụ thuộc vào đối tượng “
quyền thương mại” được chuyển giao đến mức độ như thế nào mà mỗi hợp
đồng nhượng quyền thương mại có thể có những đặc trưng riêng và đặt ra
những yêu cầu riêng cho việc áp dụng pháp luật. Vì vậy pháp luật điều chỉnh
hoạt động nhượng quyền thương mại cũng rất đa dạng và phong phú.
Trong những năm 90, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật
hóa. Năm 1998, lần đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị
định 45/CP/1998 về chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ
“hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là franchise...”.
Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển
giao công nghệ, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng
được xem là chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều chỉnh của nghị định
này. Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng hành
vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công
nghệ.
Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận. Luật
Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8 Chương
VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng thời, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày 25/5/2006
thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký
hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A15
Pháp luật về nhượng quyền thương mại
bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát
triển tại Việt Nam.
Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã tiến
hành một cuộc điều tra với kết quả khẳng định rằng: đã tồn hơn 65 hệ thống
franchise hoạt động tại Việt Nam, đa số là các thương hiệu nước ngoài. Mặc dù

còn khá ít so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình thế hiện nay, khi
franchise đã được luật hóa, Việt Nam chính thức bước qua cửa WTO, đã có
nhiều nhận định rằng hoạt động franchise sẽ phát triển như vũ bão.
1.1. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại trong Luật
thương mại và các văn bản hướng dẫn
- Trong Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thì điều chỉnh trực tiếp
hoạt động nhượng quyền thương mại và vấn đề nhượng quyền thương mại
được ghi nhận từ Điều 284 đến Điều 291 trong Luật thương mại. Luật Thương
mại mới chỉ đề cập những vấn đề chung nhất về nhượng quyền thương mại, đó
là các quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận
quyền; nhượng quyền lại cho bên thứ 3; đăng ký nhượng quyền thương mại.
Khi thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại thì tại điều 286 và điều
287 có quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền như sau:
*“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các
quyền sau đây:
1. Nhận tiền nhượng quyền;
2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới
nhượng quyền thương mại;
3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo
đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về
chất lượng hàng hoá, dịch vụ.” (Điều 286)
*“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các
nghĩa vụ sau đây:
SVTH: Nguyễn Chí Thanh – Luật K31A16

×