Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ (Ngữ văn 10) với giáo án điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.92 KB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC
DẠNG BÀI THỰC HÀNH CÁC PHÉP TU TỪ
(NGỮ VĂN 10) VỚI GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hà
Giáo viên tổ: Ngữ Văn
Quỳnh Lưu, 2011
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin. Sự phát triển
của khoa học kĩ thuật đã tạo ra rất nhiều phương tiện hữu ích hỗ trợ đắc lực cho
công việc của con người. Riêng trong lĩnh vực giáo dục, việc ứng dụng những
thành tựu công nghệ mới đã và đang mở ra một chân trời sáng tạo mới cho các thầy
cô giáo. Nền giáo dục của kỷ nguyên thông tin là một nền giáo dục cho mọi người,
tạo điều kiện để mọi người được học, giúp cho mọi người biết cách học, biết cách
tự học, học tập liên tục, học suốt đời. Đó là một nền giáo dục hiện đại, sử dụng
rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông, mạng máy tính và Internet để tổ chức
và triển khai quá trình dạy và học với những phương pháp và hình thức linh hoạt.
Trong các công việc của người giáo viên, phần chuẩn bị bài (xây dựng kế hoạch
dạy học) là đặc biệt quan trọng. Các quốc gia trên thế giới đang có xu thế đầu tư
tăng dần các tiến bộ của công nghệ thông tin vào dạy học, trong đó có việc thiết kế
bài giảng bằng giáo án điện tử. Có thể thấy, trong phương pháp dạy học hiện đại,
không thể thiếu sự hỗ trợ của những thành tựu công nghệ thông tin.
Trong khoảng ba bốn năm trở lại đây, ở các trường phổ thông, phong trào
soạn và dạy giáo án điện tử đã diễn ra khá sôi động. Có một số giáo viên đã chịu
khó học hỏi và thu được những thành công bước đầu, tạo nên những giờ dạy mới
mẻ, thú vị và đặc biệt hiệu quả. Tuy nhiên, để có thể phát huy tối đa ưu thế của các
phương tiện mới, người giáo viên phải có những kĩ năng nhất định về máy tính và


Internet. Mặt khác, không phải ai cũng có điều kiện để nhanh chóng và kịp thời cập
nhật các thành tựu khoa học công nghệ, không ít giáo viên ngại tiếp cận với việc
ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào công việc của mình. Do đó, việc
thiết kế giáo án điện tử, dù không còn là điều mới mẻ, vẫn chưa được áp dụng rộng
rãi và đồng đều ở các bộ môn. Với các giáo viên Ngữ văn, số người thành thạo về
công nghệ thông tin lại càng không nhiều, đặc biệt là những thầy cô giáo ở các
vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy, ở các trường phổ thông, Văn là một trong những
bộ môn mà giáo viên hạn chế nhiều về công nghệ thông tin.
Dạng bài thực hành các phép tu từ chiếm một phần quan trọng trong phân
môn Tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn 10. Trước đến nay, việc dạy học các bài
2
này chủ yếu vẫn được giáo viên tổ chức theo mô hình cổ điển, nghĩa là giáo viên
bám sát sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh giải các bài tập và qua đó, củng cố
kiến thức lí thuyết cho các em. Việc đổi mới dạy học ở các giờ này còn ít, có chăng
là giáo viên dùng bảng phụ đưa thêm ngữ liệu để học sinh luyện tập. Số người sử
dụng giáo án điện tử trong giờ học dạng bài thực hành các phép tu từ còn rất ít.
Theo quan sát của bản thân, đây còn là một vấn đề mới mẻ, chưa được giáo viên và
các nhà giáo dục quan tâm đúng mức. Thảng hoặc trên báo hoặc trên mạng có bài
đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề nhưng chưa có bài nghiên cứu hay đề tài
khoa học nào đề cập trực diện và đầy đủ vấn đề này. Vì những lí do đó, chúng tôi
đã thực hiện chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học dạng bài thực
hành các phép tu từ trong chương trình Ngữ văn 10 trên cơ sở tiến hành soạn và
dạy thể nghiệm 3 tiết với giáo án điện tử Power Point.
Với đề tài này, chúng tôi vừa thể nghiệm để rút kinh nghiệm cho bản thân,
đồng thời cũng tin tưởng mình sẽ góp phần nâng cao ý thức của các giáo viên trong
lĩnh vực còn khá mới mẻ này, thiết thực thể hiện tinh thần đổi mới dạy học của
người giáo viên nhân dân trong thời kì hội nhập.
1.2. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI: gồm 3 phần.
Phần đặt vấn đề.
Phần giải quyết vấn đề gồm 3 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Cơ sở thực tiễn.
Chương III: Dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ trong chương trình
Ngữ văn 10 với giáo án điện tử
Phần kết luận và đề xuất.
3
PHẦN II: GIẢI quyÕt vÊn ®Ò
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
2.1.1. Dạy học văn và giáo án điện tử
Trong giai đoạn hiện nay, ngành giáo dục nước ta đang có những thay đổi mạnh
mẽ. Đây chính là sự vận động tất yếu của nền giáo dục nước nhà nhằm đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới, đồng thời thực hiện nhiệm vụ quan trọng và cũng rất vẻ
vang mà Đảng và nhân dân tin tưởng giao phó cho ngành. Trong quá trình đổi mới
toàn diện nền giáo dục, có yêu cầu đổi mới việc sử dụng trang thiết bị dạy học.
Phương tiện dạy học hiện đại mà đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin đã tạo
điều kiện cho giáo viên sử dụng các phương pháo dạy học mới, kích thích tối đa
năng lực chủ động, sáng tạo và hứng thú của học sinh, giúp các em thực hiện thuận
lợi các hoạt động cá nhân độc lập hoặc hoạt động nhóm.
Riêng với quá trình đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, vấn
đề được khá nhiều người quan tâm chính là đổi mới phương pháp dạy học. Định
hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá
hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên: học sinh tự giác
chủ động tìm tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ, nhận thức và có ý thức vận dụng
linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kỹ năng đã thu được. Để thực hiện được các
phương pháp dạy học mới, người giáo viên Ngữ văn hiện nay không thể không biết
gì về công nghệ thông tin, mặc dù nhìn bề ngoài, văn chương nghệ thuật có vẻ xa lạ
với máy móc, các phương tiện trang thiết bị hiện đại. Ngay từ năm 2006, tiến sĩ Đỗ
Ngọc Thống đã phải thốt lên: “Đã đến lúc, nếu không muốn nói là quá muộn, cần
nghiên cứu và triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở bộ môn
Ngữ văn một cách rộng rãi, đúng hướng và có hiệu quả” {1, 182}. Cũng theo thầy

Đỗ Ngọc Thống, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở bộ môn Ngữ
văn có thể đem lại những hiệu quả rất lớn:
“Thứ nhất, công nghệ thông tin góp phần nâng cao tiềm lực của người giáo viên
bằng cách cung cấp cho họ những phương tiện làm việc hiện đại” {1, 182}
4
“Thứ hai: công nghệ thông tin góp phần đổi mới cách dạy. cách học, đổi mới
phương pháp dạy học” {1, 184}
Năm 2008, trong tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình và sách giáo khoa
lớp 12 (tài liệu dùng trong các lớp bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình và
sách giáo khoa lớp 12 toàn quốc), các tác giả cũng đã có sự quan tâm đặc biệt đến
vấn đề “công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học”. Định hướng
đổi mới phương pháp dạy học có xác định:
“Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu
ý đến ứng dụng của công nghệ thông tin” {2, 8}. Các tác giả đã khẳng định ưu
thế của các phương tiện dạy học hiện đại trong dạy học; nêu yêu cầu của công nghệ
thông tin với vai trò của phương tiện dạy học, thiết bị dạy học; đồng thời cũng đưa
ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin ở trường trung
học.
Một trong những biểu hiện của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
là soạn giảng giáo án điện tử. Giáo án điện tử là giáo án được thiết kế qua máy vi
tính chạy trên nền (hoặc được sự hỗ trợ) của một số phần mềm cụng cụ nào đó và
được trình chiếu nội dung cho học sinh thông qua hệ thống dạy học đa phương tiện
(máy tính – máy chiếu đa năng – màn chiếu; đầu chạy đĩa CD – vô tuyến truyền
hình).
Như vậy, yêu cầu đối với dạy học trong thời hiện đại là phải gắn liền với sự đổi
mới sử dụng trang thiết bị dạy học, trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin, soạn
dạy giáo án điện tử. Đồng thời, sử dụng công nghệ thông tin có những tác dụng lớn
trong dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng là điều đã được các nhà nghiên
cứu khẳng định và thống nhất.
2.1.2. Dạng bài thực hành các phép tu từ trong chương trình Ngữ

văn 10
Dạng bài thực hành các phép tu từ trong chương trình Ngữ văn 10 nhằm mục
tiêu cụ thể như sau
- Củng cố và nâng cao kiến thức về các phép tu từ : ẩn dụ, hoán dụ, điệp, đối.
5
- Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt và kĩ năng sử dụng các phép tu
từ nói trên.
Để đạt mục tiêu trên, chương trình Ngữ văn 10 cơ bản có hai bài thực hành
các phép tu từ, theo phân phối chương trình của Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An
hiện hành được phân bố cụ thể như sau:
Tuần Tên bài Số tiết PPCT
15 Thực hành biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ 1
31 Thực hành các biện pháp tu từ phép điệp và phép đối 2
Các bài học thực hành về các phép tu từ trong chương trình Ngữ văn 10
thuộc loại bài củng cố kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã học ở lớp dưới. Do đó,
cấu trúc của bài học ngoài phần kết quả cần đạt chỉ có hoạt động luyện tập gồm
một chuỗi bài tập.
Các bài này được các tác giả sách giáo khoa biên soạn thành các dạng bài tập
được triển khai theo số thứ tự.
Cụ thể: bài Thực hành các phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ gồm hai phần: I. Ẩn
dụ, II. Hoán dụ, mỗi phần có ba bài tập. Tổng cộng có 6 bài tập
Bài Thực hành các biện pháp tu từ phép điệp và phép đối gồm hai phần: I.
Thực hành về phép điệp (điệp ngữ); II. Luyện tập về phép đối; Tổng cộng có 4 bài
tập.
Các loại bài tập cũng khá phong phú: mở đầu là loại bài thực hành với các
ngữ liệu quen thuộc nhằm gợi nhắc kiến thức lí thuyết (ví dụ: bài tập 1 trang 135, 1
trang 136 ), có bài củng cố và rèn luyện kĩ năng thực hành, nâng cao kiến thức cho
học sinh (ví dụ: bài tập I.2 trang 135, II.2 trang 137), có dạng bài mở rộng kiến
thức, bước đầu rèn luyện kĩ năng vận dụng các phép tu từ vào hoạt động nói và viết
(ví dụ: bài tập I.3 trang 135, II.3 trang 137). Như vậy, việc sắp xếp các bài tập ở

trong sách giáo khoa đã tuân theo trình tự logic với độ khó và yêu cầu ngày càng
cao, đòi hỏi học sinh phải huy động tối đa năng lực học tập từ tái hiện đến hiểu và
cuối cùng là vận dụng. Mục tiêu của bài học được thực hiện trên cơ sở giáo viên
hướng dẫn học sinh làm các bài tập thực hành.
6
Trong ba phân môn của văn thì phần Làm văn và Tiếng Việt có nhiều lợi thế
hơn trong việc sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống
khẳng định ‘‘nhìn chung các phân môn đều có thể sử dụng phương tiện dạy học từ
thô sơ đến hiện đại để góp phần đổi mới phương pháp và tạo hiệu quả cao ( ).
Tiếng Việt và làm văn có thể ứng dụng được nhiều nhất”{1, 186}. Nếu sử dụng
giáo án điện tử trong tổ chức dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ ở văn 10,
giáo viên có thể khiến giờ học trở nên sôi động hơn, việc cung cấp ngữ liệu và tổ
chức hoạt động thực hành đơn giản hơn và thuận lợi hơn cách làm với bảng đen,
phấn trắng bình thường, việc tổng kết nội dung bài học bằng các bảng so sánh cũng
sẽ trực quan và hiệu quả. Hơn nữa, bằng sự sáng tạo, đổi mới của chính mình, giáo
viên có thể kích thích tối đa hứng thú học tập và khát khao sáng tạo của học sinh,
góp phần nâng cao năng lực hoạt động, ý thức tự suy nghĩ, tìm tòi của các em. Có
thể khẳng định chắc chắn rằng công nghệ thông tin và phương tiện dạy học hiện đại
đặc biệt phát huy tác dụng trong việc dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ ở
văn 10.
Mặt khác, bằng việc tổ chức dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ ở văn
10 với giáo án điện tử, giáo viên cũng thể hiện sự quan tâm đến dạng bài này nói
riêng, phân môn tiếng Việt trong chương trình phổ thông nói chung, gián tiếp
khẳng định sự quan trọng và cần thiết của mảng kiến thức này trong hành trang
Ngữ văn của học sinh khi vào đời.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Qua điều tra và thăm dò ý kiến của các giáo viên dạy Văn trên địa bàn huyện
Quỳnh Lưu và một số trường trong tỉnh Nghệ An, tôi nhận thấy một thực tế là việc
ứng công nghệ thông tin vào dạy học ở giáo viên Văn rất hạn chế. Nếu có sử dụng
giáo án điện tử thì chỉ ở các tiết thanh tra chuyên môn hay thi giáo viên giỏi các

cấp. Ở một số trường như THPT Quỳnh Lưu 1, THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT
Quỳnh Lưu 4, THPT Yên Thành 2, THPT Phan Đăng Lưu, mỗi năm một giáo
viên cũng cố gắng soạn, dạy ít nhất là một tiết giáo án điện tử. Tuy nhiên, do việc
soạn giáo án điện tử tốn rất nhiều thời gian và đòi hỏi cao về kĩ thuật nên phần lớn
giáo viên không thực sự hào hứng với công việc này.
7
Riêng về dạng bài thực hành các phép tu từ trong Văn 10, sau thời gian khảo
sát, chúng tôi thấy các giáo viên Ngữ văn trung học phổ thông hiện nay ở huyện
Quỳnh Lưu nói riêng, tỉnh Nghệ An nói chung chưa quan tâm nhiều đến việc sử
dụng giáo án điện tử trong việc dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ trong
Văn 10. Tất nhiên, nói như vậy không phải là chúng tôi cực đoan khẳng định cứ sử
dụng giáo án điện tử thì bài giảng sẽ thành công hay ngược lại, khi sử dụng giáo án
truyền thống thì giờ học sẽ thất bại. Ở đây, chúng tôi chỉ xét ở góc độ ý thức và
năng lực ứng dụng công nghệ hiện đại vào việc dạy học một dạng bài có khả năng
khai thác hiệu quả các phương tiện hỗ trợ hiện đại.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tuy đã được đề cập nhiều
nhưng vẫn chưa thực sự là việc thường ngày, quen thuộc của mọi giáo viên. Đặc
biệt, dạng bài thực hành các phép tu từ trong chương trình Ngữ văn 10 cũng chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và cá
trang thiết bị dạy học hiện đại. Nguyên nhân chính của thực trạng này theo tôi là
khả năng sử dụng máy vi tính của giáo viên ở các trường trung học phổ thông còn
hạn chế, đặc biệt là các giáo viên Văn.
Mặc dù ở tổ Văn trường THPT Quỳnh Lưu 4 không có giáo viên nào chưa tiếp
cận với máy vi tính và Internet nhưng mức độ thành thạo còn thấp. Để giảng dạy
giáo án điện tử có hiệu quả, giáo viên buộc phải có kiến thức sâu hơn về tin học và
Internet, ứng dụng tốt hơn các phần mềm công cụ, song những kiến thức tin học cơ
bản và ứng dụng lại vẫn còn mới mẻ với đa số giáo viên, đặc biệt là với giáo viên
các bộ môn khoa học xã hội, trong đó có môn Văn. Có một sự thực rất rõ ràng rằng
phần lớn giáo viên phổ thông hầu như không được đào tạo qua một lớp nào về kĩ
thuật sử dụng vi tính, đặc biệt là các giáo viên ở vùng nông thôn. Những người

được đào tạo từ trước thì không được học về tin học. Thế hệ trẻ hơn thì chương
trình học phần tin học văn phòng ở nhà trường đại học không thực sự thiết thực và
gần gũi với công việc soạn bài bằng các phần mềm hỗ trợ. Có thể nói, những người
thành thạo hơn về máy vi tính và mạng Internet ở các trường phổ thông hiện nay
chủ yếu là nhờ tự học chứ rất ít người được đào tạo bài bản và có hệ thống. Một khi
kiến thức về tin học “manh mún”, mang tính kinh nghiệm, thiếu tính hệ thống như
vậy thì kĩ năng vi tính và sử dụng Internet tất yếu bị hạn chế. Ngay cả ở các trường
8
đại học, nơi có điều kiện vật chất và nhiều yếu tố thuận lợi hơn ở phổ thông rất
nhiều, theo đánh giá của Phạm Xuân Thông, “trình độ sử dụng vi tính của đội ngũ
giảng viên hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, nếu không nói là yếu” {9 ,38}. Trong
tình hình chung đó, số lượng giáo viên phổ thông nói chung và giáo viên Ngữ văn
trường THPT Quỳnh Lưu 4 sẵn sàng với việc thiết kế và tiến hành bài giảng điện tử
chưa nhiều. Do vậy, việc soạn giáo án trên máy nói chung, soạn giáo án điện tử nói
riêng ở các giáo viên tổ Văn mất rất nhiều thời gian.
Trong khi đó, công việc của các giáo viên văn hiện nay vẫn còn quá tải so với
mức độ bình thường. Ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 cũng như nhiều trường khác,
các thầy cô thường phải dạy quá chuẩn từ 1 đến 2 lớp, thậm chí là 3 lớp. Đó là chưa
kể các công việc chuyên môn khác như dạy ôn thi tốt nghiệp, bồi dưỡng học sinh
giỏi, dạy khối, Công việc soạn bài, chấm bài kiểm tra của môn văn cũng có nét
đặc thù, vất vả hơn các môn khác. Đa số giáo viên văn lại là nữ, ngoài việc ở
trường thì công việc gia đình cũng bận rộn hơn. Những lí do trên đây khiến quỹ
thời gian của giáo viên giảm xuống, khiến họ ít có điều kiện để học vi tính và soạn
giáo án điện tử.
Một nguyên nhân nữa cũng ảnh hưởng đến việc đổi mới dạy học phần Tiếng
Việt nói chung, dạng bài thực hành các phép tu từ nói riêng chính là thái độ của
giáo viên và học sinh đối với phân môn Tiếng Việt trong chương trình. Thực tế, khi
kiểm tra, thi cử, số điểm phần Tiếng Việt thường không cao như các phần đọc hiểu
văn bản, làm văn, thậm chí, có nhiều đề kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì
không đề cập đến mảng kiến thức Tiếng Việt. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy,

một số giáo viên vẫn quan tâm nhiều hơn đến việc đổi mới các bài đọc hiểu và làm
văn, mà chưa có sự gia công, sáng tạo đúng mức ở các bài Tiếng Việt.
Mặt khác, việc thực hiện một giờ học với giáo án điện tử so với một giờ học
bình thường phức tạp hơn rất nhiều từ khâu chuẩn bị của giáo viên đến khâu tổ
chức giờ học trên lớp. Vào giờ học với giáo án điện tử, học sinh phải chuyển sang
học ở phòng đa năng. Giáo viên mất nhiều thời gian ổn định lớp hơn bình thường.
Giờ học còn phụ thuộc nhiều hơn vào yếu tố khách quan (máy móc, điện) nên khả
năng trục trặc trong giờ học cũng cao hơn. Do vậy, với các tiết học bình thường
nhiều giáo viên ngại thực hiện giáo án điện tử.
9
Bên cạnh đó, một khó khăn không nhỏ hiện nay khi các trường áp dụng giáo án
điện tử vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị, phương tiện dạy học. Hiện nay đa số các
trường phổ thông đã trang bị phòng học đa năng phục vụ cho việc dạy học bằng
giáo án điện tử. Tuy nhiên, số lượng phòng còn ít (thường là 1-2 phòng) và số
lượng tiết dạy mỗi buổi ở phòng đa năng cũng có hạn.
Như vậy, có nhiều nguyên nhân, cả về khách quan lẫn chủ quan đã dẫn tới tình
trạng ít người quan tâm đến việc soạn dạy các bài thực hành tu từ trong văn 10 với
giáo án điện tử. Trong đó, theo tôi, yếu tố chủ quan vẫn là chủ yếu. Khi bắt tay vào
một công việc còn khá mới mẻ với mình, phần lớn mọi người đều ngại. Với tinh
thần cố gắng vượt khó cũng như với sự sáng tạo của người giáo viên thời đại công
nghệ thông tin, tôi hi vọng các thầy cô giáo sẽ sớm gặt hái được thành công khi tiếp
cận với công nghệ hiện đại và ứng dụng các thành tựu mới vào công việc dạy học.
2.3. DẠY HỌC DẠNG BÀI DẠY THỰC HÀNH CÁC PHÉP TU TỪ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 VỚI GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ:
2.3.1. Xác định mục tiêu bài học, chuẩn bị tư liệu:
Trước khi soạn giáo án, cũng như tất cả các bài học khác trong chương trình,
chúng tôi đã đọc kĩ sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu để nắm vững kiến
thức và xác định mục tiêu bài học, gồm:
- Củng cố và nâng cao kiến thức về các phép tu từ : ẩn dụ, hoán dụ, điệp, đối.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích giá trị biểu đạt và kĩ năng sử dụng các phép tu

từ nói trên.
Theo đó, hoạt động chủ yếu của giờ học chính là luyện tập thực hành để
củng cố, mở rộng kiến thức và kĩ năng. Chính vì vậy, ngữ liệu có vai trò đặc biệt
quan trọng. Ngoài các ngữ liệu có trong sách giáo khoa, chúng tôi đã cố gắng tham
khảo các tài liệu khác và tìm thêm ngữ liệu, theo yêu cầu hay, vừa sức và gần gũi
với học sinh. Hướng tìm là từ các văn bản quen thuộc mà học sinh đã được làm
quen trong các giờ đọc hiểu văn bản (như Truyện Kiều, Đại cáo bình Ngô, ca dao,
tục ngữ, Hịch tướng sĩ, thơ Bà huyện Thanh Quan, ) và các bài tập có trong sách
giáo khoa bài tập Ngữ văn 10 tập 1, 2. Đặc biệt khi đọc sách giáo khoa, chúng tôi
nhận thấy các ngữ liệu và các bài tập luyện tập mà sách đưa ra còn một số điểm cần
bổ sung: bài Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ: cần có phần phân biệt ẩn dụ
và hoán dụ (mặc dù ở lớp 8, trong phần luyện tập bài hoán dụ cũng có một câu hỏi
10
yêu cầu học sinh phân biệt ẩn dụ và hoán dụ nhưng thực tế là rất nhiều em vẫn
nhầm lẫn hai phép tu từ này); bài Thực hành phép tu từ điệp và đối: còn thiếu ngữ
liệu văn xuôi, ngữ liệu chưa phong phú, không tương xứng với thời gian một tiết
học).
Vì các phép tu từ ở đây đều đã được các em tiếp cận ở lớp dưới nên chúng
tôi đã xem lại sách giáo khoa Ngữ văn chương trình trung học cơ sở (lớp 7, 8) để
nắm vốn kiến thức của học sinh. Học sinh đã được học về khái niệm, các kiểu ẩn
dụ, hoán dụ, điệp, đối và cũng đã được làm một số bài tập luyện tập. Số lượng các
bài tập tương đối nhiều và khá phong phú. Đây sẽ là cơ sở để tổ chức hoạt động
luyện tập ở lớp.
Trong bài này, chúng tôi soạn giáo án trên phần mềm Power Point, khai thác
kho tư liệu khổng lồ trên mạng Internet, sử dụng máy chiếu để trình chiếu các nội
dung cần thiết.
Trước khi soạn giáo án, chúng tôi đã lên mạng để tìm kiếm tư liệu có liên
quan và có thể phục vụ cho bài học. Cụ thể, khi vào thư viện Violet, chúng tôi đã
tìm hiểu giáo án của các đồng nghiệp (cả giáo án thường và giáo án điện tử) về các
bài cần soạn. Cụ thể, kho vào Violet, sau khi gõ từ khoá “Thực hành các phép tu

từ” vào mục tìm kiếm, chúng tôi nhận được kết quả là các giáo án điện tử và giáo
án thường của tất cả các giáo viên đưa lên thư viện. Nhờ vậy, không những tiết
kiệm được thời gian mà quan trọng hơn chúng tôi tham khảo ý tưởng của các đồng
nghiệp, rút kinh nghiệm cho bản thân.
Để bài học hấp dẫn và gây ấn tượng với học sinh, chúng tôi cũng đã cố gắng
tìm kiếm và sử dụng một số hình ảnh phù hợp với nội dung của từng Slide để cài
làm phông nền. Các hình ảnh này được lấy từ kho hình ảnh khổng lồ trên mạng
Internet. Chỉ cần đánh từ khóa vào mục tìm kiếm hình ảnh của Google, có thể tìm
được nhiều ảnh để chọn lựa. Ví dụ: khi chuẩn bị bài Thực hành phép tu từ ẩn dụ và
hoán dụ, chúng tôi tìm hình ảnh về thuyền và bến (phục vụ ngữ liệu 1), hình ảnh về
cau, trầu (phục vụ ngữ liệu 4). Mạng cung cấp cho tôi nhiều hình ảnh khác nhau về
một đối tượng, tùy vào cách thiết kế của Slide mà chúng tôi chọn tấm hình phù hợp
(về độ sáng tối, độ rõ nét, kích cỡ, ). Trang có tổ chức trò chơi nhỏ giữa các nhóm
thì đưa thêm các hình ảnh ngộ nghĩnh, sinh động để gây hứng thú cho học sinh.
11
Các ngữ liệu đưa ra ngoài bằng cách thức chủ yếu là chữ viết trên bảng trình
chiếu, chúng tôi đã đưa thêm các đoạn âm thanh là các ngữ liệu đó được thể hiện
bằng giọng đọc hoặc ngâm của các nghệ sĩ. Điều này đặc biệt có tác dụng với các
ngữ liệu có sử dụng phép điệp hoặc phép đối. Bằng thính giác, các em sẽ cảm nhận
được rõ ràng, trực tiếp tác dụng về âm thanh của các phép tu từ mà giáo viên sẽ rất
vất vả nếu như diễn giải bằng ngôn ngữ nói bình thường. Các đoạn âm thanh này
thường không có sẵn, nên phải dùng phần mềm cắt nhạc để chọn các đoạn theo ý
mình. Phần mềm cắt nhạc có nhiều ở trên mạng, download về máy, cài đặt và sử
dụng. Thao tác khá đơn giản: đánh từ khóa “Phần mềm cắt nhạc” vào mục tìm
kiếm trong google, lựa chọn các phần mềm được giới thiệu, tham khảo hướng dẫn
sử dụng. Sau khi tải về máy, chọn một số file nhạc ngâm thơ, đọc thơ và cắt những
câu mình cần. Tất nhiên, nhiều ngữ liệu chúng tôi phải lên mạng tải về bằng cách
tìm trong google.
Ví dụ: chuẩn bị bài Thực hành phép tu từ điệp và đối, tôi lên Google, đánh
ngâm Kiều và tải được một đoạn ngâm Chị em Thúy Kiều về máy. Sử dụng phần

mềm cắt nhạc MP3 Cutter cắt lấy 4 câu có trong bài tập mà sách giáo khoa đưa ra
và chèn vào giáo án Power Point.
Ngoài ra, một công việc không thể bỏ qua là chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ
trong giờ học, gồm: kiểm tra khả năng sử dụng của máy chiếu, phòng đa năng,
USB, bảng phụ dùng cho học sinh, nam châm, bút viết bảng trắng đủ dùng cho 4
nhóm.
2.3.2. Soạn giáo án điện tử:
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các tư liệu cần thiết, chúng tôi phác thảo một giáo án
theo cấu trúc của giáo án dạy học tích cực nhằm dự kiến cách thức tổ chức giờ học
trước khi triển khai với giáo án điện tử. Chúng tôi soạn giáo án cụ thể với phần
mềm Power Point. Ở các bài thực hành này, chúng tôi khai thác tối đa hiệu quả
trình chiếu của máy, hạn chế ghi bảng. Những kiến thức chi tiết trong bài học cần
trình chiếu lên máy cho học sinh quan sát và ghi chép đã được tinh gọn đến mức
cao nhất. Tuy nhiên, không phải chữ nào có ở trên máy học sinh cũng cần ghi chép
nên trong quá trình soạn ở nhà và dạy trên lớp, chúng tôi có lưu ý để học sinh tiện
khi học. Những phần quan trọng như khái niệm, phân loại, tác dụng của các phép tu
12
từ và những lưu ý quan trọng được dùng cỡ chữ to hơn, đậm hơn và khi trình chiếu
dừng lại lâu hơn cho học sinh ghi bài.
Hệ thống đề mục, ý lớn, ý nhỏ cũng được thống nhất với nhau về cỡ chữ, màu
chữ và hiệu ứng trình chiếu để học sinh tiện theo dõi.
Bên cạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chúng tôi đã chú ý đa dạng hóa các
hình thức dạy học kết hợp các phương pháp dạy học như: làm việc theo nhóm, nêu
vấn đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, hướng dẫn học sinh tự học, tổ chức
trò chơi nhằm khai thác tối đa năng lực tự học và tính tích cực chủ động của học
sinh.
2.3.3. Giáo án cụ thể:
(xem giáo án điện tử đính kèm ở phần phụ lục trang 44)
2.3.4. Kết quả thu được:
Sau 9 tiết dạy thể nghiệm ở lớp 10A1, 10A2, 10C5 và tiến hành kiểm tra

khảo sát bằng 2 bài kiểm tra ngắn, tôi thu được một số kết quả như sau:
Bài
Tổng
số học
sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Thực hành tu từ
ẩn dụ, hoán dụ
138 52 37,7 48 34,8 38 27,5 2 1,4
Thực hành tu từ
điệp và đối
138 60 43,5 44 31,9 31 22,5 3 2,2
Trung bình 138 56 40,6 46 33,3
34,
5
25 2,5 1,8
Bảng 6: Kết quả khảo sát điểm kiểm tra 15 phút bài thực hành các phép tu từ
ở các lớp 10A1, 10A2, 10C5
Với đề bài tương tự, khi khảo sát các lớp dạy với giáo án bình thường (10A3,
10C3, 10C4), chúng tôi thu được kết quả đối chiếu như sau:
13
Bài
Tổng
số
học
sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Thực hành tu từ

ẩn dụ, hoán dụ
132 22 16,7 48 36,4 54 40,9 8 6,1
Thực hành tu từ
điệp và đối
132 26 19,7 42 31,8 58 43,9 6 4,5
Trung bình 132 24 18,2 45 30,9 56 42,4 7 5,3
Bảng 7 (Đối chiếu): Kết quả khảo sát điểm kiểm tra 15 phút bài thực hành các phép
tu từ ở các lớp 10 A3 (sĩ số 45), 10C1 (sĩ số 44), 10C2 (sĩ số 43)
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Nhóm thử
nghiệm
40,6% 33,3% 25% 1,8%
Nhóm đối
chiếu
18,2%
30,9% 42,4% 5,3%
Bảng 8: So sánh kết quả giữa hai nhóm
Tương quan kết quả được thể hiện bằng biểu đồ như sau:
14
Kết quả
nhóm
Biểu đồ 1: Kết quả đối chiếu điểm khảo sát của hai nhóm.
Biểu đồ kết quả đối chiếu đã thể hiện rõ ưu điểm của bài dạy có áp dụng giáo
án điện tử với bài dạy dùng giáo án truyền thống. Tỉ lệ học sinh ở nhóm thử nghiệm
đạt điểm số giỏi, khá cao hơn, số bài điểm yếu thấp hơn so với tỉ lệ tương ứng ở
nhóm đối chiếu chứng tỏ học sinh hiểu bài hơn và vận dụng kiến thức vào giải bài
tập tốt hơn khi được học với giáo án điện tử. Kết quả đó có được một phần quan
trọng là do trong quá trình tổ chức tiết dạy, học sinh được tham gia nhiều hoạt động
hơn và hứng thú của các em đối với bài học cao hơn hẳn so với tiết dạy với giáo án
truyền thống. Cụ thể:

Tổng số
học sinh
Rất thích Thích Bình thường Không thích
138
số
lượng
tỉ lệ %
số
lượng
tỉ lệ %
số
lượng
tỉ lệ %
số
lượng
tỉ lệ %
114 82,6 17 12,3 4 2,9 2 1,5
Bảng 9: Mức độ hứng thú của học sinh trong các giờ học thực hành tu từ có ứng
dụng công nghệ thông tin
Biểu đồ thể hiện mức độ hứng thú của học sinh trong giờ học thực hành tu từ với
giáo án điện tử:
15
Biểu đồ 2: Mức độ hứng thú của học sinh trong giờ học thực hành tu từ với
giáo án điện tử.
Biểu đồ đã thể hiện rõ tỉ lệ học sinh thích thú với giáo án điện tử trong giờ học
thực hành tu từ chiếm đa số (82,6 %), số học sinh không thích rất ít (1,5 %). Khi
được hỏi về lí do học sinh thích giờ học, phần lớn các em trả lời một số lí do chính
như sau :
- giờ học mới mẻ, hấp dẫn, thú vị
- nhiều trang được thiết kế đẹp.

- Kiến thức rõ ràng, dễ hiểu
- Ngữ liệu phong phú
- Tạo sự thoải mái, hăng hái cho học sinh
- Có các trò chơi hay, thú vị
Về việc ghi bài của học sinh trong các giờ học thực hành tu từ có ứng dụng
công nghệ thông tin, tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau:
Tổng số
học sinh
Kịp, đầy đủ Tạm được Không kịp
138
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Số
lượng
Tỉ lệ %
112 81,2 % 25 18,1 % 1 1%
Bảng 7: Khả năng ghi bài của học sinh trong các giờ học thực hành tu từ có ứng
dụng công nghệ thông tin
16
Biểu đồ 3: khả năng ghi bài của học sinh trong giờ học thực hành tu từ với
giáo án điện tử.
Đa phần học sinh ghi bài kịp, đầy đủ (81,2 % ). Chúng tôi nhận thấy trong giờ
học với giáo án điện tử, những em học khá thường quan tâm hơn đến các tình
huống, bài tập của giáo viên, còn những em học chậm hơn thường chỉ chú ý ghi
bài, xem tất cả những gì được trình chiếu trên màn hình là kiến thức quan trọng và
cố gắng ghi hết. Chính lí do này khiến một số bạn đã không kịp ghi bài trong tiết
học đó. Điều này có thể lí giải là do những học sinh đó chưa có cách học tập phù
hợp, chưa biết chọn lọc kiến thức để ghi bài, còn thụ động, máy móc trong quá
trình học. Thực tế này đòi hỏi giáo viên khi thực hiện bài dạy cần có phương pháp
linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh.
Bên cạnh việc tìm hiểu, thu thập ý kiến từ học sinh, chúng tôi cũng thăm dò ý

kiến đánh giá của đồng nghiệp (cả giáo viên và sinh viên thực tập) về sự cần thiết
và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học dạng bài thực hành các
phép tu từ trong Văn 10. Kết quả như sau
Tổng
số
người
được
hỏi
Tính khả thi Tính cần thiết
Rất
khả thi
Khả thi
Không
Khả thi
Rất
Cần thiết
Cần thiết
Không
Cần thiết
SL
TL
%
SL
TL
%
SL
TL
%
SL
TL

%
SL
TL
%
SL
TL
%
10 8 80% 2 20% 0 0 7 70% 3 30% 0 0
Bảng 10 : Kết quả điều tra việc thiết kế sử dụng giáo án điện tử trong dạy học
dạng bài thực hành các phép tu từ
17
Bảng kết quả điều tra cho thấy việc dạy học dạng bài thực hành các phép tu từ
có ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng phương tiện dạy học hiện đại là rất
cần thiết và hoàn toàn khả thi, đáp ứng yêu cầu của việc dạy học theo tinh thần đổi
mới. Tất cả giáo viên trong tổ đều nhận thấy tính cần thiết và hiệu quả của việc sử
dụng giáo án điện tử trong dạy học dạng bài này. Nhiều giáo viên sau khi dự giờ đã
khẳng định sự tiện lợi của giáo án điện tử khi dạy học dạng bài thực hành môn Văn.
Đó là lợi thế tiết kiệm thời gian, giáo viên tung được nhiều ngữ liệu, bài học logic,
rõ ràng, gây được hứng thú cho học sinh, giờ học sôi động hơn.
Sau khi soạn và dạy 2 bài thực hành các phép tu từ trong chương trình Ngữ văn
10 có sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
Về bố cục bài dạy:
Từ thực tế và kinh nghiệm bản thân, chúng tôi mạnh dạn đưa ra bố cục cho
các bài học dạng bài thực hành tu từ trong chương trình Ngữ văn 10 gồm ba phần
(tương ứng với ba bước) chính sau đây:
Bước 1. Củng cố kiến thức
Ví dụ ở bài Thực hành các biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ, giáo viên phải
củng cố lại cho học sinh thế nào là ẩn dụ, thế nào là hoán dụ, các dạng ẩn, hoán dụ,
phân biệt giữa ẩn dụ với so sánh tu từ, phân biệt ẩn dụ tu từ với hoán dụ tu từ, …
Cách thức ôn tập là thông qua các bài tập thực hành có trong sách giáo khoa hoặc

các ngữ liệu do giáo viên đưa ra để học sinh nhớ lại kiến thức cũ. Chúng tôi xem
đây là nền tảng căn bản để học sinh bước vào phần thực hành chính của tiết học.
Nếu không có bước này, học sinh rất khó bước vào thực hành ngay như cách triển
khai bài học mà sách giáo khoa đã thể hiện.
Bước 2. Luyện tập
Phần lớn các bài học thực hành tiếng Việt, giáo viên có thể chia nhóm cho học
sinh thực hiện, sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét và chỉnh sửa. Để bài
học hấp dẫn và mới mẻ hơn, giáo viên cần chọn thêm những dạng bài tập thực hành
tương đương về độ khó, cùng dạng với sách giáo khoa để học sinh thực hiện, vừa
linh động, hấp dẫn, bởi học sinh làm, tránh được việc học sinh chép sách giải,…
18
Đặc biệt, giáo viên nên tổ chức một số trò chơi nhỏ có liên quan đến nội dung bài
học cho học sinh tham gia. Việc này một mặt rất hiệu quả trong việc củng cố kiến
thức vì nó rất phù hợp với tâm lí các em, kích thích được hứng thú học tập, mặt
khác giáo viên lại có thể tích hợp được kiến thức ở các mảng khác như văn học dân
gian, các văn bản đọc hiểu quen thuộc với học sinh hay các câu trên sách báo mà
các em tiếp xúc hàng ngày. Ngoài ra, cũng nên cho học sinh các bài tập về nhà,
xoáy trọng tâm vào phần tạo văn bản mới (có ứng dụng phần thực hành vừa làm
trên lớp).
Bước 3. Kết luận
Tuỳ theo từng bài thực hành chúng ta rút ra giá trị của phần kiến thức các em
vừa phân tích.
Ví dụ ở bài Thực hành biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ, cuối bài, giáo viên
cho học sinh khẳng định lại tác dụng của việc sử dụng các phép tu từ ẩn, hoán dụ
trong văn chương và trong đời sống bằng cách hỏi cho một học sinh phát biểu hoặc
giáo viên đặt vấn đề cho các em suy nghĩ thông qua việc yêu cầu các em tiếp tục
tìm và đặt các ví dụ về các phép tu từ vừa học.
Về cách thức tiến hành
Giờ thực hành học sinh phải làm việc nhiều hơn tiết học tiếp thu kiến thức
bình thường. Học sinh phải chuẩn bị bảng phụ, chuẩn bị ý kiến tham gia phát biểu

xây dựng bài, làm việc theo nhóm để củng cố và nâng cao kiến thức. Cã thÓ xem
đây cũng là một dạng thực hành nữa cho học sinh – thực hành phát biểu bày tỏ
quan điểm của cá nhân về một vấn đề đã được đặt ra. Do vậy, trong giờ học giáo
viên phải chú ý kích thích sự năng động, tích cực của học sinh bằng cách yêu cầu
các em chuẩn bị thật tốt cho tiết học. Ngoài các bài tập thực hành trong sách giáo
khoa, thầy cô nên hướng dẫn các em về xem lại kiến thức lí thuyết ở lớp dưới, tìm
thêm các ví dụ trong các văn bản đọc hiểu.
Khi soạn giáo án, các thầy cô nên chú trọng đến tính thực tế trong những ví
dụ, trong các bài tập sao cho vừa gần gũi với học sinh, vừa đảm bảo tính “đồng
dạng” về “chất” so với các bài tập mà SGK đưa ra. Linh động thực hiện cách chia
19
nhóm để học sinh thực hành, liên tục điều chỉnh các nhóm khi cần thiết đảm bảo
cho tất cả các học sinh đều làm việc, tránh tình trạng độc giảng, nặng nề, ít hiệu
quả và gây nhàm chán.
Trước khi lên lớp, giáo viên cần dự tính trước và cố gắng tinh gọn lượng
kiến thức cần trình chiếu lên máy, tránh trường hợp lượng câu chữ trên máy quá dài
dòng khiến học sinh quá chú tâm ghi chép mà không kịp theo dõi lời giáo viên
giảng giải hay ý kiến của các bạn. Và sẽ rất sai lầm nếu như ai đó lạm dụng máy
chiếu để phô bày hết những tư liệu mà mình tìm được về bài học. Trong vốn tư liệu
mình có, giáo viên cần chọn lọc những tư liệu cơ bản nhất, không nên đưa ra nhiều
tranh ảnh hay đoạn phim làm phân tán sự chú ý của học sinh. Khi soạn bài, cần chú
ý hệ thống đề mục, ý lớn, ý nhỏ phải thống nhất với nhau về cỡ chữ, màu chữ và
hiệu ứng trình chiếu để tạo tính mạch lạc, logíc cho bài và học sinh tiện theo dõi.
Khi sử dụng các phầm mềm thiết kế giáo án điện tử phải thận trọng, cân nhắc để
lựa chọn các hiệu ứng phù hợp về màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ, cách chạy chữ, thiết
kế màn hình, âm thanh phải phù hợp. Tuy nhiên, cần chú ý không làm cho học sinh
vì quá chú ý vào sự “trình diễn” của câu chữ mà mất tập trung, lãng phí thời gian.
Số lượng slide không nên quá ít hoặc quá nhiều (ví dụ một tiết dạy chỉ dùng có vài
ba slide hoặc ngược lại dùng đến ba bốn chục slide).
Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, giáo viên tránh thao tác quá

nhanh, học sinh không kịp chép bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến
thức và mức độ hiểu bài của các em không cao.
Máy chiếu đặc biệt hiệu quả khi chúng ta tổ chức giờ học theo phương pháp
hoạt động nhóm. Nhiệm vụ của các nhóm sẽ được trình chiếu rõ ràng trên máy. Kết
quả hoạt động của nhóm cũng được chiếu hắt lên màn hình. Đáp án giáo viên đưa
ra cuối cùng cũng thế. Như vậy vừa tiết kiệm thời gian tiết học vừa giúp học sinh
quan sát, thảo luận và đánh giá bài của nhau tốt hơn. Trong quá trình giảng dạy,
giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài
của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời.
Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng công nghệ thông tin chỉ là một
phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo
dục con người không thể “công nghệ hóa” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục
20
không thể quy trình hóa được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục
thẩm mỹ Xác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng
là độc tôn, là duy nhất.
Ngoài ra, qua phiếu điều tra từ các học sinh đã học bài thực hành các phép tu
từ với giáo án điện tử, chúng tôi còn nhận thấy một số nguyện vọng của học sinh có
thể gợi ý cho giáo viên trong cách soạn giáo án và chuẩn bị tiết học như sau:
Vì năng lực tiếp thu bài ở học sinh trong một lớp khác nhau nên thái độ và
cách thích nghi của các em với giờ học có ứng dụng công nghệ thông tin khác
nhau. Nếu giáo viên ý thức rõ điều này và trong quá trình soạn bài, giảng dạy có
cách tổ chức phù hợp, điều chỉnh tiến độ giờ học một cách hợp lí thì sẽ đáp ứng
được mong muốn của từng học sinh và hiệu quả giờ học sẽ cao hơn hẳn. Tất nhiên,
để làm được điều này, mỗi người cần có năng lực chuyên môn, hiểu học sinh và
đặc biệt làm chủ giờ dạy, thành thục trong việc sử dụng công nghệ thông tin. Trong
khuôn khổ một tiết học, đặc biệt là các bài thực hành, cần cố gắng đa dạng hoá các
hoạt động học tập, khai thác tối đa năng lực của học sinh. Ngoài các bài tập yêu cầu
học sinh hoạt động cá nhân, trao đổi cặp, hoạt động nhóm, rất nên có các trò chơi
nhỏ có sự thi đua giữa các đội (ví dụ thi kể các thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có sử

dụng phép đối, thi tìm các câu ca dao, văn thơ có sử dụng phép ẩn dụ, ). Tác dụng
của hoạt động này rất lớn, vừa giúp học sinh củng cố kiến thức lí thuyết, cung cấp
nhiều ngữ liệu về bài học và khiến các em hứng thú với bài học, gợi hướng cho các
em tìm tòi mở rộng hiểu biết về các phép tu từ và các câu văn thơ, ca dao, tục ngữ.
Mặc dù đa phần các em thích học giờ học thực hành tu từ có ứng dụng công
nghệ thông tin nhưng không có nghĩa là các em đã hoàn toàn hài lòng, thoả mãn
với những gì đã có. Nhiều em bày tỏ nguyện vọng có thêm nhiều giờ học như thế
nữa, rồi mong muốn được tiếp cận với nhiều ngữ liệu phong phú hơn, các trang
được thiết kế đẹp hơn, đặc biệt nhiều em muốn được tham gia các trò chơi liên
quan đến bài học. Đây chính là những gợi ý quý báu cho bản thân tôi và các đồng
nghiệp trong quá trình thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Văn
nói chung, dạng bài thực hành các phép tu từ nói riêng.
Trong quá trình tổ chức dạy học, giáo viên nên lưu ý cho các em cách ghi
bài, không nên để các em ghi lại tất cả những gì có trên bảng chiếu. Cũng có thể
21
chọn các thiết kế, hiệu ứng riêng để đánh dấu các phần quan trọng cần ghi chép cho
học sinh.
PHẦN III: KẾT LUẬN
3.1. KẾT LUẬN:
Từ thực tế những kết quả thu được, chúng tôi tin tưởng rằng tổ chức dạy học
dạng bài thực hành các phép tu từ với giáo án điện tử là hoàn toàn khả thi và hiệu
quả, thực sự góp phần nâng cao chất lượng dạy học phần Tiếng Việt trong Ngữ văn
10. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, những kết quả thu được mang tính chất
khẳng định tính khả thi của đề tài và khích lệ động viên tác giả tiếp tục thực
nghiệm và nghiên cứu sâu hơn trong thời gian tới tại đơn vị mình. Tuy nhiên,
những gì chúng tôi đạt được ở đây cũng chỉ là kết quả thực nghiệm bước đầu, chưa
phải là kết quả cuối cùng để đi đến một kết luận khoa học – hi vọng các đề tài
nghiên cứu rộng và sâu hơn của các bạn đồng nghiệp và của các nhà giáo dục sẽ
tìm hiểu kĩ và sâu hơn về vấn đề này.
Những thể nghiệm của bả tôi trong 2 bài dạy này thực sự mới chỉ là bước

khai phá ban đầu trong một công việc còn mới mẻ và lí thú. Trong bài dạy này, việc
sử dụng vào dạy học mới chỉ dừng lại ở sự chuẩn bị của giáo viên, chưa phát huy
được năng lực về công nghệ thông tin của học sinh. Do vậy, sự tích cực chủ động
của học sinh chưa được khai thác tối đa. Mặt khác, do hạn chế về thời gian và khả
năng sử dụng các phần mềm soạn giáo án điện tử nên có những ý tưởng mà người
soạn còn chưa thực hiện được. Để nâng cao hiệu quả của giờ học sử dụng công
nghệ thông tin, chúng ta cần nhiều điều kiện từ cơ sở vật chất cũng như năng lực
của giáo viên và học sinh.
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Để nâng cao chất lượng hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn nói chung, dạng bài thực hành các phép
tu từ trong ngữ văn 10 nói riêng, tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
3.3.1. Về phía các cấp lãnh đạo
22
Nhằm khuyến khích giáo viên tích cực tiếp cận và ứng dụng công nghệ
thông tin góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn, các cấp lãnh đạo cần
có chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong công việc. Ví dụ
sở giáo dục cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường triển khai ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, mỗi năm cần tổ chức hội thi giáo viên sử dụng công
nghệ giỏi để kích thích lòng đam mê sáng tạo phục vụ cho sự nghiệp giáo dục; nhà
trường cần tổ chức các phong trào thi đua giảng dạy bằng phương tiện hiện đại, có
tổng kết, biểu dương, khen thưởng nhằm tạo thêm khí thế sôi nổi và để những giáo
viên còn e ngại có những bước đi mạnh dạn hơn, đặc biệt là giáo viên đó có tuổi và
giáo viên mới vào nghề. Đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, trao đổi kinh nghiệm
giữa các giáo viên, từ đó đề xuất với chuyên môn những giải pháp góp phần nâng
cao trình độ tin học cho giáo viên, có chế độ đãi ngộ cho những giáo viên có bài
giảng điện tử có giá trị, tích cực lao động sáng tạo trong nghề, đồng thời đầu tư cơ
sở vật chất phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy… Ngoài ra,
các trường cần trang bị phòng đa năng và đầu tư đồng bộ như: máy chiếu, máy
quay, máy chụp, nối mạng, … dự phòng kinh phí cho sửa chữa nâng cấp phần

cứng, phần mềm giáo dục, các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục sớm đưa ra
tiêu chí đánh giá tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin, chuẩn bài giảng điện tử
để có cơ sở thẩm định, tạo ra ngân hàng bài giảng điện tử có chất lượng
3.3.2. Về phía tổ chuyên môn
Các tổ chuyên môn cần có sự quan tâm nhiều hơn đến việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học Ngữ văn, đặc biệt là các bài thực hành thuộc phân
môn Tiếng Việt. Trong việc chỉ đạo chuyên môn, ngay từ đầu năm, tổ trưởng cần
có kế hoạch hướng dẫn các tổ viên học tập và thực hành việc soạn và dạy giáo án
điện tử. Cũng có thể thực hiện chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong các
bài thực hành thuộc phân môn Tiếng Việt để các thành viên rèn luyện, trao đổi học
hỏi kinh nghiệm.
Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn ngữ văn, kho tư liệu là điều
kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng. Nhưng hiện nay ở môn học này, các đồ dùng
trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa không nhiều.
Riêng dạng bài thực hành Tiếng Việt lại càng nghèo nàn về tư liệu. Chính vì vậy
bản thân giáo viên phải chú trọng xây dựng thư viện tư liệu phục vụ tốt cho công
23
tác giảng dạy. Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo
tài liệu, sách, báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn.
hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên xây dựng thư viện tư
liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước
đây. Việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn: khai thác thông tin, tranh, ảnh,
tư liệu bài giảng từ mạng internet, khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp
chí khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ, hình
vẽ thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu
phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ
thành từng file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng.
Hiện nay, trên mạng thư viện điện tử dành cho giáo viên đã có thư viện tư liệu,
tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng tìm được tư liệu cần thiết cho mình do

khối lượng tư liệu ở đó khá bề bộn, chưa được sắp xếp khoa học. Do vậy, các
trường phổ thông, đặc biệt là các tổ chuyên môn nên thành lập cho mình một thư
viện riêng. Các giáo viên sẽ là những thành viên sáng lập và sử dụng thư viện này.
Vì là thư viện “của mình” và “do mình” nên chắc chắn nó sẽ rất gần gũi và thiết
thực với hoạt động chuyên môn của từng giáo viên và cả tổ.
3.2.3. Hướng dẫn học sinh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ học
tập.
Những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trên tất cả
các lĩnh vực tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của học
sinh. nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo nhiều phần mềm vi
tính. đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là tính năng động, sáng tạo và
yêu thích cái mới. do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng công nghệ thông tin
phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong
giáo dục thời đại hiện nay.
Đây là công việc khó khăn và phức tạp, đòi hỏi những nỗ lực của giáo viên
và đặc biệt là năng lực về tin học của học sinh. mặt khác, cũng yêu cầu cao về cơ sở
vật chất của nhà trường. tuy nhiên, tôi vẫn hi vọng trong thời gian sớm nhất, chúng
24
ta có thể thực hiện được để việc dạy học văn, đặc biệt là dạng bài thực hành các
phép tu từ trong chương trình văn 10 trở nên thú vị và hiệu quả hơn.
Tiếng việt là một phân môn khoa học hấp dẫn, đa dạng nhưng không dễ để
tiếp nhận, nhất là đối với trình độ học sinh phổ thông và thời lượng cho phép.
Chúng ta, những thầy cô giáo phải làm sao để học sinh luôn luôn có ý thức trong
việc lĩnh hội kiến thức cũng như khi sử dụng tiếng nói và chữ viết để giao tiếp. việc
sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào dạy học thực hành các phép tu từ
trong chương trình ngữ văn 10 là hoàn toàn khả thi và góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học văn, giúp công việc của người giáo viên thuận lợi hơn. Để nâng cao chất
lượng giờ học, người giáo viên phải thành thạo và nhuần nhuyễn khi thực hiện các
thao tác, đồng thời biết kết hợp uyển chuyển giữa phát vấn, đặt vấn đề cho học sinh
thảo luận với giảng bài và chốt các kiến thức cần nhớ bằng máy chiếu. Chúng tôi

tin rằng với lòng nhiệt huyết, sự sáng tạo và quyết tâm, các thầy cô giáo ngữ văn sẽ
thực hiện được ý tưởng của mình trong dạy học môn văn nói chung, phần tiếng việt
nói riêng, góp phần bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt trong thế hệ trẻ hôm nay. Đó
cũng chính là điểm thể hiện nỗ lực của các thầy cô để xứng đáng là một tấm gương
trong tự học và sáng tạo.
25

×